SÁNG THẾ
1 Ban đầu Đức Chúa Trời tạo ra trời và đất.+
2 Bấy giờ, đất không có hình dạng rõ rệt và trống không, sự tối tăm bao trùm mặt nước sâu,+ thần khí* của Đức Chúa Trời+ chuyển động qua lại trên mặt nước.+
3 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có ánh sáng”. Thế là có ánh sáng.+ 4 Đức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt lành, và ngài bắt đầu phân cách sáng với tối. 5 Đức Chúa Trời gọi sáng là Ngày, còn tối là Đêm.+ Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ nhất.
6 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có một khoảng không+ giữa các khối nước, và hãy có sự phân cách giữa khối nước này với khối nước kia”.+ 7 Đức Chúa Trời bèn làm nên khoảng không và phân cách khối nước ở dưới khoảng không với khối nước ở trên khoảng không.+ Thế là có như vậy. 8 Đức Chúa Trời gọi khoảng không là Trời. Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ nhì.
9 Đức Chúa Trời phán: “Nước ở dưới trời hãy tụ lại một nơi, và phần cạn hãy lộ ra”.+ Thế là có như vậy. 10 Đức Chúa Trời gọi phần cạn là Đất,+ còn phần nước tụ lại là Biển.+ Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.+ 11 Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Đất hãy mọc lên cỏ, cây có hạt, cây ăn trái tùy theo loài mà ra trái cùng hạt”. Thế là có như vậy. 12 Đất bắt đầu sinh cỏ, cây có hạt+ và cây ra trái cùng hạt, tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 13 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ ba.
14 Đức Chúa Trời phán: “Hãy có các vì sáng+ trong khoảng không của trời để phân cách ngày với đêm;+ chúng sẽ làm dấu hiệu chỉ mùa, ngày và năm.+ 15 Chúng sẽ là những vì sáng trong khoảng không của trời để chiếu sáng trái đất”. Thế là có như vậy. 16 Đức Chúa Trời đặt* hai vì sáng lớn, vì lớn hơn cai trị ban ngày+ và vì nhỏ hơn cai trị ban đêm; ngài cũng đặt các vì sao.+ 17 Vậy, Đức Chúa Trời đặt chúng trong khoảng không của trời để chiếu sáng trái đất 18 và cai trị ban ngày cùng ban đêm, cũng như để phân cách sáng với tối.+ Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 19 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ tư.
20 Đức Chúa Trời phán: “Nước hãy có đầy tràn vật* sống; còn các loài vật biết bay hãy bay bên trên đất, trong khoảng không của trời”.+ 21 Rồi Đức Chúa Trời dựng nên các tạo vật lớn dưới biển cùng mọi vật sống chuyển động nhung nhúc trong nước tùy theo loài và mọi tạo vật có cánh biết bay tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. 22 Đức Chúa Trời ban phước cho chúng mà phán rằng: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều cho đầy biển;+ các loài vật biết bay hãy gia tăng nhiều trên đất”. 23 Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ năm.
24 Đức Chúa Trời phán: “Đất hãy sản sinh các vật* sống tùy theo loài, súc vật, loài vật bò trên đất* và động vật hoang dã tùy theo loài”.+ Thế là có như vậy. 25 Đức Chúa Trời làm ra động vật hoang dã tùy theo loài, súc vật tùy theo loài, và tất cả loài vật bò trên đất tùy theo loài. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.
26 Sau đó, Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta+ hãy làm nên con người theo hình ảnh chúng ta,+ giống như chúng ta,+ để quản trị cá dưới biển, loài vật bay trên trời, súc vật và mọi loài vật bò trên đất, cùng cả đất”.+ 27 Đức Chúa Trời bèn tạo ra con người theo hình ảnh ngài, ngài tạo ra con người theo hình ảnh Đức Chúa Trời; ngài tạo ra người nam và người nữ.+ 28 Đức Chúa Trời cũng ban phước cho họ và phán: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều, làm cho đầy cả đất+ và quản trị nó;+ hãy quản trị+ cá dưới biển, loài vật bay trên trời cùng mọi sinh vật chuyển động trên đất”.
29 Đức Chúa Trời phán: “Này ta ban cho các con mọi cây cỏ có hạt trên khắp đất, cùng mọi cây ra trái có hạt. Chúng dùng làm thức ăn cho các con.+ 30 Ta cũng ban hết thảy cây cỏ làm thức ăn cho mọi động vật hoang dã trên đất, cho mọi loài vật bay trên trời cùng mọi vật chuyển động trên đất, là vật có sự sống”.+ Thế là có như vậy.
31 Sau đó, Đức Chúa Trời thấy mọi vật ngài làm nên quả thật đều rất tốt lành!+ Vậy có buổi tối và buổi sáng, đó là ngày thứ sáu.
2 Như thế, trời đất cùng vạn vật trong đó* được hoàn tất.+ 2 Đến ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời đã hoàn tất công việc ngài làm, và bắt đầu từ ngày thứ bảy thì ngài nghỉ mọi công việc ngài làm.+ 3 Đức Chúa Trời ban phước cho ngày thứ bảy và tuyên bố ngày ấy là ngày thánh, vì vào ngày ấy, ngài nghỉ mọi công việc sáng tạo; ngài đã tạo ra mọi thứ ngài dự định làm.
4 Đây là lịch sử của trời và đất vào thời chúng được sáng tạo, vào ngày mà Giê-hô-va* Đức Chúa Trời làm nên trời và đất.+
5 Trên đất chưa có bụi rậm và cây cối nào khác mọc lên, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chưa làm mưa xuống trên đất và cũng chưa có con người để cày cấy đất đai. 6 Tuy nhiên, có hơi nước từ dưới đất bốc lên, thấm đẫm khắp mặt đất.
7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy bụi đất+ nắn nên con người và hà hơi sống+ vào mũi, thì người trở thành một người* sống.+ 8 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng trồng một khu vườn ở Ê-đen,+ về hướng đông, rồi đặt người mà ngài vừa nắn nên+ vào đó. 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm đất mọc lên mọi loài cây đẹp mắt và ăn ngon, cũng như cây sự sống+ ở giữa vườn cùng cây biết điều thiện và điều ác.+
10 Có một con sông ra từ Ê-đen để cung cấp nước cho vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh. 11 Tên nhánh thứ nhất là Bi-sôn, bao quanh cả vùng Ha-vi-la, là nơi có vàng. 12 Vàng của vùng đó rất tốt. Ở đó cũng có nhựa thơm và hắc mã não. 13 Tên nhánh thứ nhì là Ghi-hôn, bao quanh cả vùng Cút-sơ. 14 Tên nhánh thứ ba là Hi-đê-ke,*+ chảy về hướng đông xứ A-si-ri.+ Nhánh thứ tư là Ơ-phơ-rát.+
15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho người đàn ông ở trong vườn Ê-đen để trồng trọt và chăm sóc vườn.+ 16 Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng truyền cho ông mệnh lệnh này: “Con được ăn thỏa thuê mọi cây trong vườn.+ 17 Nhưng về cây biết điều thiện và điều ác, con không được phép ăn, vì vào ngày con ăn, chắc chắn con sẽ chết”.+
18 Bấy giờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời nói: “Người đàn ông ở một mình mãi thì không tốt. Ta sẽ làm nên một người giúp đỡ, một người bổ trợ cho nó”.+ 19 Lúc ấy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đang lấy bụi đất nắn nên mọi động vật hoang dã, mọi loài vật bay trên trời. Ngài mang chúng đến cho người đàn ông để xem ông đặt tên gì cho từng con; hễ ông đặt cho mỗi con vật* sống tên nào thì đó là tên nó.+ 20 Thế là người đàn ông đặt tên cho mọi súc vật, các loài vật bay trên trời và mọi động vật hoang dã. Tuy nhiên, về phần người đàn ông thì không có người giúp đỡ, bổ trợ cho mình. 21 Vì thế, Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến người đàn ông ngủ mê, và trong khi ông ngủ, ngài lấy một xương sườn của ông rồi làm cho thịt chỗ đó liền lại. 22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời dựng nên một người nữ từ xương sườn mà ngài đã lấy nơi người đàn ông, rồi đem nàng đến cho ông.+
23 Người đàn ông bèn nói:
“Này đây, xương từ xương ta,
Thịt từ thịt ta!
Nàng sẽ được gọi là Người Nữ,
Vì do nơi người nam mà ra”.+
24 Vì vậy, người nam sẽ rời cha mẹ và gắn bó với vợ mình, hai người sẽ trở nên một.*+ 25 Thời ấy, người đàn ông và vợ đều trần truồng+ nhưng không ngượng ngùng.
3 Trong tất cả các loài động vật hoang dã mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, rắn+ là loài dè dặt nhất. Nó hỏi người nữ: “Có thật Đức Chúa Trời phán rằng các người không được phép ăn mọi cây trong vườn không?”.+ 2 Người nữ đáp lời con rắn: “Chúng tôi được ăn trái của các cây trong vườn.+ 3 Nhưng Đức Chúa Trời có dặn về trái của cây ở giữa vườn+ rằng: ‘Các con không được phép ăn, cũng không được phép đụng đến nó. Nếu làm thế, các con sẽ chết’”. 4 Rắn bèn nói với người nữ: “Các người sẽ không chết đâu.+ 5 Đức Chúa Trời biết rằng vào chính ngày các người ăn trái của cây ấy, mắt sẽ mở ra và các người sẽ giống như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác”.+
6 Thế là người nữ thấy cây đó vừa có trái ăn ngon vừa trông rất thu hút, phải, nó thật đẹp mắt. Bà bèn hái trái và ăn.+ Rồi khi có chồng bên cạnh, bà đưa cho ông và ông cũng ăn nữa.+ 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, họ nhận thấy mình trần truồng. Vì vậy, họ kết lá vả buộc quanh hông.+
8 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi qua vườn vào lúc chiều gió mát, người đàn ông và vợ nghe tiếng ngài thì nấp giữa các cây trong vườn để tránh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời. 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời gọi ông mãi: “Con đang ở đâu?”. 10 Cuối cùng ông thưa: “Con nghe tiếng ngài trong vườn, nhưng con sợ vì đang trần truồng, thế nên con nấp đi”. 11 Ngài phán: “Ai bảo cho con biết rằng con trần truồng?+ Con có ăn trái của cây mà ta đã truyền lệnh không được ăn không?”.+ 12 Người đàn ông thưa: “Người nữ mà ngài đặt bên con, chính nàng đã đưa con trái của cây ấy nên con ăn rồi”. 13 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn phán với người nữ: “Con đã làm gì vậy?”. Người nữ thưa: “Con rắn lừa con nên con ăn rồi”.+
14 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán với con rắn:+ “Vì đã làm thế, nên ngươi bị rủa sả trong mọi loài súc vật và động vật hoang dã. Ngươi sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất suốt đời. 15 Ta sẽ đặt mối thù+ giữa ngươi+ và người nữ,+ giữa dòng dõi ngươi+ và dòng dõi người nữ.+ Người* sẽ giày đạp* đầu ngươi,+ còn ngươi sẽ cắn* gót chân người”.+
16 Ngài phán với người nữ: “Ta sẽ tăng sự đau đớn của con trong kỳ thai nghén thêm bội phần, con sẽ sinh nở trong đau đớn. Chồng con sẽ là niềm khao khát của con, và chồng sẽ nắm quyền trên con”.
17 Về phần A-đam* thì ngài phán: “Vì con nghe theo lời vợ mà ăn trái của cây ta đã truyền lệnh+ rằng: ‘Con không được phép ăn’, nên đất bị rủa sả vì con.+ Suốt đời, con phải cực khổ mới có sản vật từ đất mà ăn.+ 18 Đất sẽ mọc lên gai góc, và con phải ăn cây cỏ ngoài đồng. 19 Con phải làm đổ mồ hôi trán mới có miếng ăn, cho đến khi con trở về đất, vì con từ đó mà ra.+ Con là bụi đất, con sẽ trở về bụi đất”.+
20 Sau đó, A-đam đặt tên vợ là Ê-va* vì bà sẽ trở thành mẹ của nhân loại.*+ 21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm áo dài bằng da thú để cho A-đam và vợ ông mặc.+ 22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán: “Nay con người đã trở nên giống như chúng ta, biết điều thiện và điều ác.+ Bây giờ, để con người không thể giơ tay hái luôn cả trái của cây sự sống+ mà ăn và sống mãi mãi...”. 23 Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn đuổi con người khỏi vườn Ê-đen+ để cày cấy đất, là nơi người từ đó mà ra.+ 24 Ngài đuổi con người ra, rồi đặt ở phía đông vườn Ê-đen các chê-rúp+ với lưỡi gươm rực lửa xoay không ngừng để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống.
4 Bấy giờ, A-đam ăn ở với vợ là Ê-va, và bà có thai.+ Khi sinh Ca-in,*+ bà nói: “Tôi đã sinh ra một con trai nhờ sự giúp đỡ của Đức Giê-hô-va”. 2 Bà lại sinh em trai của Ca-in là A-bên.+
A-bên trở thành người chăn bầy, còn Ca-in trở thành người canh tác đất đai. 3 Một thời gian sau, Ca-in đem một số sản vật từ đất dâng làm lễ vật cho Đức Giê-hô-va. 4 Còn A-bên thì đem một số con cừu đầu lòng trong bầy mình,+ kể cả mỡ của chúng. Đức Giê-hô-va hài lòng về A-bên và lễ vật của ông,+ 5 nhưng ngài không hài lòng về Ca-in và lễ vật của ông. Thế nên Ca-in tức giận và sầm nét mặt. 6 Đức Giê-hô-va bèn phán với Ca-in: “Vì sao con giận và sầm nét mặt? 7 Nếu trở lại làm điều lành, lẽ nào con không được lại ơn sao? Nhưng nếu con không trở lại làm điều lành thì tội lỗi rình rập trước cửa và thèm khống chế con lắm, nhưng con phải chế ngự nó”.
8 Ca-in nói với A-bên, em mình: “Chúng ta hãy đi ra đồng”. Rồi khi ở ngoài đồng, Ca-in xông đến đánh A-bên, em mình, và giết đi.+ 9 Sau đó, Đức Giê-hô-va hỏi Ca-in: “A-bên, em con, ở đâu?”. Ông trả lời: “Con không biết. Con là người giữ em con sao?”. 10 Ngài phán: “Con đã làm gì? Nghe này! Máu của em con từ đất kêu thấu đến ta.+ 11 Bây giờ con phải bị rủa sả là đi biệt xứ, rời khỏi đất đã hả miệng nuốt máu em con do tay con đổ ra.+ 12 Khi con canh tác đất đai, nó sẽ chẳng cho con hoa lợi.* Con sẽ là kẻ lang thang và lẩn trốn trên đất”. 13 Ca-in nói với Đức Giê-hô-va: “Hình phạt của con nặng quá, không sao gánh nổi. 14 Giờ ngài đuổi con khỏi vùng đất này,* con sẽ bị che khuất khỏi mặt ngài; con sẽ là kẻ lang thang và lẩn trốn trên đất, ai gặp chắc sẽ giết con”. 15 Đức Giê-hô-va bèn phán với ông: “Vì vậy, ai giết Ca-in sẽ bị báo thù bảy lần”.
Rồi Đức Giê-hô-va đặt ra một dấu cho Ca-in để ai gặp thì không giết ông. 16 Thế là Ca-in đi khỏi mặt Đức Giê-hô-va và đến cư ngụ ở xứ của Sự Lưu Đày,* phía đông vườn Ê-đen.+
17 Sau đó, Ca-in ăn ở với vợ,+ bà có thai và sinh Hê-nóc. Ca-in xây cất một cái thành và đặt tên theo tên con trai mình là Hê-nóc. 18 Về sau, Hê-nóc sinh Y-rát. Y-rát sinh Mê-hu-da-ên, Mê-hu-da-ên sinh Mê-tu-sa-ên, và Mê-tu-sa-ên sinh Lê-méc.
19 Lê-méc lấy hai vợ. Người thứ nhất tên A-đa, người thứ nhì tên Xi-la. 20 A-đa sinh Gia-banh, là ông tổ của những người sống trong lều và chăn nuôi gia súc. 21 Em trai ông là Giu-banh, là ông tổ của mọi người chơi đàn hạc và thổi sáo. 22 Còn Xi-la sinh Tu-banh-ca-in, người rèn mọi loại dụng cụ bằng đồng và sắt. Chị gái của Tu-banh-ca-in là Na-a-ma. 23 Lê-méc sáng tác các câu này cho hai vợ mình là A-đa và Xi-la:
“Hãy nghe tiếng tôi, này vợ Lê-méc;
Hãy lắng tai nghe lời tôi nói đây:
Tôi giết một người vì một vết thương,
Phải, một thanh niên, vì dám đánh tôi.
25 A-đam lại ăn ở với vợ và bà sinh một con trai. Bà đặt tên con là Sết,*+ vì bà nói: “Đức Chúa Trời đã sắp đặt một dòng dõi khác thế cho A-bên, vì Ca-in đã giết nó”.+ 26 Sết sinh một con trai, đặt tên là Ê-nót.+ Thời đó, người ta đã bắt đầu kêu danh Đức Giê-hô-va.
5 Đây là sách tường thuật về A-đam. Vào ngày Đức Chúa Trời tạo ra A-đam, ngài làm nên ông giống như Đức Chúa Trời.+ 2 Ngài tạo ra người nam và người nữ.+ Vào ngày họ được tạo ra,+ ngài ban phước cho họ và gọi là Người.*
3 A-đam được 130 tuổi thì sinh một con trai giống như ông, theo hình ảnh của ông, và đặt tên là Sết.+ 4 Sau khi sinh Sết, A-đam sống thêm 800 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 5 Vậy, A-đam hưởng thọ 930 tuổi, rồi qua đời.+
6 Sết được 105 tuổi thì sinh Ê-nót.+ 7 Sau khi sinh Ê-nót, Sết sống thêm 807 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 8 Vậy, Sết hưởng thọ 912 tuổi, rồi qua đời.
9 Ê-nót được 90 tuổi thì sinh Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót sống thêm 815 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 11 Vậy, Ê-nót hưởng thọ 905 tuổi, rồi qua đời.
12 Kê-nan được 70 tuổi thì sinh Ma-ha-la-ên.+ 13 Sau khi sinh Ma-ha-la-ên, Kê-nan sống thêm 840 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 14 Vậy, Kê-nan hưởng thọ 910 tuổi, rồi qua đời.
15 Ma-ha-la-ên được 65 tuổi thì sinh Gia-rết.+ 16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-ên sống thêm 830 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 17 Vậy, Ma-ha-la-ên hưởng thọ 895 tuổi, rồi qua đời.
18 Gia-rết được 162 tuổi thì sinh Hê-nóc.+ 19 Sau khi sinh Hê-nóc, Gia-rết sống thêm 800 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 20 Vậy, Gia-rết hưởng thọ 962 tuổi, rồi qua đời.
21 Hê-nóc được 65 tuổi thì sinh Mê-tu-sê-la.+ 22 Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Hê-nóc tiếp tục đồng đi với Đức Chúa Trời thật* trong 300 năm. Ông sinh con trai và con gái. 23 Vậy, Hê-nóc hưởng thọ 365 tuổi. 24 Hê-nóc luôn đồng đi với Đức Chúa Trời thật.*+ Rồi người ta không còn thấy ông nữa, vì Đức Chúa Trời đã đưa ông đi.+
25 Mê-tu-sê-la được 187 tuổi thì sinh Lê-méc.+ 26 Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la sống thêm 782 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 27 Vậy, Mê-tu-sê-la hưởng thọ 969 tuổi, rồi qua đời.
28 Lê-méc được 182 tuổi thì sinh một con trai. 29 Ông đặt tên con là Nô-ê*+ mà nói: “Đứa con này sẽ mang lại niềm an ủi khi chúng ta làm việc vất vả và tay làm lụng nhọc nhằn vì đất bị Đức Giê-hô-va rủa sả”.+ 30 Sau khi sinh Nô-ê, Lê-méc sống thêm 595 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái. 31 Vậy, Lê-méc hưởng thọ 777 tuổi, rồi qua đời.
32 Khi Nô-ê được 500 tuổi, ông sinh Sem,+ Cham+ và Gia-phết.+
6 Khi loài người bắt đầu gia tăng nhiều trên đất và sinh con gái, 2 các con trai của Đức Chúa Trời*+ để ý thấy con gái loài người xinh đẹp. Thế là hễ thích ai thì họ đều lấy làm vợ. 3 Đức Giê-hô-va phán: “Thần khí ta sẽ không chịu đựng loài người mãi,+ vì chúng chỉ là người phàm.* Vậy nên, thời gian của chúng sẽ là 120 năm”.+
4 Thời đó và thời sau có người Nê-phi-lim* trên đất, vì các con trai của Đức Chúa Trời cứ ăn ở với con gái loài người, rồi những người nữ này sinh cho họ các con trai. Chúng là những kẻ hùng mạnh thời xưa, những kẻ nổi danh.
5 Thế nên, Đức Giê-hô-va thấy sự gian ác của loài người nhiều quá đỗi trên đất, mọi tư tưởng trong lòng họ lúc nào cũng chỉ hướng về điều xấu xa.+ 6 Đức Giê-hô-va lấy làm tiếc* vì đã dựng nên con người trên đất và cảm thấy buồn rầu trong lòng.+ 7 Vì vậy Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ xóa sạch khỏi đất những người mà ta đã tạo ra, cả người lẫn súc vật, loài vật bò trên đất cùng loài vật bay trên trời, vì ta lấy làm tiếc là đã dựng nên chúng”. 8 Nhưng Nô-ê được ơn trước mắt Đức Giê-hô-va.
9 Đây là lời tường thuật về Nô-ê.
Nô-ê là người công chính.+ Ông sống trọn vẹn giữa những người cùng thời. Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời thật.+ 10 Với thời gian, Nô-ê sinh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết.+ 11 Bấy giờ, trái đất đã trở nên bại hoại trước mắt Đức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung bạo. 12 Quả vậy, Đức Chúa Trời nhìn xuống trái đất, và kìa, nó đã bại hoại;+ cả loài xác thịt* đã làm bại hoại đường lối mình trên đất.+
13 Sau đó, Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Ta quyết định diệt cả loài xác thịt, vì do chúng mà trái đất đầy dẫy sự hung bạo. Vậy ta sẽ diệt chúng và tàn phá đất.+ 14 Con hãy đóng một chiếc tàu* bằng gỗ của cây cho nhựa.+ Hãy đóng thành từng gian rồi phủ nhựa đen*+ cả bên trong lẫn bên ngoài. 15 Con phải làm như thế này: Chiều dài tàu 300 cu-bít, chiều rộng 50 cu-bít và chiều cao 30 cu-bít.* 16 Con hãy làm một cửa sổ* cách nóc tàu một cu-bít để có ánh sáng vào tàu. Con phải làm cửa ra vào ở bên hông tàu,+ làm tầng dưới, tầng giữa và tầng trên.
17 Còn ta, ta sẽ giáng nước lụt+ trên đất để hủy diệt mọi loài xác thịt có hơi sống* dưới bầu trời. Mọi vật trên đất đều sẽ chết hết.+ 18 Nay ta lập giao ước với con; con phải vào tàu, cả con và các con trai, vợ con và các con dâu.+ 19 Hãy mang vào tàu mọi loài sinh vật,+ mỗi loài hai con, có đực có cái,+ để chúng được bảo tồn sự sống cùng với con; 20 các loài vật biết bay tùy theo loài, súc vật tùy theo loài và mọi loài vật bò trên đất tùy theo loài, mỗi loài hai con sẽ đến với con mà vào tàu để được bảo tồn sự sống.+ 21 Về phần con, con phải thâu trữ và mang theo mọi loại thức ăn+ để làm lương thực cho con và các loài vật”.
22 Nô-ê làm theo mọi điều Đức Chúa Trời đã phán dặn. Ông làm y như vậy.+
7 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán với Nô-ê: “Con và cả nhà con hãy vào tàu, vì ta nhận thấy con là người công chính giữa thế hệ này.+ 2 Về mọi loài thú tinh sạch, con phải mang theo mỗi loài bảy con,*+ có đực có cái; về mọi loài thú không tinh sạch thì mỗi loài chỉ hai con, có đực có cái; 3 còn về các loài vật bay trên trời thì bảy con,* có đực có cái, có trống có mái, để bảo tồn nòi giống của chúng trên đất.+ 4 Chỉ bảy ngày nữa, ta sẽ làm mưa+ trên đất trong 40 ngày và 40 đêm,+ xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật ta đã làm nên”.+ 5 Nô-ê làm theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn.
6 Nô-ê được 600 tuổi khi trận nước lụt xảy ra trên đất.+ 7 Nô-ê cùng các con trai, vợ mình và các con dâu vào tàu trước trận nước lụt.+ 8 Mọi loài vật tinh sạch, mọi loài vật không tinh sạch, mọi loài vật biết bay cùng mọi loài vật chuyển động trên đất+ 9 đều đến với Nô-ê mà vào tàu, theo từng cặp, có đực có cái, có trống có mái, y như Đức Chúa Trời đã phán dặn Nô-ê. 10 Bảy ngày sau, nước lụt ập đến trên đất.
11 Vào năm thứ sáu trăm của đời Nô-ê, tháng thứ hai, ngày 17, hết thảy các nguồn nước trên trời vỡ tung và các cửa trên trời mở ra.+ 12 Mưa trút xuống đất suốt 40 ngày và 40 đêm. 13 Chính ngày đó, Nô-ê đã vào tàu cùng với các con trai là Sem, Cham và Gia-phết,+ vợ và ba con dâu.+ 14 Họ đã vào tàu cùng với mọi động vật hoang dã tùy theo loài, mọi súc vật tùy theo loài, mọi loài vật bò trên đất tùy theo loài, mọi loài vật biết bay tùy theo loài, tức mọi loài chim và mọi loài có cánh. 15 Chúng đã đến với Nô-ê mà vào tàu, theo từng cặp, tức là mọi loài xác thịt có hơi sống.* 16 Mọi loài xác thịt đã vào tàu, có đực có cái, có trống có mái, y như lời Đức Chúa Trời phán dặn ông. Sau đó, Đức Giê-hô-va đóng cửa tàu lại.
17 Trận lụt kéo dài 40 ngày, nước ngày càng dâng cao và nâng chiếc tàu lên, nên tàu nổi cao bên trên mặt đất. 18 Nước tràn ngập trên đất và tiếp tục dâng rất cao, còn chiếc tàu thì nổi trên mặt nước. 19 Nước tràn trên đất nhiều đến nỗi ngập hết tất cả các ngọn núi cao dưới bầu trời.+ 20 Nước dâng lên cao hơn các ngọn núi đến 15 cu-bít.*
21 Thế là mọi sinh vật chuyển động trên đất đều bị diệt,+ tức các loài vật biết bay, súc vật, động vật hoang dã, các loài vật nhỏ nhung nhúc và toàn thể loài người.+ 22 Mọi loài vật trên cạn, có hơi sống* nơi mũi, đều chết hết.+ 23 Đức Chúa Trời xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật, từ người cho đến thú vật, loài vật bò trên đất và các loài vật bay trên trời. Tất cả đều bị xóa sạch khỏi đất,+ chỉ Nô-ê cùng với người và loài vật ở trong tàu với ông được sống sót.+ 24 Nước ngập khắp đất suốt 150 ngày.+
8 Nhưng rồi Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê cùng mọi động vật hoang dã và súc vật đang ở trong tàu với ông;+ Đức Chúa Trời khiến một ngọn gió thổi trên đất, và nước bắt đầu rút xuống. 2 Các nguồn nước cùng các cửa trên trời đều đóng lại, và mưa ngừng rơi.+ 3 Nước bắt đầu rút dần khỏi mặt đất. Sau 150 ngày, nước đã rút xuống nhiều. 4 Vào tháng thứ bảy, ngày 17, chiếc tàu tấp trên rặng núi A-ra-rát. 5 Nước cứ hạ dần cho đến tháng thứ mười. Vào tháng thứ mười, nhằm ngày mùng một, các đỉnh núi xuất hiện.+
6 Sau 40 ngày, Nô-ê mở cửa sổ+ mà trước kia ông làm trên tàu 7 và thả một con quạ ra. Nó cứ bay đi rồi lại bay về cho đến khi nước trên đất cạn bớt.
8 Sau đó, ông thả một con bồ câu ra để xem nước đã rút hết khỏi mặt đất chưa. 9 Bồ câu không tìm được chỗ đậu vì nước vẫn còn bao phủ khắp mặt đất,+ nó bèn bay về tàu với Nô-ê. Ông đưa tay ra đón và mang bồ câu vào tàu. 10 Ông đợi thêm bảy ngày rồi lại thả bồ câu ra. 11 Khi bồ câu trở về với Nô-ê lúc chiều tối, kìa, mỏ nó ngậm một lá ô-liu mới bẻ! Vậy ông biết nước đã rút khỏi mặt đất.+ 12 Ông đợi thêm bảy ngày nữa rồi thả bồ câu ra, nhưng lần này nó không bay về.
13 Đến năm thứ sáu trăm lẻ một,+ tháng thứ nhất, ngày mùng một, nước rút hết khỏi mặt đất; Nô-ê dỡ mái che tàu ra và thấy mặt đất đang khô dần. 14 Đến tháng thứ hai, ngày 27, mặt đất đã khô hẳn.
15 Bấy giờ Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: 16 “Con, vợ con, các con trai và các con dâu+ hãy ra khỏi tàu. 17 Hãy mang ra với con tất cả sinh vật thuộc mọi loài xác thịt,+ thuộc các loài vật biết bay, thú vật và mọi loài vật bò trên đất, để chúng tăng thêm gấp bội, sinh sản và gia tăng nhiều trên đất”.+
18 Thế là Nô-ê cùng các con trai,+ vợ và các con dâu ra khỏi tàu. 19 Mọi loài thú, mọi loài vật bò trên đất và mọi loài vật biết bay, mọi loài vật chuyển động trên đất, đều ra khỏi tàu theo từng nhóm.+ 20 Rồi Nô-ê dựng một bàn thờ+ cho Đức Giê-hô-va, ông lấy một số con trong các loài thú tinh sạch và các loài vật tinh sạch biết bay+ để dâng làm lễ vật thiêu trên bàn thờ.+ 21 Đức Giê-hô-va ngửi thấy một mùi thơm dễ chịu. Thế nên Đức Giê-hô-va nghĩ thầm trong lòng: “Ta sẽ không bao giờ vì con người mà rủa sả đất nữa,+ bởi lòng con người từ thuở nhỏ đã hướng về điều xấu xa;+ và ta sẽ không bao giờ hủy diệt mọi sinh vật như ta đã làm.+ 22 Từ nay trở đi, đất sẽ không bao giờ ngừng có mùa gieo giống và thu hoạch, thời tiết lạnh và nóng, mùa hè và mùa đông, ngày và đêm”.+
9 Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê cùng các con ông và phán với họ: “Hãy sinh sản và gia tăng nhiều, làm cho đầy cả đất.+ 2 Mọi loài thú trên đất cùng mọi loài vật bay trên trời, mọi loài vật chuyển động trên đất cùng mọi loài cá dưới biển sẽ tiếp tục sợ sệt và kinh hãi các con. Giờ đây, chúng được giao vào tay các con.*+ 3 Mọi động vật có sự sống có thể dùng làm thức ăn cho các con.+ Ta ban mọi vật ấy như đã ban cây cỏ.+ 4 Nhưng các con không được phép ăn thịt còn máu, tức là còn sự sống.*+ 5 Ngoài ra, ta sẽ đòi phải đền máu của sinh mạng* các con. Ta sẽ đòi mỗi con vật đền lại, cũng đòi mỗi người đền lại sinh mạng anh em mình.+ 6 Hễ ai làm đổ máu người thì sẽ bị người khác làm đổ máu lại,+ vì con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời.+ 7 Về phần các con, hãy sinh sản và gia tăng nhiều, hãy nhân lên gấp bội trên đất và tăng thêm nhiều”.+
8 Rồi Đức Chúa Trời phán với Nô-ê cùng các con trai ông: 9 “Nay ta lập giao ước với các con+ và dòng dõi của các con, 10 với mọi vật* sống ở cùng các con, loài chim, loài thú và tất cả sinh vật trên đất ở cùng các con, tất cả sinh vật từ tàu đi ra—mọi sinh vật trên đất.+ 11 Quả vậy, ta lập giao ước với các con: Mọi loài xác thịt sẽ không bao giờ bị nước lụt diệt trừ nữa, trái đất sẽ không bao giờ bị nước lụt hủy hoại nữa”.+
12 Đức Chúa Trời phán tiếp: “Đây là dấu hiệu của giao ước mà ta lập giữa ta với các con và mọi vật sống ở cùng các con, là giao ước cho mọi đời sau. 13 Ta đặt cầu vồng của ta trên mây, và nó sẽ là dấu hiệu của giao ước giữa ta với trái đất. 14 Khi nào ta kéo mây trên đất thì cầu vồng sẽ xuất hiện trên mây, 15 và ta sẽ nhớ đến giao ước đã lập với các con cùng tất cả các vật sống thuộc mọi loài; nước sẽ không bao giờ dâng thành lụt để hủy diệt mọi loài xác thịt nữa.+ 16 Cầu vồng sẽ xuất hiện trên mây, ta sẽ thấy nó và nhớ đến giao ước vĩnh cửu giữa Đức Chúa Trời với tất cả các vật sống thuộc mọi loài trên đất”.
17 Rồi Đức Chúa Trời lặp lại với Nô-ê: “Ấy là dấu hiệu của giao ước mà ta lập giữa ta với mọi loài xác thịt trên đất”.+
18 Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là Sem, Cham và Gia-phết.+ Cham là cha của Ca-na-an.+ 19 Đó là ba con trai của Nô-ê, cả dân trên đất từ họ mà có và lan rộng khắp nơi.+
20 Bấy giờ, Nô-ê khởi sự làm nghề nông và trồng một vườn nho. 21 Khi uống rượu nho, ông bị say và nằm trần truồng giữa lều mình. 22 Cham, là cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng thì đi ra ngoài kể với hai anh mình. 23 Sem và Gia-phết bèn lấy một tấm áo, choàng lên vai rồi đi lùi mà vào lều. Như vậy họ đã che sự trần truồng của cha mình, nhưng vì quay mặt đi nên họ không thấy cha mình trần truồng.
24 Sau đó, Nô-ê tỉnh rượu và biết được việc con trai út đã làm đối với mình. 25 Ông bèn nói:
“Đáng rủa sả thay Ca-na-an.+
Nguyện nó làm nô lệ thấp hèn nhất cho anh em nó”.+
26 Ông nói thêm:
“Đáng ngợi khen thay Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Sem,
Nguyện Ca-na-an làm nô lệ cho nó.+
27 Nguyện Đức Chúa Trời ban đất rộng cho Gia-phết,
Nguyện nó ở trong lều của Sem.
Nguyện Ca-na-an cũng làm nô lệ cho nó”.
28 Sau trận Đại Hồng Thủy, Nô-ê sống thêm 350 năm nữa.+ 29 Vậy, Nô-ê hưởng thọ 950 tuổi, rồi qua đời.
10 Đây là lời tường thuật về các con trai của Nô-ê là Sem,+ Cham và Gia-phết.
Sau trận Đại Hồng Thủy, họ sinh con cái.+ 2 Các con trai của Gia-phết là Gô-me,+ Ma-gót,+ Ma-đai, Gia-van, Tu-banh,+ Mê-siếc+ và Ti-ra.+
3 Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na,+ Ri-phát và Tô-ga-ma.+
4 Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa,+ Ta-rê-si,+ Kít-tim+ và Đô-đa-nim.
5 Từ những người ấy mà có dân lan rộng khắp các đảo, tùy theo ngôn ngữ, gia tộc và dân tộc của họ.
6 Các con trai của Cham là Cút-sơ, Mích-ra-im,+ Phút+ và Ca-na-an.+
7 Các con trai của Cút-sơ là Sa-bê,+ Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma+ và Sáp-tê-ca.
Các con trai của Ra-ê-ma là Sê-ba và Đê-đan.
8 Cút-sơ sinh Nim-rốt. Nim-rốt trở thành kẻ hùng mạnh đầu tiên trên đất. 9 Ông là tay săn bắt hùng mạnh, chống lại Đức Giê-hô-va. Vì thế có câu nói: “Y như Nim-rốt, là tay săn bắt hùng mạnh, chống lại Đức Giê-hô-va”. 10 Các thành đầu tiên của vương quốc ông là Ba-bên,+ Ê-rết,+ A-cát và Ca-ne, ở xứ Si-nê-a.+ 11 Từ xứ đó, ông đi đến A-si-ri+ và xây các thành Ni-ni-ve,+ Rê-hô-bốt-i, Ca-lách, 12 cũng như Rê-sen, nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-lách: Ấy là thành phố lớn.*
13 Những người sinh bởi Mích-ra-im là Lu-đim,+ A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him,+ 14 Phát-ru-xim,+ Cách-lu-him (tổ phụ của người Phi-li-tia)+ và Cáp-tô-rim.+
15 Ca-na-an sinh con trai đầu lòng là Si-đôn,+ rồi đến Hếch;+ 16 Ca-na-an cũng là tổ phụ của dân Giê-bu,+ A-mô-rít,+ Ghi-rê-ga-sít, 17 Hê-vít,+ A-rê-kít, Si-nít, 18 A-vát,+ Xê-ma-rít và Ha-mát.+ Về sau, các gia tộc của dân Ca-na-an phân tán ra. 19 Vì thế, ranh giới lãnh thổ của dân Ca-na-an là từ Si-đôn đến Ghê-ran,+ gần Ga-xa,+ và đến tận Sô-đôm, Gô-mô-rơ,+ Át-ma và Xê-bô-im,+ gần La-sa. 20 Đó là con cháu của Cham, tùy theo gia tộc, ngôn ngữ, xứ sở và dân tộc.
21 Sem cũng sinh con cái, ông là tổ phụ của cả dòng Ê-be+ và là em trai của Gia-phết, người anh cả.* 22 Các con trai của Sem là Ê-lam,+ A-su-rơ,+ A-bác-sát,+ Lút và A-ram.+
23 Các con trai của A-ram là Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mách.
24 A-bác-sát sinh Sê-lách,+ và Sê-lách sinh Ê-be.
25 Ê-be sinh hai con trai. Người này tên là Bê-léc,*+ vì vào thời ông dân trên đất bị chia rẽ,* còn người kia tên là Giốc-tan.+
26 Giốc-tan sinh A-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-rách,+ 27 Ha-đô-ram, U-xan, Điệt-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia,+ Ha-vi-la và Giô-báp; đó là tất cả con trai của Giốc-tan.
30 Nơi họ sống trải rộng từ Mê-sa đến Sê-pha-ra, là vùng núi ở Đông Phương.
31 Đó là con cháu của Sem, tùy theo gia tộc, ngôn ngữ, xứ sở và dân tộc.+
32 Trên đây là những gia tộc của các con trai Nô-ê, tùy theo dòng họ và dân tộc. Từ họ mà các dân tộc lan rộng khắp đất sau trận Đại Hồng Thủy.+
11 Bấy giờ, khắp đất chỉ nói một thứ tiếng và dùng từ ngữ giống nhau. 2 Khi người ta đi về phía đông thì phát hiện một đồng bằng ở xứ Si-nê-a+ và bắt đầu định cư ở đó. 3 Rồi họ bảo nhau: “Nào! Chúng ta hãy làm gạch và nung trong lửa”. Thế là họ dùng gạch thay cho đá và lấy nhựa đen* làm vữa. 4 Họ còn nói: “Nào! Chúng ta hãy xây cho mình một cái thành và một cái tháp có đỉnh cao đến tận trời, chúng ta hãy làm rạng danh mình để sau này không bị phân tán khắp mặt đất”.+
5 Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống để xem cái thành và cái tháp mà con người đang xây. 6 Đức Giê-hô-va phán: “Kìa! Chúng chỉ có một dân, một thứ tiếng+ mà lại làm như thế đó. Từ nay, chẳng có việc gì chúng dự định mà không làm được. 7 Nào! Chúng ta+ hãy xuống làm xáo trộn ngôn ngữ của chúng để chúng không hiểu tiếng nói của nhau”. 8 Vậy, từ nơi đó Đức Giê-hô-va phân tán họ ra khắp mặt đất,+ và cuối cùng họ bỏ công việc xây thành. 9 Đó là lý do thành ấy được đặt tên là Ba-bên,*+ vì tại đó Đức Giê-hô-va làm xáo trộn ngôn ngữ của cả đất, và từ nơi đó Đức Giê-hô-va phân tán họ ra khắp mặt đất.
10 Đây là lời tường thuật về Sem.+
Hai năm sau trận Đại Hồng Thủy, khi Sem được 100 tuổi thì sinh A-bác-sát.+ 11 Sau khi sinh A-bác-sát, Sem sống thêm 500 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.+
12 A-bác-sát được 35 tuổi thì sinh Sê-lách.+ 13 Sau khi sinh Sê-lách, A-bác-sát sống thêm 403 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
14 Sê-lách được 30 tuổi thì sinh Ê-be.+ 15 Sau khi sinh Ê-be, Sê-lách sống thêm 403 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
16 Ê-be được 34 tuổi thì sinh Bê-léc.+ 17 Sau khi sinh Bê-léc, Ê-be sống thêm 430 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
18 Bê-léc được 30 tuổi thì sinh Rê-hu.+ 19 Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc sống thêm 209 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
20 Rê-hu được 32 tuổi thì sinh Sê-rúc. 21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu sống thêm 207 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
22 Sê-rúc được 30 tuổi thì sinh Na-cô. 23 Sau khi sinh Na-cô, Sê-rúc sống thêm 200 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
24 Na-cô được 29 tuổi thì sinh Tha-rê.+ 25 Sau khi sinh Tha-rê, Na-cô sống thêm 119 năm nữa. Ông sinh con trai và con gái.
26 Tha-rê được 70 tuổi thì sinh Áp-ram,+ Na-cô+ và Cha-ran.
27 Đây là lời tường thuật về Tha-rê.
Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô và Cha-ran; Cha-ran sinh Lót.+ 28 Cha-ran qua đời tại nơi mình sinh ra, ở U-rơ+ của người Canh-đê,+ khi cha mình là Tha-rê vẫn còn sống. 29 Áp-ram và Na-cô lấy vợ. Vợ Áp-ram tên là Sa-rai,+ còn vợ Na-cô tên là Minh-ca,+ con gái của Cha-ran. Cha-ran là cha của Minh-ca và Dích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn,+ không có con.
31 Tha-rê dẫn Áp-ram con trai mình và Lót cháu nội mình,+ tức con trai của Cha-ran, cùng Sa-rai dâu mình, tức vợ của Áp-ram, ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để đến xứ Ca-na-an.+ Nhưng khi đến Cha-ran,+ họ ở lại đó. 32 Tha-rê hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời ở Cha-ran.
12 Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, bà con và nhà cha con để đến xứ ta sẽ chỉ cho.+ 2 Ta sẽ khiến con nên một dân lớn, ban phước cho con, làm con rạng danh, và con sẽ trở thành một ân phước.+ 3 Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, rủa sả người nào cầu họa cho con,+ và nhờ con mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước”.*+
4 Áp-ram ra đi y như Đức Giê-hô-va đã phán bảo, có Lót cùng đi với ông. Áp-ram được 75 tuổi khi rời Cha-ran.+ 5 Áp-ram đem theo Sa-rai vợ mình,+ Lót cháu trai mình,+ tất cả tài sản+ cùng các đầy tớ mà họ đã có ở Cha-ran và lên đường đi đến xứ Ca-na-an.+ Khi tới xứ Ca-na-an, 6 Áp-ram đi tiếp đến tận Si-chem,+ gần các cây lớn của Mô-rê.+ Bấy giờ, dân Ca-na-an đang sống trong xứ. 7 Đức Giê-hô-va hiện ra với Áp-ram và phán: “Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi con”.+ Tại đấy, ông bèn dựng một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là đấng đã hiện ra với ông. 8 Sau đó, Áp-ram chuyển đến vùng núi phía đông Bê-tên rồi dựng trại giữa Bê-tên+ và A-i+ (Bê-tên ở phía tây và A-i ở phía đông). Tại đấy, ông cũng dựng bàn thờ cho Đức Giê-hô-va+ và ngợi khen danh Đức Giê-hô-va.+ 9 Rồi Áp-ram nhổ trại và đi tiếp về hướng Nê-ghép,+ đến đâu thì dựng trại ở đó.
10 Bấy giờ, trong xứ xảy ra một nạn đói. Áp-ram sang Ai Cập tạm trú+ vì nạn đói ấy rất trầm trọng.+ 11 Khi sắp đến Ai Cập, ông nói với Sa-rai, vợ ông: “Xin mình nghe tôi, tôi biết mình là người có nhan sắc.+ 12 Khi người Ai Cập thấy mình, hẳn họ sẽ nói: ‘Vợ ông ta đấy’. Họ sẽ giết tôi nhưng để mình sống. 13 Vậy, xin mình xưng là em gái tôi để nhờ mình mà tôi được bình yên và bảo toàn mạng sống”.+
14 Quả vậy, Áp-ram vừa đến Ai Cập thì người Ai Cập thấy ngay là bà rất đẹp. 15 Các quan của Pha-ra-ôn cũng nhìn thấy bà và ca tụng bà với Pha-ra-ôn, thế nên bà được đưa vào cung. 16 Vì bà mà Pha-ra-ôn đối đãi tử tế với Áp-ram; ông được nhiều cừu, bò, lừa đực, lừa cái, lạc đà và tôi trai tớ gái.+ 17 Nhưng Đức Giê-hô-va giáng những tai vạ lớn trên Pha-ra-ôn và nhà ông vì cớ Sa-rai, vợ của Áp-ram.+ 18 Pha-ra-ôn bèn gọi Áp-ram đến và nói: “Ngươi đã làm gì với ta thế này? Sao không cho ta biết nàng là vợ ngươi? 19 Sao ngươi nói: ‘Đó là em gái tôi’,+ để suýt nữa ta lấy nàng làm vợ? Vợ ngươi đây, hãy nhận lấy nàng và đi đi!”. 20 Pha-ra-ôn sai người hộ tống Áp-ram ra đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì thuộc về ông.+
13 Áp-ram bèn rời khỏi Ai Cập và đi về hướng Nê-ghép,+ cùng với ông có vợ, tất cả những gì thuộc về ông và cả Lót. 2 Áp-ram có rất nhiều gia súc và vàng bạc.+ 3 Từ Nê-ghép, Áp-ram trở lại Bê-tên, đi đến đâu thì dựng trại ở đó, cho đến khi trở về nơi ông từng dựng trại giữa Bê-tên và A-i,+ 4 là nơi trước kia ông đã dựng bàn thờ. Tại đây, Áp-ram ngợi khen danh Đức Giê-hô-va.
5 Lót, người cùng đi với Áp-ram, cũng có cừu, bò và lều trại. 6 Thế nên không đủ đất cho tất cả ở cùng một nơi; tài sản họ nhiều đến nỗi họ không sống chung được nữa. 7 Vì vậy, giữa những người chăn gia súc của Áp-ram và những người chăn gia súc của Lót nảy sinh tranh cãi. (Bấy giờ dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít đang ở trong xứ).+ 8 Áp-ram bèn nói với Lót:+ “Xin đừng để có chuyện tranh cãi giữa chú cháu mình, giữa những người chăn của chú và những người chăn của cháu, vì chúng ta là ruột thịt.* 9 Chẳng phải cả xứ ở trước mặt cháu sao? Xin hãy tách nhau ra. Nếu cháu sang bên trái thì chú sẽ qua bên phải, nếu cháu sang bên phải thì chú sẽ qua bên trái”. 10 Lót nhìn lên, thấy cả vùng sông Giô-đanh+ đến tận Xoa+ là một vùng có nhiều nước (lúc này Đức Giê-hô-va chưa hủy diệt Sô-đôm và Gô-mô-rơ), vùng ấy tựa như vườn của Đức Giê-hô-va,+ giống như xứ Ai Cập. 11 Thế là Lót chọn cả vùng sông Giô-đanh và dời trại sang phía đông. Vậy họ tách nhau ra. 12 Áp-ram ở lại xứ Ca-na-an, còn Lót ở gần các thành của vùng sông Giô-đanh.+ Cuối cùng, Lót dựng trại gần Sô-đôm. 13 Nhưng dân Sô-đôm là những kẻ gian ác, mắc tội nặng với Đức Giê-hô-va.+
14 Sau khi Lót tách ra, Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Con hãy nhìn lên,* từ nơi con đang đứng hãy ngó về phía bắc và phía nam, phía đông và phía tây, 15 vì ta sẽ ban cho con và dòng dõi con cả xứ mà con thấy đó làm sản nghiệp lâu bền.+ 16 Ta sẽ khiến dòng dõi con nhiều như bụi trên đất, ai đếm được bụi trên đất thì mới đếm được dòng dõi của con.+ 17 Nào, hãy lên đường đi khắp chiều dài và chiều rộng của xứ, vì ta sẽ ban xứ ấy cho con”. 18 Vậy Áp-ram tiếp tục sống trong lều trại. Sau đó, ông dời trại đến gần các cây lớn của Mam-rê+ ở Hếp-rôn;+ tại đấy ông dựng một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va.+
14 Bấy giờ, Am-ra-phên làm vua Si-nê-a,+ A-ri-ốc làm vua Ên-la-sa, Kết-rô-lao-me+ làm vua Ê-lam+ và Ti-đanh làm vua Gô-im. 2 Các vua này giao chiến với Bê-ra vua Sô-đôm,+ Bi-rê-sa vua Gô-mô-rơ,+ Si-nê-áp vua Át-ma, Sê-mê-bê vua Xê-bô-im+ và vua của Bê-la, tức là Xoa. 3 Họ tập hợp lực lượng tại thung lũng Si-đim,+ nay là Biển Muối.*+
4 Năm vua kia đã thần phục Kết-rô-lao-me suốt 12 năm, nhưng đến năm thứ mười ba thì nổi loạn. 5 Thế nên vào năm thứ mười bốn, Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh kéo quân đến rồi đánh bại dân Rê-pha-im tại Ách-tê-rót-ca-na-im, dân Xu-xin tại Cham, dân Ê-mim+ tại Sa-ve-ki-ri-át-a-im, 6 và dân Hô-rít+ trên núi của họ ở Sê-i-rơ,+ đến tận Ên-ba-ran trong vùng hoang mạc. 7 Rồi họ quay lại, đi đến Ên-mích-phát, tức Ca-đe,+ chinh phục toàn bộ lãnh thổ của dân A-ma-léc+ và cả dân A-mô-rít+ đang sống ở Hát-xát-xôn-ta-ma.+
8 Lúc này, vua Sô-đôm, vua Gô-mô-rơ, vua Át-ma, vua Xê-bô-im và vua Bê-la, tức là Xoa, cùng xuất trận và dàn binh tại thung lũng Si-đim để đánh lại các vua kia, 9 tức là Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phên vua Si-nê-a và A-ri-ốc vua Ên-la-sa;+ vậy là bốn vua đánh với năm vua. 10 Thung lũng Si-đim có đầy những hố nhựa đen.* Trong khi tìm đường tẩu thoát, các vua Sô-đôm và Gô-mô-rơ bị rơi xuống đó, những người còn lại thì chạy trốn lên vùng núi. 11 Quân thắng trận cướp hết tài sản và lương thực của Sô-đôm và Gô-mô-rơ rồi đi.+ 12 Họ cũng bắt Lót, cháu trai của Áp-ram đang sống tại Sô-đôm,+ cùng tài sản của ông rồi đi.
13 Có một người thoát được chạy đến báo tin cho Áp-ram người Hê-bơ-rơ. Lúc ấy, Áp-ram đang sống gần các cây lớn của Mam-rê người A-mô-rít,+ là anh em của Ếch-côn và A-ne;+ những người này đã kết ước với Áp-ram. 14 Thế là Áp-ram biết tin cháu* mình+ bị bắt. Ông bèn tập hợp những người được huấn luyện, là 318 tôi tớ sinh ra trong nhà ông, rồi lên đường đuổi theo đến tận Đan.+ 15 Ban đêm, ông chia lực lượng mình ra, rồi cùng các tôi tớ tấn công và đánh bại quân địch. Ông đuổi theo họ đến tận Hô-ba, ở phía bắc Đa-mách. 16 Ông đem về toàn bộ tài sản đã bị cướp cùng cháu* mình là Lót, tài sản của Lót, các phụ nữ và những người khác.
17 Trên đường Áp-ram trở về sau khi đánh bại vua Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh thì vua Sô-đôm đến đón ông tại thung lũng Sa-ve, tức thung lũng Vua.+ 18 Mên-chi-xê-đéc,+ vua của Sa-lem,+ mang bánh và rượu nho đến; ông là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Tối Cao.+
19 Ông chúc phước cho Áp-ram:
“Nguyện Áp-ram được phước từ Đức Chúa Trời Tối Cao,
Đấng Sáng Tạo của trời và đất;
20 Nguyện Đức Chúa Trời Tối Cao được ngợi khen,
Ngài đã phó những kẻ áp bức vào tay ông!”.
Rồi Áp-ram dâng cho Mên-chi-xê-đéc một phần mười mọi thứ mà ông lấy lại được.+
21 Sau đó, vua Sô-đôm nói với Áp-ram: “Hãy giao người lại cho tôi, còn tài sản thì ông cứ giữ”. 22 Áp-ram đáp lời vua Sô-đôm: “Tôi giơ tay lên thề cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời Tối Cao, là Đấng Sáng Tạo của trời và đất, 23 rằng tôi sẽ không lấy bất cứ thứ gì thuộc về vua, dù là sợi chỉ hay dây giày, để vua không nói: ‘Nhờ ta mà Áp-ram được giàu có’. 24 Tôi sẽ không lấy bất cứ vật gì ngoài những thứ mà các thanh niên của tôi đã ăn rồi. Còn những người đi với tôi là A-ne, Ếch-côn và Mam-rê+ thì để họ lấy phần của họ”.
15 Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram trong một khải tượng rằng: “Hỡi Áp-ram, đừng sợ.+ Ta là tấm khiên của con.+ Phần thưởng của con sẽ rất lớn”.+ 2 Áp-ram thưa: “Lạy Chúa Tối Thượng Giê-hô-va, ngài sẽ ban điều gì cho con? Con vẫn không có con, và người thừa kế gia tài con sẽ là Ê-li-ê-xe, một người Đa-mách”.+ 3 Áp-ram nói tiếp: “Ngài không ban cho con người nối dõi,+ nên đầy tớ con sẽ trở thành người thừa kế”. 4 Này là lời Đức Giê-hô-va đáp cùng ông: “Đó không phải là người thừa kế, chính con ruột của con mới là người thừa kế”.+
5 Ngài đem ông ra ngoài và phán: “Con hãy ngước mắt* lên trời và đếm các ngôi sao nếu có thể đếm được”. Rồi ngài phán: “Dòng dõi con sẽ nhiều như vậy”.+ 6 Áp-ram đặt đức tin nơi Đức Giê-hô-va,+ và ngài kể việc đó là công chính cho người.+ 7 Ngài nói tiếp: “Ta là Đức Giê-hô-va, đấng đã dẫn con ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để ban cho con xứ này”.+ 8 Ông thưa: “Lạy Chúa Tối Thượng Giê-hô-va, làm sao con biết mình sẽ được nhận xứ này?”. 9 Ngài đáp: “Con hãy mang đến cho ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim cu gáy và một bồ câu con”. 10 Ông mang tất cả đến, xẻ chúng làm đôi và đặt nửa này đối diện với nửa kia, nhưng ông không xẻ đôi các con chim. 11 Chim săn mồi bắt đầu sà xuống các con thú chết nên Áp-ram cứ phải đuổi chúng đi.
12 Khi mặt trời sắp lặn, Áp-ram chìm vào giấc ngủ say. Một bóng tối mịt mùng đáng sợ bao phủ ông. 13 Ngài phán với Áp-ram: “Hãy biết chắc rằng dòng dõi con sẽ trú ngụ trong xứ không thuộc về mình, dân nơi đó sẽ bắt họ làm nô lệ và hà hiếp họ trong 400 năm.+ 14 Nhưng ta sẽ đoán phạt dân tộc mà họ phải phục dịch,+ và sau đó họ sẽ ra đi với nhiều của cải.+ 15 Về phần con, con sẽ yên nghỉ với tổ phụ mình; con sẽ được chôn cất sau khi đã tuổi cao tác lớn.+ 16 Đến thế hệ thứ tư, họ sẽ trở về đây,+ vì hiện nay tội lỗi của dân A-mô-rít chưa đến mức đầy tràn”.+
17 Khi mặt trời đã lặn và đêm tối mịt mùng, một lò lửa đầy khói xuất hiện và một ngọn đuốc cháy đi qua giữa các con thú chết. 18 Vào ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước với Áp-ram+ rằng: “Ta sẽ ban xứ này+ cho dòng dõi con, từ sông của Ai Cập cho đến sông lớn, tức sông Ơ-phơ-rát:+ 19 Đó là xứ của các dân Kê-nít,+ Kê-nê-xít, Cát-mô-nít, 20 Hếch,+ Phê-rê-sít,+ Rê-pha-im,+ 21 A-mô-rít, Ca-na-an, Ghi-rê-ga-sít và Giê-bu”.+
16 Bấy giờ Sa-rai vợ Áp-ram vẫn không sinh được con cho ông,+ nhưng bà có một tớ gái người Ai Cập tên là Ha-ga.+ 2 Sa-rai nói với Áp-ram: “Xin mình nghe tôi, Đức Giê-hô-va không cho tôi sinh con. Mình hãy ăn ở với tớ gái của tôi. Biết đâu nhờ cô ta mà tôi có con”.+ Áp-ram bèn nghe lời Sa-rai. 3 Vậy, sau khi Áp-ram sống ở xứ Ca-na-an được mười năm, Sa-rai vợ Áp-ram đưa Ha-ga, tớ gái người Ai Cập của mình, đến với Áp-ram chồng bà để cô làm vợ ông. 4 Ông ăn ở với Ha-ga, và cô có thai. Khi biết mình có thai, Ha-ga bắt đầu khinh bỉ bà chủ.
5 Sa-rai bèn nói với Áp-ram: “Tôi bị đối xử như thế là lỗi tại mình đó. Tôi là người đặt tớ gái ấy trong lòng mình, vậy mà khi biết là có thai, cô ta lại khinh bỉ tôi. Xin Đức Giê-hô-va phân xử giữa mình và tôi”. 6 Áp-ram nói với Sa-rai: “Thôi thì tớ gái ấy ở dưới quyền của mình đó, mình muốn đối xử thế nào tùy ý”. Thế là Sa-rai đối xử hà khắc với Ha-ga, và cô bỏ trốn.
7 Sau đó, thiên sứ của Đức Giê-hô-va thấy cô bên một dòng suối trong hoang mạc, là dòng suối nằm trên đường đi Su-rơ.+ 8 Thiên sứ hỏi:* “Hỡi Ha-ga, tớ gái của Sa-rai, con từ đâu đến và đang đi đâu?”. Cô thưa: “Con đang chạy trốn bà chủ Sa-rai”. 9 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va bảo cô: “Hãy trở về với bà chủ và chịu phục trong tay người”. 10 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói: “Ta sẽ làm cho dòng dõi con tăng thêm gấp bội, nhiều đến nỗi không thể đếm được”.+ 11 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va nói tiếp: “Con đang có thai và sẽ sinh một con trai. Con phải đặt tên đứa trẻ là Ích-ma-ên* vì Đức Giê-hô-va đã nghe thấy nỗi khổ của con. 12 Đứa trẻ này lớn lên sẽ như con lừa rừng.* Tay nó sẽ chống nghịch mọi người, và tay mọi người sẽ chống nghịch nó; nó sẽ sống đối diện* với mọi anh em mình”.
13 Cô kêu cầu danh Đức Giê-hô-va, đấng đang phán với mình, và nói: “Ngài là Đức Chúa Trời thấy mọi sự”;*+ vì cô thầm nghĩ: “Chẳng phải tôi đã thật sự được thấy đấng thấy tôi sao?”. 14 Thế nên, giếng ấy được gọi là Bê-e-la-chai-roi.* (Nó nằm ở giữa Ca-đe và Bê-rết). 15 Sau đó, Ha-ga sinh cho Áp-ram một con trai và ông đặt tên con là Ích-ma-ên.+ 16 Áp-ram được 86 tuổi khi Ha-ga sinh Ích-ma-ên cho ông.
17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, Đức Giê-hô-va hiện ra với ông và phán: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Hãy bước đi trung thành trước mặt ta và chứng tỏ mình trọn vẹn. 2 Ta sẽ thực hiện giao ước giữa ta và con,+ làm cho dòng dõi con tăng thêm thật nhiều”.+
3 Áp-ram bèn sấp mặt xuống đất. Đức Chúa Trời phán tiếp: 4 “Về phần ta, ta vẫn giữ giao ước với con,+ và con sẽ trở thành cha của nhiều dân tộc.+ 5 Tên của con không còn là Áp-ram* nữa mà là Áp-ra-ham,* vì ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. 6 Ta sẽ làm cho con có thật đông con cháu, từ con sẽ ra các dân tộc và các vua.+
7 Ta sẽ giữ giao ước giữa ta và con+ cùng dòng dõi con trải qua các đời; đó là một giao ước vĩnh cửu, hầu ta làm Đức Chúa Trời của con và dòng dõi con. 8 Ta sẽ ban cho con cùng dòng dõi con vùng đất mà con đang sống như một ngoại kiều,+ tức là cả xứ Ca-na-an, để làm sản nghiệp lâu bền, còn ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ”.+
9 Đức Chúa Trời phán thêm với Áp-ra-ham: “Về phần con, con phải giữ giao ước của ta, cả con lẫn dòng dõi con trải qua các đời. 10 Này là giao ước giữa ta và các con mà các con phải giữ, cả dòng dõi con nữa: Mọi người nam trong vòng các con phải chịu cắt bì.+ 11 Các con phải cắt da quy đầu, đó sẽ là dấu hiệu của giao ước giữa ta và các con.+ 12 Trải qua các đời, mọi bé trai tám ngày tuổi phải chịu cắt bì,+ bất cứ người nào sinh ra trong nhà con và bất cứ người nào không thuộc dòng dõi con mà được mua về từ người ngoại quốc đều phải làm như vậy. 13 Mọi người nam sinh ra trong nhà con và mọi người nam được mua về đều phải chịu cắt bì;+ dấu hiệu này nơi thân thể các con là bằng chứng về giao ước vững bền của ta. 14 Bất cứ người nam nào chưa cắt bì mà không chịu cắt bì thì kẻ* đó phải bị diệt. Kẻ đó đã vi phạm giao ước của ta”.
15 Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham: “Về phần Sa-rai*+ vợ con, con đừng gọi người là Sa-rai nữa, vì tên của người sẽ là Sa-ra.* 16 Ta sẽ ban phước cho người, và qua người, ta sẽ ban cho con một con trai;+ ta sẽ ban phước cho người, từ người sẽ ra các dân tộc và các vua”. 17 Nghe vậy Áp-ra-ham sấp mặt xuống đất và cười, ông thầm nghĩ:+ “Người đã 100 tuổi mà còn sinh con được sao? Sa-ra nay đã 90, lẽ nào lại còn sinh nở?”.+
18 Áp-ra-ham thưa cùng Đức Chúa Trời: “Ôi, nguyện ngài ban phước cho Ích-ma-ên!”.+ 19 Đức Chúa Trời phán: “Chắc chắn Sa-ra vợ con sẽ sinh một con trai, và con phải đặt tên đứa trẻ là Y-sác.*+ Ta sẽ lập giao ước với nó, là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó.+ 20 Về phần Ích-ma-ên thì ta đã nghe điều con xin. Ta sẽ ban phước cho nó, làm cho nó có đông con cháu, và dòng dõi nó tăng thêm thật nhiều. Từ nơi nó sẽ ra 12 thủ lĩnh, và ta sẽ làm cho nó trở thành một dân lớn.+ 21 Tuy nhiên, giao ước của ta thì ta sẽ lập với Y-sác,+ đứa con mà Sa-ra sẽ sinh cho con vào thời điểm này năm sau”.+
22 Sau khi nói xong với Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời bèn đi. 23 Ngay chính hôm đó, Áp-ra-ham cắt da quy đầu cho Ích-ma-ên con mình, cùng mọi người nam sinh ra trong nhà ông và mọi người nam được mua về, tức là tất cả những người nam trong nhà ông, y như Đức Chúa Trời đã phán dặn.+ 24 Áp-ra-ham đã 99 tuổi khi được cắt da quy đầu,+ 25 còn Ích-ma-ên con trai ông thì 13 tuổi khi được cắt da quy đầu.+ 26 Vậy, Áp-ra-ham và con trai là Ích-ma-ên chịu cắt bì trong chính ngày đó. 27 Tất cả những người nam trong nhà ông, mọi người nam sinh ra trong nhà và mọi người nam được mua về từ người ngoại quốc đều cùng ông chịu cắt bì.
18 Sau đó, Đức Giê-hô-va+ hiện ra với Áp-ra-ham tại nơi các cây lớn của Mam-rê,+ khi ông đang ngồi ở cửa lều vào lúc trời nóng nhất trong ngày. 2 Ông nhìn lên thì thấy có ba người đang đứng cách mình một quãng.+ Vừa thấy họ, ông chạy ra đón, rồi sấp mặt xuống đất 3 và thưa: “Lạy Đức Giê-hô-va, nếu con được ơn trước mắt ngài, xin dừng chân ở chỗ kẻ tôi tớ này. 4 Xin để người ta đem ít nước đến rửa chân cho các ngài,+ rồi hãy nghỉ ngơi dưới cây. 5 Các ngài đã đến chỗ kẻ tôi tớ này thì xin cho con đem ít bánh để các ngài dùng cho lại sức, rồi hãy lên đường đi tiếp”. Các vị ấy đáp: “Được, hãy làm như lời con nói”.
6 Áp-ra-ham vội chạy về lều nói với Sa-ra: “Mình ơi, mau lên! Hãy lấy ba đấu* bột mịn, nhào bột và làm mấy chiếc bánh”. 7 Kế đến, Áp-ra-ham chạy ra chỗ bầy gia súc, chọn một con bò đực tơ tốt rồi giao cho người hầu việc, và anh ta vội nấu cho kịp. 8 Ông lấy bơ, sữa và món bò đã nấu xong mà dọn ra trước mặt họ. Trong khi các vị ấy ăn thì ông đứng bên cạnh, dưới tán cây.+
9 Các vị ấy hỏi ông: “Sa-ra vợ con đâu?”.+ Ông đáp: “Thưa, đang ở trong lều”. 10 Một vị nói tiếp: “Ta sẽ trở lại vào thời điểm này năm sau, và Sa-ra vợ con sẽ có một con trai”.+ Lúc đó, tại cửa lều phía sau lưng vị ấy, Sa-ra đang nghe cuộc nói chuyện. 11 Bấy giờ, cả Áp-ra-ham và Sa-ra đều đã già, tuổi đã cao.+ Sa-ra thì quá tuổi sinh con.+ 12 Thế nên Sa-ra cười thầm mà nói: “Tôi già cỗi thế này và chúa tôi cũng đã cao tuổi, có thật là tôi sẽ được niềm vui đó sao?”.+ 13 Đức Giê-hô-va bèn phán với Áp-ra-ham: “Tại sao Sa-ra cười mà nói: ‘Có thật là tôi già thế này mà vẫn sinh con được sao?’. 14 Có gì là quá khó với Đức Giê-hô-va chăng?+ Ta sẽ trở lại vào thời điểm này năm sau, và Sa-ra sẽ có một con trai”. 15 Vì sợ nên Sa-ra chối: “Con đâu có cười!”. Vị ấy nói: “Có, con có cười đó!”.
16 Sau đó, các vị ấy đứng dậy để đi tiếp và họ nhìn xuống Sô-đôm.+ Áp-ra-ham cũng đi theo tiễn họ. 17 Đức Giê-hô-va nói: “Lẽ nào ta lại giấu Áp-ra-ham điều ta sắp làm?+ 18 Bởi lẽ Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân lớn và hùng mạnh, nhờ người mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước.*+ 19 Vả lại, ta đến gần với Áp-ra-ham để người truyền dặn con cái và cả nhà sau đời người phải vâng giữ đường lối Đức Giê-hô-va bằng cách làm điều công chính và điều đúng,+ hầu Đức Giê-hô-va thực hiện lời ngài đã hứa liên quan đến Áp-ra-ham”.
20 Vậy Đức Giê-hô-va phán: “Tiếng than trách về Sô-đôm và Gô-mô-rơ thật lớn lắm,+ tội của chúng thật nặng lắm.+ 21 Ta sẽ xuống xem tiếng than trách đã thấu đến ta có đúng hay không, và có thật là chúng làm những điều ác thể ấy không. Ta muốn biết thực hư thế nào”.+
22 Thế là hai vị lên đường đến Sô-đôm, còn Đức Giê-hô-va+ ở lại với Áp-ra-ham. 23 Bấy giờ Áp-ra-ham đến gần ngài và thưa: “Có thật là ngài sẽ diệt người công chính chung với kẻ gian ác chăng?+ 24 Giả sử trong thành có 50 người công chính, chẳng lẽ ngài diệt hết, không vì 50 người công chính đó mà tha cho thành sao? 25 Chắc chắn ngài không bao giờ làm thế, diệt người công chính chung với kẻ gian ác, để người công chính và kẻ gian ác phải chịu cùng kết cuộc!+ Không bao giờ ngài làm thế.+ Chẳng phải Đấng Phán Xét của toàn thể trái đất sẽ làm điều đúng sao?”.+ 26 Đức Giê-hô-va phán: “Nếu tìm thấy 50 người công chính trong thành Sô-đôm, ta sẽ vì họ mà tha cho cả thành”. 27 Áp-ra-ham lại thưa: “Con đây chỉ là tro bụi nhưng cũng xin mạo muội thưa cùng Đức Giê-hô-va. 28 Giả sử không có đủ 50 người công chính mà thiếu năm, ngài có vì thiếu năm người ấy mà diệt cả thành không?”. Ngài đáp: “Nếu tìm được 45 người, ta sẽ không diệt thành ấy”.+
29 Nhưng ông thưa với ngài lần nữa: “Giả sử chỉ tìm thấy 40 người trong thành thì sao?”. Ngài đáp: “Vì 40 người ấy, ta sẽ không diệt thành”. 30 Ông lại nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin ngài đừng giận+ mà cho con thưa tiếp: Giả sử chỉ tìm thấy 30 người trong thành thì sao?”. Ngài trả lời: “Nếu tìm được 30 người, ta sẽ không diệt thành ấy”. 31 Nhưng ông nói tiếp: “Con xin mạo muội thưa với Đức Giê-hô-va: Giả sử chỉ tìm thấy 20 người trong thành thì sao?”. Ngài đáp: “Vì 20 người ấy, ta sẽ không diệt thành”. 32 Cuối cùng ông nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin ngài đừng giận mà cho con thưa một lần nữa thôi: Giả sử chỉ tìm thấy mười người trong thành thì sao?”. Ngài đáp: “Vì mười người ấy, ta sẽ không diệt thành”. 33 Khi nói xong với Áp-ra-ham, Đức Giê-hô-va rời khỏi đó,+ còn Áp-ra-ham trở về trại.
19 Hai thiên sứ đến Sô-đôm vào khoảng chiều tối, lúc ấy Lót đang ngồi ở cổng thành. Vừa thấy họ, Lót đứng dậy ra đón, sấp mặt xuống đất+ 2 mà nói: “Xin hãy ghé qua nhà kẻ tôi tớ này để nghỉ qua đêm và có người rửa chân cho các ngài. Sáng mai các ngài có thể dậy sớm lên đường”. Họ đáp: “Không, chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố”. 3 Nhưng ông nài nỉ quá nên họ theo ông về nhà. Ông bày tiệc đãi họ, nướng bánh không men, và họ dùng bữa.
4 Họ chưa kịp nằm nghỉ thì những người nam trong thành Sô-đôm, từ trẻ đến già, không thiếu một ai, kéo đến cả đám bao vây nhà Lót. 5 Chúng cứ réo gọi Lót và bảo: “Hai người đàn ông đến nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đem họ ra đây để bọn ta vui vẻ* với họ!”.+
6 Lót ra ngoài gặp chúng và đóng cửa lại. 7 Ông nói với chúng: “Xin anh em đừng làm điều ác. 8 Này, tôi có hai con gái còn đồng trinh, để tôi dẫn ra cho anh em muốn làm gì tùy ý. Nhưng xin đừng đụng đến hai vị ấy, vì họ đến tá túc dưới mái nhà tôi”.+ 9 Chúng bảo: “Tránh chỗ khác!”. Chúng nói tiếp: “Tên ngoại quốc này một thân một mình đến đây sống mà lại dám phê phán chúng ta! Bọn ta sẽ xử ngươi tệ hơn hai người kia nữa”. Thế là chúng lấn ép Lót và xông đến phá cửa. 10 Hai vị kia bèn với tay kéo Lót vào nhà và đóng sập cửa lại. 11 Rồi họ làm cho những kẻ đứng trước cửa, từ nhỏ nhất đến lớn nhất, đều bị mù mắt nên chúng phí sức tìm cửa mãi mà không được.
12 Hai vị nói với Lót: “Ông còn người thân nào khác ở đây không? Con rể, con trai, con gái cùng mọi người thuộc về ông trong thành, hãy đem ra khỏi hết đi! 13 Chúng tôi sắp hủy diệt nơi đây. Vì tiếng than trách về dân này trước mặt Đức Giê-hô-va+ thật quá lớn nên Đức Giê-hô-va phái chúng tôi đến hủy diệt thành”. 14 Lót bèn đi nói với các con rể tương lai, ông giục họ mãi: “Nhanh lên! Hãy ra khỏi đây, vì Đức Giê-hô-va sắp hủy diệt thành!”. Nhưng hai con rể xem đó là chuyện đùa.+
15 Khi sắp rạng đông, các thiên sứ hối thúc Lót: “Nhanh lên! Hãy đem vợ và hai con gái đang ở đây đi đi, kẻo bị vạ lây vì tội của thành này!”.+ 16 Lót cứ chần chừ, nhưng vì Đức Giê-hô-va động lòng trắc ẩn+ nên các vị ấy nắm tay ông, vợ ông cùng hai con gái mà dẫn ra khỏi thành.+ 17 Vừa đưa họ ra ngoài thành, một vị nói: “Hãy chạy trốn để cứu lấy mạng! Đừng nhìn lại phía sau,+ cũng đừng dừng lại bất kỳ chỗ nào trong cả vùng này!+ Hãy trốn lên miền núi để không bị diệt!”.
18 Nhưng Lót thưa: “Không được đâu, Đức Giê-hô-va ôi! Con xin ngài! 19 Nay kẻ tôi tớ này đã được ơn trước mắt ngài và ngài tỏ lòng nhân từ* rất lớn mà để cho con sống,+ nhưng con không thể trốn lên miền núi vì sợ rằng tai họa sẽ ập đến và con chết mất.+ 20 Thành kia ở gần và con có thể chạy đến đó. Thành ấy nhỏ thôi. Xin ngài cho con chạy đến đó được không? Ấy chỉ là một thành nhỏ. Nhờ thế, con sẽ sống sót”. 21 Ngài đáp: “Được, ta sẽ chiếu cố cho con+ lần nữa mà không hủy diệt thành con nói đến.+ 22 Mau lên! Hãy chạy đến đó, ta không thể làm gì trước khi con tới nơi!”.+ Vì thế, thành ấy được đặt tên là Xoa.*+
23 Lót đến Xoa thì trời đã sáng. 24 Đức Giê-hô-va bèn trút diêm sinh và lửa xuống Sô-đôm và Gô-mô-rơ, ấy là diêm sinh và lửa từ Đức Giê-hô-va, từ trên trời.+ 25 Vậy, ngài hủy diệt các thành ấy, toàn thể vùng đó, kể cả dân trong thành lẫn cây cối trên đất.+ 26 Nhưng vợ Lót, đi đằng sau ông, đã nhìn lại phía sau nên biến thành một tượng muối.+
27 Sáng hôm sau, Áp-ra-ham thức dậy sớm và đi ra nơi ông đã đứng thưa chuyện với Đức Giê-hô-va.+ 28 Ông nhìn xuống Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng cả vùng đó thì thấy một cảnh tượng đáng sợ. Kìa, có khói bốc lên từ vùng đó, dày đặc như khói của lò nung!+ 29 Vậy, khi hủy diệt các thành trong vùng, Đức Chúa Trời đã nhớ đến Áp-ra-ham mà đem Lót ra khỏi các thành ngài hủy diệt, là nơi Lót đang sống.+
30 Sau đó, Lót cùng hai con gái rời Xoa lên sống ở miền núi,+ vì ông sợ sống ở Xoa.+ Ông ở trong một cái hang với hai con gái mình. 31 Cô chị nói với cô em: “Cha đã già và trong xứ này chẳng có người nam nào để chị em mình lấy làm chồng như người ta thường làm. 32 Nào, chị em mình hãy cho cha uống rượu, rồi nằm cùng cha để sinh con nối dõi cho cha”.
33 Đêm đó họ chuốc rượu cha mình cho say, rồi cô chị vào nằm với ông, nhưng ông không biết khi nào cô nằm và khi nào cô dậy. 34 Hôm sau, cô chị nói với cô em: “Đêm qua chị đã vào nằm với cha. Đêm nay chị em mình hãy cho cha uống rượu nữa, rồi em hãy vào nằm cùng cha để sinh con nối dõi cho cha”. 35 Thế là đêm đó họ lại chuốc rượu cha mình cho say; rồi cô em vào nằm với ông, nhưng ông không biết khi nào cô nằm và khi nào cô dậy. 36 Vậy, cả hai con gái của Lót đều có thai với cha mình. 37 Cô chị sinh một con trai và đặt tên là Mô-áp.+ Ông là tổ phụ của dân Mô-áp ngày nay.+ 38 Cô em cũng sinh một con trai và đặt tên là Bên-am-mi. Ông là tổ phụ của dân Am-môn+ ngày nay.
20 Bấy giờ Áp-ra-ham dời trại+ về vùng Nê-ghép, cư ngụ giữa Ca-đe+ và Su-rơ.+ Khi trú ngụ ở Ghê-ran,+ 2 Áp-ra-ham vẫn nói thế này về Sa-ra vợ ông: “Ấy là em tôi”.+ Thế là A-bi-mê-léc, vua của Ghê-ran, sai người đem Sa-ra đến.+ 3 Sau đó, Đức Chúa Trời phán với A-bi-mê-léc trong một giấc mơ ban đêm: “Ngươi sẽ phải chết vì cớ người phụ nữ mà ngươi đem về,+ vì người thuộc về người khác và đã có chồng”.+ 4 Nhưng A-bi-mê-léc chưa lại gần* Sa-ra, nên ông thưa: “Lạy Đức Giê-hô-va, một dân vô tội mà ngài cũng diệt sao? 5 Chẳng phải ông ấy nói với con: ‘Ấy là em tôi’ sao? Chẳng phải người phụ nữ ấy cũng nói: ‘Ấy là anh tôi’ sao? Lòng con không hề có ác ý và tay con vô tội trong chuyện này”. 6 Đức Chúa Trời phán tiếp với ông trong giấc mơ: “Ta biết lòng ngươi không có ác ý trong chuyện này, nên mới ngăn ngươi phạm tội cùng ta và không cho phép ngươi đụng đến người phụ nữ ấy. 7 Bây giờ hãy trả lại vợ cho người, vì người là một nhà tiên tri.+ Người sẽ cầu xin cho ngươi+ để ngươi được sống. Nhưng nếu không trả lại vợ cho người thì hãy biết rằng ngươi chắc chắn sẽ chết, cả ngươi lẫn mọi người thuộc về ngươi”.
8 Đến sáng, A-bi-mê-léc thức dậy sớm, truyền gọi tất cả bề tôi và kể cho họ nghe mọi điều. Ai nấy đều rất sợ hãi. 9 Rồi A-bi-mê-léc truyền gọi Áp-ra-ham đến và nói: “Ông đã làm gì với chúng tôi vậy? Tôi có tội gì với ông mà ông làm cho tôi và vương quốc tôi mắc tội lớn dường ấy? Ông làm vậy thật không đúng”. 10 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham: “Ông nghĩ sao mà lại làm thế?”.+ 11 Áp-ra-ham trả lời: “Đó là do tôi tự nghĩ: ‘Hẳn nơi này chẳng có người nào kính sợ Đức Chúa Trời, họ sẽ giết tôi vì cớ vợ tôi’.+ 12 Vả lại, người cũng đúng là em gái tôi, là em cùng cha khác mẹ, và tôi lấy người làm vợ.+ 13 Khi Đức Chúa Trời bảo tôi rời nhà cha mình đi xa,+ tôi đã nói với người: ‘Mình hãy tỏ tình nghĩa* với tôi qua việc này: Hễ đến nơi nào, hãy nói như sau: “Ấy là anh tôi”’”.+
14 Thế rồi A-bi-mê-léc tặng cừu, bò cùng tôi trai tớ gái cho Áp-ra-ham, cũng trả Sa-ra vợ ông về. 15 A-bi-mê-léc còn nói: “Này, cả xứ sở tôi ở trước mặt ông. Ông cứ ở nơi nào mình thích”. 16 Vua nói với Sa-ra: “Đây, tôi đưa 1.000 miếng bạc cho anh bà.+ Ấy là dấu hiệu về sự trong sạch của bà* trước mắt cả nhà bà cũng như mọi người khác, và danh dự bà được bảo toàn”. 17 Áp-ra-ham cầu xin Đức Chúa Trời thì ngài chữa lành cho A-bi-mê-léc, vợ ông cùng các nô tì, và họ có thể sinh con cái, 18 bởi Đức Giê-hô-va đã làm cho mọi phụ nữ trong nhà A-bi-mê-léc không thể có con vì cớ Sa-ra, vợ của Áp-ra-ham.+
21 Đức Giê-hô-va nhớ đến Sa-ra y như ngài đã phán, và Đức Giê-hô-va làm cho Sa-ra điều ngài đã hứa.+ 2 Thế là Sa-ra có thai+ và sinh cho Áp-ra-ham một con trai lúc ông về già, vào đúng thời điểm Đức Chúa Trời hứa với ông.+ 3 Áp-ra-ham đặt tên đứa con mà Sa-ra vừa sinh cho ông là Y-sác.+ 4 Khi Y-sác được tám ngày tuổi, Áp-ra-ham cắt bì cho con y như Đức Chúa Trời phán dặn.+ 5 Áp-ra-ham được 100 tuổi khi Y-sác con ông ra đời. 6 Sa-ra thốt lên: “Đức Chúa Trời làm cho tôi cười vui sướng, ai nghe được điều này cũng sẽ cười với tôi”.* 7 Bà nói tiếp: “Có ai ngờ Sa-ra, vợ Áp-ra-ham, sẽ cho con bú chăng? Thế mà tôi đã sinh cho người một con trai lúc người về già”.
8 Đứa trẻ lớn lên và thôi bú. Vào ngày Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham làm một tiệc lớn. 9 Sa-ra để ý thấy con trai mà Ha-ga+ người Ai Cập đã sinh cho Áp-ra-ham cứ chế nhạo Y-sác.+ 10 Bà nói với Áp-ra-ham: “Hãy đuổi tớ gái ấy và con trai cô ta đi, vì con trai của tớ gái ấy chẳng được thừa kế cùng Y-sác con trai tôi đâu!”.+ 11 Áp-ra-ham rất phiền lòng trước những điều Sa-ra nói về con trai ông.+ 12 Nhưng Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham: “Đừng phiền lòng trước những điều Sa-ra nói về con trai con và tớ gái ấy. Hãy nghe vợ con, vì những người được gọi là dòng dõi của con sẽ ra từ Y-sác.+ 13 Về phần đứa con của tớ gái ấy,+ ta sẽ khiến nó trở thành một dân tộc+ vì nó cũng là dòng dõi con”.
14 Thế là sáng hôm sau Áp-ra-ham dậy sớm, lấy lương thực và một bầu da đầy nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt những thứ ấy lên vai cô, rồi bảo cô cùng con trai ra đi.+ Cô lên đường và lang thang trong hoang mạc của Bê-e-sê-ba.+ 15 Cuối cùng nước trong bầu da cũng cạn, cô bèn bỏ con dưới một bụi cây. 16 Cô đến ngồi một mình ở chỗ cách đó khoảng tầm tên bắn vì cô thầm nghĩ: “Mình không muốn nhìn thấy con chết”. Vậy, cô ngồi cách xa một quãng và kêu la khóc lóc.
17 Đức Chúa Trời nghe tiếng của cậu con trai,+ và thiên sứ ngài từ trên trời gọi Ha-ga mà nói:+ “Chuyện gì vậy, Ha-ga? Đừng sợ, vì Đức Chúa Trời đã nghe tiếng của đứa con ở chỗ nó đang nằm. 18 Hãy đứng dậy, nâng con lên và giơ tay đỡ lấy nó vì ta sẽ làm cho nó trở thành một dân tộc lớn”.+ 19 Đức Chúa Trời mở mắt cô thì cô thấy một cái giếng; cô đi đến đó, đổ nước đầy bầu da và cho con uống. 20 Vậy, Ích-ma-ên lớn lên và Đức Chúa Trời ở cùng cậu.+ Cậu sống nơi hoang mạc và trở thành một tay bắn cung. 21 Sau này, Ích-ma-ên sống ở hoang mạc Pha-ran+ và được mẹ cưới cho một người vợ từ xứ Ai Cập.
22 Bấy giờ A-bi-mê-léc và Phi-côn là tướng quân đội của vua đến nói với Áp-ra-ham: “Trong mọi sự ông làm, Đức Chúa Trời đều ở cùng ông.+ 23 Vậy bây giờ, trước mặt Đức Chúa Trời hãy thề với tôi rằng ông sẽ không phản bội tôi và con cháu tôi, ông sẽ đối xử nhân nghĩa* với tôi và xứ mà ông đang trú ngụ như tôi đã đối xử với ông”.+ 24 Áp-ra-ham nói: “Tôi xin thề”.
25 Rồi Áp-ra-ham trình với A-bi-mê-léc về việc cái giếng đã bị các tôi tớ vua chiếm đoạt.+ 26 A-bi-mê-léc nói: “Tôi không biết ai đã làm chuyện này. Ông chẳng nói gì với tôi, mãi đến nay tôi mới biết”. 27 Áp-ra-ham bèn tặng cừu và bò cho A-bi-mê-léc, rồi hai người lập giao ước với nhau. 28 Khi Áp-ra-ham để riêng bảy cừu cái con trong bầy ra, 29 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham: “Tại sao ông để riêng bảy con cừu ấy ra?”. 30 Ông đáp: “Xin vua nhận bảy cừu cái con này từ tay tôi để chứng nhận rằng tôi đã đào cái giếng ấy”. 31 Áp-ra-ham đặt tên nơi đó là Bê-e-sê-ba*+ vì tại đấy hai người đã thề với nhau. 32 Vậy, họ lập giao ước+ tại Bê-e-sê-ba, rồi A-bi-mê-léc cùng Phi-côn là tướng quân đội lên đường trở về xứ Phi-li-tia.+ 33 Sau đó, Áp-ra-ham trồng một cây thanh liễu ở Bê-e-sê-ba và tại đấy ông ngợi khen danh Đức Giê-hô-va,+ Đức Chúa Trời vĩnh hằng.+ 34 Áp-ra-ham trú ngụ trong xứ Phi-li-tia lâu dài.+
22 Bấy giờ Đức Chúa Trời thử lòng Áp-ra-ham.+ Ngài gọi: “Hỡi Áp-ra-ham!”, ông đáp: “Thưa, con đây!”. 2 Ngài phán: “Con hãy dẫn* con trai mình là Y-sác,+ người con duy nhất mà con rất yêu thương,+ đi đến xứ Mô-ri-a,+ và tại đó hãy dâng nó làm lễ vật thiêu trên ngọn núi ta sẽ chỉ cho”.
3 Thế là sáng hôm sau Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa và dẫn theo hai tôi tớ cùng Y-sác con mình. Ông chẻ củi để dùng cho lễ vật thiêu, rồi lên đường đến nơi Đức Chúa Trời đã chỉ định. 4 Đến ngày thứ ba, khi nhìn lên thì Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đằng xa. 5 Áp-ra-ham nói với hai tôi tớ mình: “Các ngươi hãy ở lại đây giữ lừa, còn cha con ta sẽ đến đó để thờ phượng rồi quay lại”.
6 Áp-ra-ham chất củi dùng cho lễ vật thiêu lên vai Y-sác con mình. Ông lấy lửa và dao, rồi cả hai cùng đi. 7 Y-sác bèn nói với Áp-ra-ham cha mình: “Cha ơi!”. Ông đáp: “Gì vậy con?”. Y-sác tiếp: “Củi và lửa có đây rồi, còn cừu để dâng lễ vật thiêu thì ở đâu vậy cha?”. 8 Áp-ra-ham trả lời: “Chính Đức Chúa Trời sẽ cung cấp cừu cho lễ vật thiêu,+ con à”. Hai người cứ thế đi tiếp.
9 Cuối cùng họ đến nơi mà Đức Chúa Trời đã chỉ định. Tại đó, Áp-ra-ham dựng bàn thờ và sắp củi lên. Ông trói tay chân Y-sác con mình và đặt con lên bàn thờ, trên đống củi.+ 10 Rồi Áp-ra-ham cầm lấy dao để giết con,+ 11 nhưng thiên sứ của Đức Giê-hô-va từ trời gọi:* “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”. Ông đáp: “Thưa, con đây!”. 12 Thiên sứ bảo: “Đừng hại con mình và đừng làm gì nó. Giờ đây ta biết con là người kính sợ Đức Chúa Trời vì đã không tiếc với ta con trai mình, người con duy nhất của con”.+ 13 Áp-ra-ham nhìn lên thì thấy ở đằng kia có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi rậm. Ông đến bắt nó và dâng làm lễ vật thiêu thế cho con mình. 14 Áp-ra-ham bèn đặt tên nơi đó là Giê-hô-va-di-rê.* Vì vậy đến nay người ta vẫn nói: “Đức Giê-hô-va sẽ cung cấp trên núi ngài”.+
15 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va từ trời gọi Áp-ra-ham lần thứ nhì 16 mà nói: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Ta lấy chính mình ta thề rằng+ vì con đã làm điều này và không tiếc con trai, người con duy nhất của con,+ 17 nên ta sẽ ban phước cho con và làm cho dòng dõi con gia tăng nhiều như sao trên trời, như cát bờ biển,+ và dòng dõi con sẽ chiếm được cổng thành của kẻ thù.+ 18 Nhờ dòng dõi con+ mà mọi dân tộc trên đất sẽ đạt được ân phước cho mình, vì con đã nghe lời ta’”.+
19 Rồi Áp-ra-ham quay lại chỗ hai tôi tớ, và họ cùng lên đường về Bê-e-sê-ba.+ Áp-ra-ham tiếp tục cư ngụ tại Bê-e-sê-ba.
20 Sau đó có người báo tin cho Áp-ra-ham: “Minh-ca cũng sinh các con trai cho Na-cô, anh trai ông:+ 21 con trưởng là Út-xơ, kế đến là Bu-xơ, Kê-mu-ên, tức là cha của A-ram, 22 rồi tới Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Dít-láp và Bê-tu-ên”.+ 23 Bê-tu-ên là cha của Rê-bê-ca.+ Đó là tám người con mà Minh-ca sinh cho Na-cô, anh trai Áp-ra-ham. 24 Vợ lẽ của Na-cô, tên là Rê-u-ma, cũng sinh các con trai: Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca.
23 Sa-ra sống đến 127 tuổi; ấy là tuổi thọ của bà.+ 2 Sa-ra qua đời ở Ki-ri-át-ạc-ba,+ tức Hếp-rôn,+ trong xứ Ca-na-an.+ Áp-ra-ham khóc Sa-ra và than van vì bà. 3 Rồi Áp-ra-ham rời khỏi người vợ quá cố để đi nói chuyện với con cháu của Hếch.+ Ông nói: 4 “Tôi là ngoại kiều và người trú ngụ trong vòng các ông.+ Vậy xin nhường cho tôi một nơi làm mộ địa trong xứ các ông để tôi có thể chôn cất người thân quá cố”. 5 Con cháu của Hếch đáp cùng Áp-ra-ham: 6 “Thưa ngài, xin nghe chúng tôi. Chúng tôi xem ngài là thủ lĩnh từ Đức Chúa Trời.*+ Ngài hãy chôn người quá cố tại mộ địa tốt nhất của chúng tôi. Không ai sẽ giữ lại mộ địa của mình mà không cho ngài chôn cất người quá cố đâu”.
7 Áp-ra-ham bèn đứng dậy, cúi mình trước mặt dân của xứ, trước mặt con cháu của Hếch+ 8 và nói: “Nếu các ông đồng ý cho tôi chôn cất người quá cố thì hãy nghe tôi và xin Ép-rôn con trai Xô-ha 9 bán cho tôi hang đá ở Mặc-bê-la mà ông ấy sở hữu; hang đó nằm ở rìa của phần đất ông ta. Ép-rôn hãy bán nó cho tôi trước mặt các ông, giá bao nhiêu thì tôi sẽ trả đúng số bạc đó,+ hầu tôi có được một nơi làm mộ địa”.+
10 Lúc ấy, Ép-rôn người Hếch đang ngồi với con cháu của Hếch nên ông liền đáp lời Áp-ra-ham, cả con cháu của Hếch đều nghe. Trước mặt mọi người ở cổng thành,+ ông nói: 11 “Không, thưa ngài! Hãy nghe tôi nói. Tôi tặng ngài mảnh đất và cả cái hang ở đó. Trước mặt dân tôi, tôi tặng ngài cả hai. Hãy chôn người quá cố của ngài ở đó”. 12 Áp-ra-ham bèn cúi mình trước mặt dân của xứ 13 mà nói với Ép-rôn, và cả dân đều nghe, rằng: “Xin nghe tôi nói. Tôi sẽ trả đúng số bạc cho mảnh đất. Ông hãy nhận lấy, để tôi có thể chôn người quá cố của mình ở đó”.
14 Ép-rôn đáp lời Áp-ra-ham: 15 “Xin ngài nghe tôi. Mảnh đất ấy trị giá 400 siếc-lơ* bạc, nhưng chỗ tôi với ngài thì có đáng gì đâu! Ngài cứ việc chôn người quá cố của mình”. 16 Theo lời Ép-rôn, Áp-ra-ham cân cho ông đúng số bạc ông nói, như những gì mà con cháu của Hếch đã nghe, là 400 siếc-lơ* bạc theo trọng lượng siếc-lơ của các thương nhân.+ 17 Thế là mảnh đất của Ép-rôn ở Mặc-bê-la, gần Mam-rê—mảnh đất, hang đá và cây cối trên đó—được công nhận là 18 đất mà Áp-ra-ham đã mua trước sự chứng kiến của con cháu Hếch, trước mọi người ở cổng thành. 19 Sau đó Áp-ra-ham chôn Sa-ra vợ ông trong hang đá trên mảnh đất ở Mặc-bê-la gần Mam-rê, tức Hếp-rôn, trong xứ Ca-na-an. 20 Vậy, mảnh đất và cái hang ở đó được con cháu của Hếch sang nhượng cho Áp-ra-ham để làm mộ địa.+
24 Bấy giờ Áp-ra-ham đã già, tuổi đã cao, và trong mọi việc ông đều được Đức Giê-hô-va ban phước.+ 2 Áp-ra-ham nói với người tôi tớ cao tuổi nhất trong nhà, là người coi sóc toàn bộ tài sản mình:+ “Xin ông hãy đặt tay dưới đùi ta.* 3 Ta muốn ông chỉ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của trời và đất, thề rằng ông sẽ không cưới cho con trai ta người vợ nào trong vòng con gái dân Ca-na-an, là dân mà ta đang sống chung.+ 4 Nhưng ông phải về quê hương ta và chỗ bà con ta+ để cưới vợ cho Y-sác, con trai ta”.
5 Người tôi tớ hỏi Áp-ra-ham: “Lỡ cô ấy không bằng lòng đi theo tôi đến xứ này thì sao? Tôi có phải đưa con trai ông về quê hương của ông không?”.+ 6 Áp-ra-ham đáp: “Hãy nhớ kỹ, đừng đem con trai ta về đó.+ 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các tầng trời, đấng đem ta ra khỏi nhà cha ta và xứ sở của bà con ta,+ đấng đã phán với ta và thề+ rằng: ‘Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi con’,+ chính ngài sẽ sai thiên sứ đi trước ông+ nên ông chắc chắn sẽ tìm được vợ cho con trai ta ở đó.+ 8 Còn nếu cô ấy không bằng lòng đi theo ông thì ông không bị ràng buộc bởi lời thề này nữa. Nhưng không được đem con trai ta về đó”. 9 Người tôi tớ bèn đặt tay dưới đùi Áp-ra-ham chủ mình mà thề về điều ấy.+
10 Ông đem theo mười con lạc đà trong bầy của chủ mình cùng với đủ thứ vật quý, rồi lên đường. Ông đi đến Mê-sô-bô-ta-mi, đến thành Na-cô. 11 Khi tới nơi, ông cho lạc đà nằm nghỉ bên một cái giếng ngoài thành. Bấy giờ là khoảng xế chiều, lúc các phụ nữ ra lấy nước. 12 Ông cầu nguyện: “Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chủ con, xin ngài giúp cho việc này được thành hôm nay, và xin ngài tỏ lòng yêu thương thành tín với Áp-ra-ham chủ con. 13 Con đứng bên giếng đây, và các phụ nữ trong thành đang ra lấy nước. 14 Nguyện điều này xảy ra: Nếu con hỏi một cô gái: ‘Xin hãy nghiêng vò cho tôi uống chút nước’, và cô ấy trả lời: ‘Mời ông uống, tôi cũng sẽ cho các con lạc đà uống nữa’, thì đó chính là người mà ngài chọn cho Y-sác tôi tớ ngài. Qua điều này, con sẽ biết ngài đã tỏ lòng yêu thương thành tín với chủ con”.
15 Ông chưa dứt lời thì Rê-bê-ca đi ra, trên vai vác vò nước. Cô là con gái Bê-tu-ên;+ Bê-tu-ên là con trai của Minh-ca,+ vợ Na-cô;+ Na-cô là anh trai Áp-ra-ham. 16 Thiếu nữ ấy rất đẹp, còn đồng trinh, chưa ăn ở với người nam nào. Cô xuống giếng lấy nước đầy vò rồi trở lên. 17 Người tôi tớ liền chạy đến nói với cô: “Xin cho tôi uống một ngụm nước trong vò”. 18 Cô đáp: “Vâng thưa ông, xin mời uống”. Cô liền hạ vò xuống, đỡ trên tay mà cho ông uống. 19 Khi ông uống xong, cô nói: “Con cũng sẽ lấy nước cho các con lạc đà, đến khi nào chúng uống đã khát thì thôi”. 20 Cô mau mắn đổ hết nước trong vò vào máng, rồi chạy đi chạy lại chỗ cái giếng để lấy nước, cô liên tục lấy nước cho cả đàn lạc đà uống. 21 Trong khi đó, người tôi tớ cứ lặng yên nhìn cô với vẻ kinh ngạc, tự hỏi có phải Đức Giê-hô-va đã giúp chuyến đi của mình thành công hay không.
22 Khi đàn lạc đà uống xong, người tôi tớ lấy ra tặng cô một chiếc khuyên mũi bằng vàng nặng nửa siếc-lơ* và hai vòng đeo tay bằng vàng nặng mười siếc-lơ,* 23 rồi ông hỏi: “Xin cho tôi biết cô là con của ai? Nhà cha cô có chỗ để chúng tôi nghỉ qua đêm không?”. 24 Cô đáp: “Con là con ông Bê-tu-ên,+ cha con là con của bà Minh-ca và ông Na-cô”.+ 25 Cô nói tiếp: “Nhà con có nhiều rơm và cỏ khô, cũng có chỗ để nghỉ qua đêm”. 26 Người tôi tớ bèn quỳ xuống, sấp mình trước Đức Giê-hô-va 27 mà thốt lên: “Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chủ con, vì ngài không quên tỏ tình yêu thương thành tín và lòng trung tín đối với chủ con. Đức Giê-hô-va đã dẫn đưa con đến nhà anh em của chủ con”.
28 Thiếu nữ ấy chạy về kể lại mọi chuyện cho nhà mẹ mình. 29 Rê-bê-ca có một người anh tên là La-ban.+ La-ban chạy đi gặp người tôi tớ đang ở ngoài thành, bên cái giếng. 30 Khi thấy chiếc khuyên mũi và hai chiếc vòng trên tay Rê-bê-ca em mình, cũng nghe em kể rằng: “Ông ấy nói với em thế này thế này”, thì La-ban đến gặp người tôi tớ, lúc đó vẫn đang đứng cùng đàn lạc đà bên giếng. 31 La-ban liền nói: “Hỡi người được Đức Giê-hô-va ban phước, xin theo tôi! Sao ông còn đứng ngoài này vậy? Tôi đã chuẩn bị mọi thứ trong nhà và cả chỗ cho đàn lạc đà”. 32 Người tôi tớ bèn theo La-ban về nhà. La-ban* tháo yên lạc đà, lấy rơm và cỏ khô cho chúng, rồi lấy nước để ông và những người đi chung rửa chân. 33 Khi thức ăn được dọn ra, ông nói: “Tôi phải thưa được chuyện cần thưa thì mới dám ăn”. La-ban đáp: “Ông hãy nói đi!”.
34 Ông ấy thưa: “Tôi là tôi tớ của ông Áp-ra-ham.+ 35 Đức Giê-hô-va đã ban phước dồi dào cho chủ tôi và làm cho người trở nên rất giàu có, ngài đã ban cho chủ tôi nhiều cừu và bò, lạc đà và lừa, bạc và vàng, cùng tôi trai tớ gái.+ 36 Hơn nữa, bà Sa-ra, vợ của chủ tôi, đã sinh cho người một con trai lúc về già,+ và người sẽ để lại hết gia tài cho con trai mình.+ 37 Ông chủ bắt tôi thề và người nói rằng: ‘Ông không được cưới cho con trai ta người vợ nào trong vòng con gái dân Ca-na-an, là dân mà ta đang sống chung.+ 38 Nhưng ông phải về nhà cha ta và bà con ta+ để cưới vợ cho con trai ta’.+ 39 Tôi bèn hỏi: ‘Lỡ cô ấy không bằng lòng đi theo tôi thì sao?’.+ 40 Người đáp: ‘Đức Giê-hô-va, đấng mà ta bước đi trung thành trước mặt ngài,+ sẽ sai thiên sứ+ đi cùng ông nên chuyến đi của ông chắc chắn sẽ thành công; ông hãy cưới vợ cho con trai ta trong vòng bà con ta và nhà cha ta.+ 41 Nếu ông về nhà bà con ta và họ không bằng lòng để cô ấy đi thì ông không còn bị ràng buộc bởi lời thề này. Lúc ấy lời thề này không ràng buộc ông nữa’.+
42 Hôm nay khi đến cái giếng, tôi đã xin: ‘Lạy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chủ con, xin ngài giúp chuyến đi của con được thành công. 43 Con đứng bên giếng đây, nguyện điều này xảy ra: Hễ cô gái nào+ đi ra lấy nước mà con nói: “Xin cho tôi uống chút nước trong vò” 44 và cô ấy trả lời: “Mời ông uống, tôi cũng sẽ cho các con lạc đà uống nữa”, thì đó chính là người mà Đức Giê-hô-va chọn cho con trai của chủ con’.+
45 Tôi chưa dứt lời cầu nguyện thầm, thì cô Rê-bê-ca đi ra, trên vai vác vò nước. Cô xuống giếng lấy nước. Tôi nói với cô: ‘Xin cho tôi uống’.+ 46 Cô liền hạ vò trên vai xuống và nói: ‘Mời ông uống,+ con cũng sẽ cho các con lạc đà uống nữa’. Thế là tôi uống, và cô cũng cho cả đàn lạc đà uống nữa. 47 Sau đó tôi hỏi: ‘Cô là con của ai?’. Cô trả lời: ‘Con là con ông Bê-tu-ên, cha con là con của bà Minh-ca và ông Na-cô’. Thế là tôi đeo khuyên mũi và hai vòng tay cho cô.+ 48 Tôi quỳ xuống, sấp mình trước Đức Giê-hô-va và ngợi khen Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chủ tôi,+ là đấng đã đưa đường dẫn lối để tôi cưới cháu gái của chủ tôi cho con trai người. 49 Vậy bây giờ, nếu phía ông bà muốn tỏ tình yêu thương thành tín và lòng trung tín với chủ tôi, xin cho tôi biết; nếu không, cũng xin cho tôi biết để tôi liệu đường mà tính”.+
50 La-ban và Bê-tu-ên bèn đáp: “Việc này đến từ Đức Giê-hô-va, chúng tôi đâu thể nói là được hay không. 51 Rê-bê-ca ở trước mặt ông đây, ông hãy dẫn về làm vợ cho con trai của chủ ông, như Đức Giê-hô-va đã phán”. 52 Vừa nghe những lời ấy, tôi tớ của Áp-ra-ham sấp mình xuống đất trước Đức Giê-hô-va. 53 Rồi ông đem ra các tặng vật bằng bạc bằng vàng và những bộ áo mà trao cho Rê-bê-ca; ông cũng tặng những vật quý cho anh và mẹ cô. 54 Sau đó, ông và những người đi chung cùng ăn uống với gia đình, rồi nghỉ qua đêm tại đấy.
Sáng thức dậy, ông nói: “Xin cho tôi đi về với chủ tôi”. 55 Nhưng anh và mẹ của cô bảo: “Hãy để cô ấy ở lại với chúng tôi ít nhất mười ngày nữa rồi hẵng đi”. 56 Ông nói: “Xin đừng cầm chân tôi, vì Đức Giê-hô-va đã giúp chuyến đi của tôi được thành công. Hãy cho tôi đi, để tôi về với chủ”. 57 Họ bèn đáp: “Chúng tôi sẽ gọi cô ấy ra để hỏi ý kiến xem sao”. 58 Họ gọi Rê-bê-ca ra hỏi: “Con có bằng lòng đi với người này không?”. Cô đáp: “Dạ có, con bằng lòng đi”.
59 Thế là họ cho Rê-bê-ca, người chị em mình,+ ra đi cùng với vú nuôi của cô,+ tôi tớ của Áp-ra-ham và người của ông. 60 Họ chúc phước cho Rê-bê-ca: “Hỡi người chị em chúng tôi, nguyện từ nàng ra hàng ngàn vạn người, nguyện dòng dõi nàng chiếm được cổng thành của kẻ thù ghét mình”.+ 61 Rê-bê-ca và các hầu gái mình bèn trỗi dậy, lên lạc đà mà đi theo người tôi tớ. Vậy, người tôi tớ đưa Rê-bê-ca lên đường.
62 Bấy giờ Y-sác từ hướng Bê-e-la-chai-roi+ đi đến, vì lúc ấy ông trú ngụ tại vùng Nê-ghép.+ 63 Y-sác đang đi dạo ở ngoài đồng vào lúc chiều tối để suy ngẫm.+ Ông nhìn lên thì thấy một đàn lạc đà tiến về phía mình! 64 Rê-bê-ca cũng nhìn lên, chợt thấy Y-sác bèn nhanh nhẹn xuống khỏi lạc đà. 65 Cô hỏi người tôi tớ: “Người đàn ông đằng kia là ai? Người ở ngoài đồng đang đi về phía chúng ta đó!”. Người tôi tớ đáp: “Đó chính là cậu chủ tôi”. Cô liền lấy khăn trùm đầu lại. 66 Người tôi tớ kể cho Y-sác nghe mọi việc ông đã làm. 67 Y-sác đưa Rê-bê-ca về lều của Sa-ra mẹ mình.+ Vậy là ông lấy nàng làm vợ. Y-sác yêu nàng+ và được vơi đi nỗi buồn mất mẹ.+
25 Áp-ra-ham cưới một người vợ khác tên là Kê-tu-ra. 2 Bà sinh cho ông: Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an,+ Dích-bác và Su-ách.+
3 Giốc-san sinh Sê-ba và Đê-đan.
Con cháu của Đê-đan là A-chu-rim, Lê-tu-chim và Lê-um-mim.*
4 Các con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa.
Đó là tất cả con cháu của Kê-tu-ra.
5 Sau này, Áp-ra-ham để lại hết gia tài cho Y-sác,+ 6 còn những con trai của các vợ lẽ thì ông cho quà quý. Khi còn sống, ông bảo họ đi về hướng đông, sang vùng Đông Phương cư trú, cách xa Y-sác con mình.+ 7 Áp-ra-ham hưởng thọ 175 tuổi. 8 Ông trút hơi thở cuối cùng rồi nhắm mắt khi đã tuổi cao tác lớn, sống thọ và mãn nguyện; ông an giấc cùng tổ phụ.* 9 Hai con trai ông là Y-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông nơi hang đá ở Mặc-bê-la, trên mảnh đất của Ép-rôn, con trai Xô-ha người Hếch, gần Mam-rê,+ 10 là đất mà Áp-ra-ham đã mua của con cháu Hếch. Ông được chôn ở đó cùng với Sa-ra vợ mình.+ 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Đức Chúa Trời tiếp tục ban phước cho Y-sác con ông.+ Lúc ấy Y-sác trú ngụ gần Bê-e-la-chai-roi.+
12 Sau đây là lời tường thuật về Ích-ma-ên+ con trai Áp-ra-ham, do Ha-ga,+ tôi tớ người Ai Cập của Sa-ra, sinh cho ông.
13 Đây là tên các con trai của Ích-ma-ên, tùy theo dòng họ: Nê-ba-giốt+ là con trưởng nam của Ích-ma-ên, rồi đến Kê-đa,+ Át-bê-ên, Mi-bô-sam,+ 14 Mít-ma, Đu-ma, Mác-sa, 15 Ha-đát, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích và Kết-ma. 16 Đó là các con trai của Ích-ma-ên, 12 thủ lĩnh của các thị tộc. Tên của những người ấy cũng được đặt cho nơi ở và khu trại của họ.+ 17 Ích-ma-ên hưởng thọ 137 tuổi. Ông trút hơi thở cuối cùng rồi nhắm mắt và an giấc cùng tổ phụ.* 18 Con cháu ông sinh sống trong khắp vùng từ Ha-vi-la+ gần Su-rơ,+ kế bên Ai Cập, đến tận A-si-ri. Ích-ma-ên sống gần* mọi anh em mình.+
19 Sau đây là lời tường thuật về Y-sác con trai Áp-ra-ham.+
Áp-ra-ham sinh Y-sác. 20 Y-sác được 40 tuổi khi cưới Rê-bê-ca, con gái của Bê-tu-ên+ người A-ram ở Pha-đan-a-ram và là em gái của La-ban người A-ram. 21 Y-sác không ngừng cầu khẩn Đức Giê-hô-va cho vợ mình vì bà hiếm muộn. Đức Giê-hô-va đáp lời cầu khẩn của ông, và Rê-bê-ca vợ ông có thai. 22 Các thai nhi cứ đạp nhau trong bụng bà,+ nên bà thốt lên: “Nếu cứ thế này, tôi sống nữa làm gì?”. Bà bèn cầu hỏi Đức Giê-hô-va. 23 Đức Giê-hô-va phán với bà: “Hai dân tộc đang ở trong bụng con,+ hai dân tộc sẽ ra từ con.+ Dân này sẽ mạnh hơn dân kia,+ đứa lớn sẽ hầu việc đứa nhỏ”.+
24 Đến ngày sinh nở, quả là bà đã mang thai đôi! 25 Đứa ra đầu tiên đỏ hoe, cả người như đang mặc chiếc áo lông,+ vì thế họ đặt tên nó là Ê-sau.*+ 26 Đứa em ra sau, tay nắm gót chân Ê-sau,+ vì thế nó được đặt tên là Gia-cốp.*+ Y-sác đã 60 tuổi khi vợ ông sinh con.
27 Hai đứa trẻ lớn lên, Ê-sau trở thành một thợ săn giỏi,+ thích ở ngoài đồng hoang; còn Gia-cốp là người hiền lành, thường ở trong trại.+ 28 Y-sác thương Ê-sau vì Ê-sau thường mang thịt rừng về cho ông ăn, nhưng Rê-bê-ca thì thương Gia-cốp.+ 29 Ngày nọ, Gia-cốp đang nấu một món hầm thì Ê-sau từ đồng hoang trở về, đang đói lả. 30 Ê-sau nói với Gia-cốp: “Mau cho anh xin chút món hầm đo đỏ với, anh đói lả rồi!”. Thế nên Ê-sau được gọi là Ê-đôm.*+ 31 Gia-cốp đáp: “Anh hãy bán quyền trưởng nam cho em trước đã!”.+ 32 Ê-sau nói tiếp: “Anh chết đến nơi rồi! Cần gì cái quyền trưởng nam ấy nữa?”. 33 Gia-cốp tiếp lời: “Anh hãy thề trước đi!”. Thế là ông thề và bán quyền trưởng nam cho Gia-cốp.+ 34 Gia-cốp bèn cho Ê-sau ăn bánh mì với món đậu lăng hầm. Ê-sau ăn uống xong thì đứng dậy đi. Vậy, Ê-sau đã xem thường quyền trưởng nam.
26 Bấy giờ, ngoài nạn đói đầu tiên xảy ra vào thời Áp-ra-ham,+ trong xứ lại có một nạn đói nữa nên Y-sác đến chỗ A-bi-mê-léc, vua dân Phi-li-tia, tại Ghê-ran. 2 Đức Giê-hô-va hiện ra với Y-sác và phán: “Đừng sang Ai Cập. Hãy ở lại trong xứ, tại nơi mà ta sẽ chỉ cho con. 3 Hãy cư ngụ trong xứ này như một ngoại kiều+ thì ta sẽ luôn ở với con và ban phước cho con, vì ta sẽ ban tất cả các vùng đất này cho con và dòng dõi con.+ Ta sẽ thực hiện lời mà ta đã thề cùng Áp-ra-ham, cha con,+ rằng: 4 ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi con gia tăng nhiều như sao trên trời+ và ban cho dòng dõi con tất cả các vùng đất này.+ Nhờ dòng dõi con mà mọi dân tộc trên đất sẽ đạt được ân phước cho mình’.+ 5 Ta làm thế là vì Áp-ra-ham đã vâng lời ta và tuân theo các đòi hỏi, mệnh lệnh, điều lệ cùng luật pháp của ta”.+ 6 Vậy nên Y-sác tiếp tục ở Ghê-ran.+
7 Đàn ông nơi đó cứ hỏi về vợ Y-sác và ông luôn đáp: “Ấy là em tôi”.+ Ông sợ nói: “Ấy là vợ tôi” vì nghĩ rằng: “Đàn ông nơi này có thể giết mình vì cớ Rê-bê-ca”, bởi lẽ bà rất đẹp.+ 8 Một thời gian sau, A-bi-mê-léc, vua dân Phi-li-tia, nhìn qua cửa sổ thì thấy Y-sác có cử chỉ trìu mến với Rê-bê-ca vợ mình.+ 9 A-bi-mê-léc lập tức gọi Y-sác đến và nói: “Hóa ra người là vợ ông! Sao ông lại nói: ‘Ấy là em tôi’?”. Y-sác đáp: “Tôi nói vậy vì sợ rằng mình sẽ bị giết vì cớ vợ mình”.+ 10 A-bi-mê-léc nói: “Ông đã làm gì với chúng tôi vậy?+ Lỡ có một người trong dân tôi đến nằm với vợ ông thì ông khiến chúng tôi mắc tội!”.+ 11 Thế là A-bi-mê-léc ra lệnh cho toàn dân: “Bất cứ ai đụng đến người đàn ông này và vợ ông ta sẽ bị xử tử!”.
12 Tại xứ đó, Y-sác bắt đầu gieo trồng, và năm ấy ông gặt gấp trăm lần những gì đã gieo vì Đức Giê-hô-va ban phước cho ông.+ 13 Ông giàu lên, ngày càng giàu có đến nỗi trở nên rất thịnh vượng. 14 Ông có thêm nhiều bầy cừu, đàn bò và đông đảo tôi tớ+ nên dân Phi-li-tia bắt đầu đố kỵ với ông.
15 Dân Phi-li-tia bèn lấy đất lấp tất cả các giếng mà tôi tớ của Áp-ra-ham, cha ông, đã đào từ thời trước.+ 16 Sau đó, A-bi-mê-léc nói với Y-sác: “Hãy đi khỏi đây vì ông đã lớn mạnh hơn chúng tôi quá nhiều”. 17 Thế là Y-sác đi khỏi đó, đến đóng trại ở thung lũng Ghê-ran+ và bắt đầu sinh sống tại đây. 18 Y-sác đào lại các giếng từ thời Áp-ra-ham, cha ông, mà dân Phi-li-tia đã lấp sau khi Áp-ra-ham qua đời,+ và ông đặt tên những giếng ấy theo tên cha mình từng đặt.+
19 Khi tôi tớ của Y-sác đào đất trong thung lũng thì tìm được một giếng nước ngọt. 20 Nhưng dân chăn cừu ở Ghê-ran tranh cãi với những người chăn cừu của Y-sác rằng: “Giếng này của chúng tôi!”. Y-sác bèn đặt tên giếng ấy là Ê-sếch* vì chúng đã tranh cãi với ông. 21 Các tôi tớ của ông đào một giếng khác thì chúng cũng tranh cãi về giếng ấy nên ông đặt tên nó là Sít-na.* 22 Sau đó, ông dời trại đi nơi khác và đào một giếng nữa, nhưng lần này chúng không tranh cãi. Vì thế ông đặt tên giếng là Rê-hô-bốt* mà nói: “Đức Giê-hô-va đã ban cho chúng ta nơi rộng rãi và làm cho chúng ta có đông con cháu ở xứ này”.+
23 Từ nơi đó ông dời đến Bê-e-sê-ba.+ 24 Đêm ấy, Đức Giê-hô-va hiện ra với ông và phán: “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha con.+ Đừng sợ,+ vì ta ở với con. Ta sẽ ban phước cho con và làm cho dòng dõi con gia tăng nhiều vì cớ Áp-ra-ham tôi tớ ta”.+ 25 Y-sác bèn dựng một bàn thờ tại đấy rồi ngợi khen danh Đức Giê-hô-va.+ Ông đóng trại ở đó,+ và tôi tớ ông bắt đầu đào giếng.
26 Sau đó, A-bi-mê-léc từ Ghê-ran đến gặp Y-sác, cùng đi với vua có A-hu-xát là cố vấn riêng và Phi-côn là tướng quân đội.+ 27 Y-sác hỏi: “Các ông đến gặp tôi làm chi? Chẳng phải các ông ghét tôi và đã đuổi tôi đi sao?”. 28 Họ đáp: “Chúng tôi thấy rõ Đức Giê-hô-va ở với ông.+ Vì thế chúng tôi nói: ‘Giữa chúng tôi và ông, xin hãy có một lời thề ước. Chúng tôi xin lập giao ước với ông,+ 29 hầu ông không làm hại chúng tôi như chúng tôi đã không làm hại ông, bởi lẽ chúng tôi chỉ làm điều tốt cho ông là để ông đi bình an. Nay, ông là người được Đức Giê-hô-va ban phước’”. 30 Y-sác dọn tiệc đãi họ rồi họ cùng nhau ăn uống. 31 Sáng hôm sau, họ dậy sớm và thề ước với nhau,+ rồi Y-sác tiễn họ đi và họ ra về bình an.
32 Trong ngày ấy, các tôi tớ của Y-sác đến báo cho ông biết về cái giếng họ đang đào:+ “Chúng tôi đã tìm thấy nước!”. 33 Ông bèn đặt tên giếng là Si-ba. Vì thế, thành ấy mang tên là Bê-e-sê-ba+ cho đến nay.
34 Ê-sau được 40 tuổi thì cưới Giu-đi-tha, con gái của Bê-e-ri người Hếch, và Bách-mát, con gái của Ê-lôn người Hếch.+ 35 Hai con dâu này là nỗi khổ tâm của Y-sác và Rê-bê-ca.+
27 Bấy giờ Y-sác đã già, mắt bị lòa nên gần như không thấy gì. Ông gọi Ê-sau,+ con trai trưởng, đến mà nói: “Này con!”. Ê-sau đáp: “Vâng, thưa cha!”. 2 Ông nói tiếp: “Cha đã già rồi, không biết chết ngày nào. 3 Xin con hãy lấy dụng cụ, bao tên và cung mà ra đồng săn thú rừng cho cha.+ 4 Hãy nấu món ngon theo ý thích của cha và mang đến cho cha ăn, rồi cha sẽ chúc phước cho con trước khi nhắm mắt”.
5 Lúc Y-sác nói chuyện với Ê-sau con mình thì Rê-bê-ca nghe được. Ê-sau ra đồng săn thú rừng cho cha.+ 6 Rê-bê-ca bèn đi nói với Gia-cốp con mình:+ “Mẹ vừa nghe cha con nói với Ê-sau anh con rằng: 7 ‘Hãy mang thịt rừng về nấu một món ngon cho cha ăn rồi trước mặt Đức Giê-hô-va, cha sẽ chúc phước cho con trước khi nhắm mắt’.+ 8 Này con, hãy nghe kỹ lời mẹ dặn và làm theo.+ 9 Xin con ra bầy bắt về hai con dê con tốt nhất để mẹ nấu một món ngon theo ý thích của cha. 10 Con sẽ mang đến cho cha ăn, rồi cha sẽ chúc phước cho con trước khi nhắm mắt”.
11 Nhưng Gia-cốp nói với Rê-bê-ca mẹ mình: “Anh Ê-sau có nhiều lông,+ còn con thì không. 12 Lỡ cha sờ vào con thì sao?+ Hẳn cha sẽ nghĩ là con giỡn mặt với cha. Con sẽ chuốc lấy sự rủa sả, chứ chẳng được chúc phước đâu”. 13 Mẹ ông đáp: “Nguyện mẹ gánh sự rủa sả cho con, con à. Con cứ nghe lời mẹ. Hãy đi bắt mấy con dê về đây”.+ 14 Thế là ông đi bắt mấy con dê về cho mẹ, rồi bà nấu một món ngon theo ý thích của Y-sác. 15 Sau đó, Rê-bê-ca lấy bộ áo của Ê-sau, con trai trưởng, bộ áo đẹp nhất bà có ở nhà, và mặc cho Gia-cốp, con trai út.+ 16 Bà cũng đặt da của dê con lên tay và phần cổ không có lông của ông.+ 17 Kế đến, bà lấy món ngon và bánh mì bà đã làm mà đưa cho Gia-cốp con mình.+
18 Gia-cốp vào với cha mình và nói: “Thưa cha!”. Y-sác đáp: “Cha đây! Con là đứa nào?”. 19 Gia-cốp đáp: “Con là Ê-sau, con trưởng của cha.+ Con đã làm y như lời cha bảo. Xin cha hãy ngồi dậy, ăn món thịt rừng của con rồi chúc phước cho con”.+ 20 Y-sác bèn hỏi: “Sao con săn được thú nhanh vậy?”. Ông trả lời: “Ấy là nhờ Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của cha, đã ban nó cho con”. 21 Y-sác bảo Gia-cốp: “Xin con lại gần đây, để cha sờ thử xem con có đúng là Ê-sau con cha hay không”.+ 22 Gia-cốp đến gần Y-sác cha mình. Y-sác sờ ông và nói: “Giọng là giọng của Gia-cốp, nhưng tay thì đúng là tay của Ê-sau”.+ 23 Y-sác không nhận ra Gia-cốp vì tay Gia-cốp cũng có lông như tay Ê-sau anh mình. Thế là Y-sác chúc phước cho ông.+
24 Y-sác lại hỏi: “Con có thật là Ê-sau, con trai của cha không?”. Gia-cốp thưa: “Vâng, đúng là con”. 25 Y-sác bảo: “Hãy mang món thịt rừng lại cho cha ăn, rồi cha sẽ chúc phước cho con”. Gia-cốp bèn đem món thịt cho cha ăn và rượu nho cho cha uống. 26 Rồi Y-sác cha ông nói: “Con ơi, xin lại gần đây và hôn cha”.+ 27 Gia-cốp lại gần hôn cha và Y-sác ngửi được mùi áo của ông.+ Thế nên Y-sác chúc phước cho ông rằng:
“Này, mùi hương của con ta giống như hương của đồng nội mà Đức Giê-hô-va đã ban phước. 28 Nguyện Đức Chúa Trời ban cho con sương trời+ và đất đai màu mỡ,+ cùng dư dật thóc lúa và rượu mới.+ 29 Nguyện các dân hầu việc con và các nước cúi rạp trước con. Nguyện con làm chủ anh em mình, và các con trai của mẹ con cúi rạp trước con.+ Nguyện kẻ rủa sả con bị rủa sả, còn ai chúc phước con được chúc phước”.+
30 Y-sác vừa chúc phước cho Gia-cốp xong và Gia-cốp vừa lìa khỏi cha mình thì Ê-sau anh ông đi săn về.+ 31 Ê-sau cũng nấu một món ngon đem đến cho cha rồi thưa: “Xin cha ngồi dậy, ăn món thịt rừng của con trai cha rồi chúc phước cho con”. 32 Y-sác cha ông liền hỏi: “Đứa nào đó?”, Ê-sau đáp: “Con là con cha, là Ê-sau, con trưởng của cha đây”.+ 33 Y-sác run lên bần bật và nói: “Vậy chứ đứa nào đã săn thịt rừng mang về cho cha? Cha đã lỡ ăn trước khi con về và chúc phước cho nó mất rồi, nó chắc chắn sẽ được phước!”.
34 Vừa nghe cha mình nói thế, Ê-sau gào lên thảm thiết và van nài: “Xin chúc phước cho con nữa, cha ơi!”.+ 35 Y-sác đáp: “Em con đã dùng mưu đoạt lời chúc phước dành cho con”. 36 Ê-sau nói: “Tên nó là Gia-cốp* thật không sai, chẳng phải nó đã qua mặt con hai lần rồi sao?+ Nó đã đoạt quyền trưởng nam của con,+ nay lại giành cả lời chúc phước của con nữa!”.+ Rồi Ê-sau hỏi: “Cha không dành lời chúc phước nào cho con sao?”. 37 Nhưng Y-sác trả lời Ê-sau: “Cha đã lập nó làm chủ con,+ và cho hết thảy anh em nó làm tôi tớ nó. Cha đã ban cho nó thóc lúa và rượu mới để sinh sống.+ Con ơi, còn gì nữa để cha cho con đây?”.
38 Ê-sau nài xin: “Cha chỉ có một lời chúc phước thôi sao? Hãy chúc phước cho con nữa, cha ơi!”. Rồi Ê-sau gào lên và òa khóc.+ 39 Y-sác cha ông bèn nói:
“Này, con sẽ không được sống nơi đất đai màu mỡ và không được hưởng sương trời.+ 40 Con sẽ sống nhờ gươm+ và hầu việc em con.+ Nhưng khi nổi dậy, con sẽ bẻ được ách nó khỏi cổ mình”.+
41 Ê-sau đem lòng oán hận Gia-cốp vì lời chúc phước mà Gia-cốp nhận được từ cha.+ Ông luôn thầm nhủ trong lòng: “Cha ta gần qua đời rồi.+ Sau đó, ta sẽ giết Gia-cốp em ta”. 42 Khi những lời của Ê-sau, con trai trưởng, đến tai Rê-bê-ca thì bà liền gọi Gia-cốp, con trai út, đến và bảo: “Con nghe này, Ê-sau anh con toan tính phục thù và giết con. 43 Giờ hãy nghe lời mẹ, lên đường chạy trốn đến nhà cậu La-ban, anh của mẹ ở Cha-ran.+ 44 Hãy ở với cậu một thời gian, đến khi cơn giận của anh con dịu xuống, 45 đến khi anh con nguôi giận và quên việc con đã làm. Lúc ấy, mẹ sẽ gọi con về. Lẽ nào mẹ phải mất cả hai con trong cùng một ngày sao?”.
46 Rê-bê-ca vẫn thường nói với Y-sác: “Tôi chán không muốn sống nữa vì cớ hai đứa con gái dân Hếch.+ Nếu Gia-cốp cũng lấy vợ trong dân Hếch, trong đám con gái của xứ, như hai đứa ấy, thì tôi còn sống làm chi?”.+
28 Vậy, Y-sác gọi Gia-cốp đến, chúc phước và căn dặn: “Con không được cưới vợ trong vòng con gái xứ Ca-na-an.+ 2 Hãy lên đường đi Pha-đan-a-ram, đến nhà ông ngoại Bê-tu-ên và cưới một trong những con gái của cậu La-ban.+ 3 Đức Chúa Trời Toàn Năng sẽ ban phước cho con, làm cho con có đông con cháu và khiến dòng dõi con tăng thêm gấp bội; từ con sẽ ra một cộng đồng các dân.+ 4 Ngài sẽ ban ân phước của ông Áp-ra-ham+ cho con, cả con lẫn dòng dõi con sau này, hầu con lấy được vùng đất mình đang sống như một ngoại kiều, là đất mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông Áp-ra-ham”.+
5 Y-sác bèn cho Gia-cốp đi. Gia-cốp lên đường đi Pha-đan-a-ram, đến nhà La-ban, con trai Bê-tu-ên người A-ram,+ và là anh của Rê-bê-ca,+ mẹ của Gia-cốp và Ê-sau.
6 Ê-sau thấy Y-sác chúc phước cho Gia-cốp và bảo đến Pha-đan-a-ram cưới vợ, thấy Y-sác căn dặn khi chúc phước rằng: “Đừng cưới vợ trong vòng con gái xứ Ca-na-an”,+ 7 cũng thấy Gia-cốp vâng lời cha mẹ lên đường đi Pha-đan-a-ram,+ 8 thì Ê-sau nhận ra là con gái xứ Ca-na-an không vừa ý Y-sác cha mình.+ 9 Thế nên ngoài những người vợ đã có, Ê-sau đi đến chỗ Ích-ma-ên cưới thêm Ma-ha-lát là con của Ích-ma-ên, con trai Áp-ra-ham, và là em gái của Nê-ba-giốt.+
10 Gia-cốp rời khỏi Bê-e-sê-ba, đi về hướng Cha-ran.+ 11 Sau đó, ông dừng chân ở một chỗ để nghỉ qua đêm vì mặt trời đã lặn. Ông lấy một hòn đá để kê đầu và nằm xuống ngủ.+ 12 Ông thấy chiêm bao, kìa, có một cầu thang bắc từ đất và đỉnh chạm đến trời, các thiên sứ của Đức Chúa Trời đi lên đi xuống trên đó.+ 13 Kìa, Đức Giê-hô-va ngự bên trên cầu thang, ngài phán:
“Ta là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ con, và Đức Chúa Trời của Y-sác.+ Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con vùng đất mà con đang nằm.+ 14 Dòng dõi con sẽ nhiều như bụi trên đất,+ tràn ra khắp đông, tây, nam, bắc; nhờ con và dòng dõi con mà mọi dân tộc trên đất sẽ được phước.*+ 15 Ta ở với con, ta sẽ che chở con ở bất cứ nơi nào con đi và dẫn con về vùng đất này.+ Ta sẽ không lìa con cho đến khi làm trọn lời ta hứa với con”.+
16 Lúc ấy Gia-cốp tỉnh giấc và nói: “Quả là Đức Giê-hô-va ngự ở nơi này mà mình không biết”. 17 Ông thấy sợ và nói tiếp: “Nơi này đáng sợ thay! Đây chỉ có thể là nhà của Đức Chúa Trời+ và là cổng trời”.+ 18 Sáng sớm Gia-cốp thức dậy, dựng hòn đá mình đã kê đầu lên làm cột, rồi đổ dầu trên đỉnh nó.+ 19 Ông đặt tên nơi ấy là Bê-tên,* nhưng tên trước kia của thành là Lu-xơ.+
20 Gia-cốp hứa nguyện: “Nếu Đức Chúa Trời luôn ở với con, che chở con trong chuyến đi này, ban cái ăn cái mặc 21 và cho con được trở về nhà cha mình bình yên thì Đức Giê-hô-va chứng tỏ là Đức Chúa Trời của con. 22 Hòn đá con đã dựng lên làm cột sẽ trở thành nhà của Đức Chúa Trời,+ con chắc chắn sẽ dâng cho ngài một phần mười mọi thứ mà ngài ban cho”.
29 Sau đó, Gia-cốp tiếp tục chuyến hành trình và đến vùng đất của dân Đông Phương. 2 Ông thấy một cái giếng trên đồng cỏ và có ba đàn cừu đang nằm cạnh giếng, vì người ta thường lấy nước từ giếng đó cho các đàn gia súc uống. Trên miệng giếng có một hòn đá lớn đậy lại. 3 Khi các đàn gia súc tập trung đầy đủ, người ta lăn hòn đá trên miệng giếng đi, lấy nước cho gia súc uống rồi đặt hòn đá lại chỗ cũ trên miệng giếng.
4 Gia-cốp hỏi thăm: “Này các anh, các anh ở đâu đến?”, họ đáp: “Chúng tôi ở Cha-ran”.+ 5 Ông hỏi: “Các anh có biết ông La-ban,+ cháu nội ông Na-cô+ không?”, họ trả lời: “Chúng tôi biết”. 6 Ông hỏi tiếp: “Ông ấy có mạnh khỏe không?”, họ đáp: “Ông ấy mạnh khỏe. Kìa! Cô Ra-chên,+ con gái ông ấy, đang dẫn đàn cừu đến”. 7 Gia-cốp nói: “Bây giờ vẫn còn đang giữa trưa và chưa đến lúc lùa gia súc về. Các anh hãy cho cừu uống nước rồi dẫn chúng đi ăn đi”. 8 Họ trả lời: “Chúng tôi không được phép làm thế. Chừng nào các đàn gia súc tập trung đầy đủ và người ta lăn hòn đá trên miệng giếng đi thì chúng tôi mới cho cừu uống nước được”.
9 Gia-cốp còn đang nói chuyện với họ thì Ra-chên cùng đàn cừu của cha mình đi đến, vì cô là người chăn cừu. 10 Khi thấy Ra-chên, con gái của La-ban, tức anh của mẹ mình, cùng với đàn cừu đến, Gia-cốp liền chạy đi lăn hòn đá khỏi miệng giếng và lấy nước cho đàn cừu của La-ban. 11 Rồi ông hôn Ra-chên và òa khóc. 12 Gia-cốp cho Ra-chên biết mình là bà con* với cha cô và là con của Rê-bê-ca. Cô liền chạy về báo tin cho cha.
13 Vừa hay tin về Gia-cốp, con của em gái mình, La-ban+ chạy ra gặp ông. La-ban ôm chầm lấy ông mà hôn và dẫn về nhà. Gia-cốp kể cho La-ban nghe hết mọi chuyện. 14 Sau khi nghe xong, La-ban nói: “Cháu đúng là cốt nhục của cậu”. Gia-cốp ở lại với La-ban trọn một tháng.
15 Sau đó, La-ban nói với Gia-cốp: “Chẳng lẽ vì là cháu* của cậu+ mà cháu phải làm việc không công cho cậu sao? Hãy cho cậu biết cháu muốn được trả công thế nào”.+ 16 La-ban vốn có hai con gái. Cô chị tên là Lê-a, cô em là Ra-chên.+ 17 Đôi mắt Lê-a không sáng đẹp,* còn Ra-chên thì dung mạo diễm kiều. 18 Gia-cốp yêu Ra-chên nên trả lời: “Cháu sẵn lòng làm việc cho cậu trong bảy năm để được Ra-chên, con gái út của cậu”.+ 19 La-ban nói: “Gả nó cho cháu thì tốt hơn gả cho người khác. Vậy, cháu hãy ở lại với cậu”. 20 Thế là Gia-cốp làm việc trong bảy năm để được Ra-chên,+ nhưng bởi yêu nàng nên đối với ông bảy năm ấy chỉ như vài ngày.
21 Bấy giờ, Gia-cốp nói với La-ban: “Nay thời hạn đã hết. Xin cậu giao vợ cho cháu để chúng cháu sống với nhau”. 22 La-ban bèn mời mọi người ở đó đến và mở tiệc. 23 Nhưng tối hôm ấy, ông lại dùng kế đưa Lê-a con mình đến để Gia-cốp nằm với cô. 24 La-ban cũng cho tớ gái Xinh-ba theo hầu Lê-a con mình.+ 25 Đến sáng, Gia-cốp nhận ra đó là Lê-a! Ông bèn hỏi La-ban: “Cha làm gì với con vậy? Chẳng phải con làm việc cho cha để được Ra-chên ư? Sao cha lại gạt con?”.+ 26 La-ban đáp: “Theo phong tục ở đây, không được gả em trước chị cả. 27 Con cứ ở trọn tuần lễ với đứa này rồi cha sẽ gả luôn đứa kia, nhưng đổi lại, con phải làm việc cho cha thêm bảy năm nữa”.+ 28 Gia-cốp đành làm theo và ở trọn tuần lễ với cô chị. Sau đó, La-ban gả Ra-chên con mình cho Gia-cốp. 29 Ông cũng cho tớ gái Bi-la+ theo hầu Ra-chên con mình.+
30 Gia-cốp ăn ở với Ra-chên và yêu Ra-chên nhiều hơn Lê-a. Ông làm việc cho La-ban thêm bảy năm nữa.+ 31 Đức Giê-hô-va thấy Lê-a không được chồng yêu nên cho cô có thai.+ Nhưng Ra-chên thì hiếm muộn.+ 32 Lê-a mang thai và sinh một con trai. Cô đặt tên con là Ru-bên*+ vì nói: “Đức Giê-hô-va đã nhìn thấy nỗi khổ sở của tôi,+ từ nay chồng sẽ yêu tôi”. 33 Cô lại có thai và sinh một con trai nữa. Cô nói: “Đức Giê-hô-va đã lắng nghe, thấy tôi không được chồng yêu, nên ban cho tôi đứa con này”. Cô bèn đặt tên con là Si-mê-ôn.*+ 34 Cô có thai lần nữa và sinh một con trai. Cô nói: “Nay chồng sẽ gắn bó với tôi, vì tôi đã sinh cho người ba đứa con trai”. Thế nên đứa trẻ được đặt tên là Lê-vi.*+ 35 Lê-a mang thai thêm lần nữa, cô sinh một con trai và nói: “Lần này tôi xin ngợi khen Đức Giê-hô-va”. Vì thế, cô đặt tên con là Giu-đa.*+ Sau đó, cô ngừng sinh nở.
30 Khi Ra-chên thấy cô không sinh được con cho Gia-cốp thì đâm ra ghen tị với chị và nói cùng Gia-cốp: “Hãy cho tôi có con, bằng không tôi chết mất”. 2 Gia-cốp nổi giận với Ra-chên và nói: “Tôi là Đức Chúa Trời hay sao? Chỉ ngài mới có quyền cấm mình có thai”. 3 Ra-chên bèn nói: “Bi-la tớ gái của tôi đây.+ Mình hãy ăn ở với cô ta để cô ta sinh con cho tôi,* và nhờ cô ta mà tôi cũng có con”. 4 Thế là cô đưa Bi-la tôi tớ mình đến với Gia-cốp để làm vợ ông và Gia-cốp ăn ở với cô.+ 5 Bi-la có thai và sinh một con trai cho Gia-cốp. 6 Ra-chên bèn nói: “Đức Chúa Trời là đấng xét xử cho tôi, và ngài nghe tiếng tôi nên ban cho tôi một con trai”. Vì thế, cô đặt tên đứa trẻ là Đan.*+ 7 Bi-la, tôi tớ của Ra-chên, có thai lần nữa và sinh con trai thứ hai cho Gia-cốp. 8 Ra-chên nói: “Tôi tranh đấu kịch liệt với chị mình và đã thắng!”. Thế nên cô đặt tên đứa trẻ là Nép-ta-li.*+
9 Khi thấy mình không sinh nở nữa, Lê-a đưa Xinh-ba tôi tớ mình đến với Gia-cốp để làm vợ ông.+ 10 Xinh-ba, tôi tớ của Lê-a, sinh một con trai cho Gia-cốp. 11 Lê-a nói: “Phước biết bao!”. Vì vậy, cô đặt tên đứa trẻ là Gát.*+ 12 Sau đó Xinh-ba, tôi tớ của Lê-a, sinh con trai thứ hai cho Gia-cốp. 13 Lê-a nói: “Hạnh phúc cho tôi thay! Các phụ nữ sẽ gọi tôi là người hạnh phúc”.+ Bởi thế cô đặt tên đứa trẻ là A-se.*+
14 Vào mùa gặt lúa mì, Ru-bên+ đi dạo ngoài đồng, thấy trái của cây khoai ma* bèn đem về cho Lê-a mẹ mình. Ra-chên nói với Lê-a: “Xin chị cho em vài trái khoai ma của con chị”. 15 Nhưng Lê-a đáp: “Cô giành chồng tôi là chuyện nhỏ sao,+ giờ lại giành mấy trái khoai ma của con tôi nữa?”. Ra-chên nói: “Thế thì chị cho em mấy trái khoai ma của con chị, đổi lại ông ấy sẽ ở với chị đêm nay”.
16 Đến chiều tối, Gia-cốp từ đồng cỏ trở về thì Lê-a ra đón ông và nói: “Mình sẽ ở với tôi đêm nay, vì tôi đã đổi mấy trái khoai ma của con tôi để có quyền này”. Thế là Gia-cốp ngủ với cô đêm đó. 17 Đức Chúa Trời nghe và đáp lời cầu xin của Lê-a nên cô có thai và sinh con trai thứ năm cho Gia-cốp. 18 Lê-a bèn nói: “Đức Chúa Trời thưởng công cho tôi, vì tôi đã đưa tôi tớ mình cho chồng”. Vì thế cô đặt tên con là Y-sa-ca.*+ 19 Lê-a lại có thai và sinh con trai thứ sáu cho Gia-cốp.+ 20 Cô nói: “Đức Chúa Trời đã gia ân cho tôi, một ân phước tốt lành cho chính tôi. Rồi chồng sẽ nhẫn nhịn tôi,+ vì tôi đã sinh cho người sáu con trai”.+ Thế nên cô đặt tên con là Xê-bu-lôn.*+ 21 Sau đó, cô sinh một con gái và đặt tên là Đi-na.+
22 Cuối cùng, Đức Chúa Trời nhớ đến Ra-chên, ngài nghe và đáp lời cầu xin của cô và cho cô có thai.+ 23 Cô thọ thai, sinh một con trai và nói: “Đức Chúa Trời đã cất đi nỗi nhục của tôi!”.+ 24 Cô đặt tên con là Giô-sép*+ vì nói: “Đức Giê-hô-va cho tôi thêm một con trai”.
25 Sau khi Ra-chên sinh Giô-sép, Gia-cốp liền nói với La-ban: “Cha hãy cho con về quê nhà, về xứ sở của con.+ 26 Hãy cho con dẫn vợ con mình theo, bởi con vì họ mà làm việc cho cha. Cha biết rõ con đã làm việc cho cha thế nào”.+ 27 La-ban đáp: “Giá như cha được ơn trước mắt con... Cha đã thấy các dấu hiệu và hiểu rằng nhờ con mà Đức Giê-hô-va ban phước cho cha”. 28 Ông nói tiếp: “Hãy định tiền công của con, bao nhiêu cha cũng trả”.+ 29 Gia-cốp đáp: “Cha biết con đã làm việc cho cha thế nào và nhờ con mà đàn gia súc của cha nay ra sao.+ 30 Trước khi con đến đây, cha chẳng có bao nhiêu, nhưng đàn gia súc của cha đã tăng lên và sinh sản nhiều, vì Đức Giê-hô-va ban phước cho cha từ khi con đến. Vậy bao giờ con mới gây dựng cho gia đình riêng của mình?”.+
31 La-ban hỏi: “Cha phải trả cho con bao nhiêu?”. Gia-cốp đáp: “Cha không phải trả gì hết! Chỉ xin cha làm điều này thì con sẽ ở lại chăn dắt và trông coi bầy của cha.+ 32 Hôm nay con sẽ đi xem hết bầy của cha. Cha hãy lấy ra tất cả cừu có đốm hoặc khoang màu, cừu đực con có màu nâu đậm và dê cái có khoang màu hoặc có đốm. Từ nay trở đi, nếu trong bầy sinh ra con nào như vậy thì sẽ là công giá của con.+ 33 Mai này khi đến kiểm bầy thuộc về công giá của con, cha sẽ thấy rõ lòng ngay thẳng của con; nếu trong bầy tìm thấy dê cái nào không có đốm hoặc khoang màu và cừu đực con nào không có màu nâu đậm thì xem đó như vật ăn cắp”.
34 La-ban nói: “Được lắm! Cứ làm như lời con”.+ 35 Ngay ngày đó, ông lấy ra những con dê đực có sọc hoặc khoang màu, tất cả dê cái có đốm hoặc khoang màu, tất cả con nào có đốm trắng hoặc khoang trắng, tất cả cừu đực con có màu nâu đậm, rồi giao cho các con trai ông. 36 La-ban đem bầy mình cách xa chỗ Gia-cốp ba ngày đường và Gia-cốp tiếp tục chăn bầy còn lại của La-ban.
37 Gia-cốp lấy những cành cây bồ đề, hạnh đào và tiêu huyền tươi rồi bóc vỏ nhiều chỗ để lộ ra những phần lõi trắng của cành. 38 Ông đặt những cành cây đã bóc vỏ ấy trước mặt gia súc, trong các đường dẫn nước và máng đựng nước mà chúng thường đến uống, để chúng động đực trước các cành cây khi đến uống nước.
39 Thế là chúng động đực trước các cành cây, rồi sinh ra những con có sọc, đốm hoặc khoang màu. 40 Gia-cốp tách riêng cừu đực con ra và cho bầy của La-ban nhìn về phía những con có sọc hoặc màu nâu đậm. Sau đó, ông tách bầy của mình ra, không để chung với bầy của La-ban. 41 Khi nào những con khỏe mạnh động đực, Gia-cốp đặt các cành cây trong đường dẫn nước trước mắt chúng, để chúng động đực bên các cành ấy. 42 Nhưng khi những con yếu động đực thì ông không để các cành cây ở đó. Vì thế, các con yếu luôn thuộc về La-ban, còn các con khỏe mạnh thuộc về Gia-cốp.+
43 Thế là Gia-cốp trở nên rất giàu, ông có thêm thật nhiều gia súc, lạc đà và lừa, cùng tôi trai tớ gái.+
31 Một thời gian sau, Gia-cốp nghe các con trai của La-ban nói: “Gia-cốp đã lấy hết mọi thứ thuộc về cha và nhờ tài sản của cha mà nó giàu lên”.+ 2 Gia-cốp nhìn nét mặt La-ban thì thấy thái độ của ông đối với mình không còn như trước.+ 3 Cuối cùng Đức Giê-hô-va phán với Gia-cốp: “Hãy trở về xứ sở của tổ phụ và về với bà con mình,+ ta sẽ vẫn ở với con”. 4 Gia-cốp sai người đi gọi Ra-chên và Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ bầy gia súc của ông, 5 rồi nói:
“Tôi thấy thái độ của cha các cô đối với tôi đã thay đổi,+ nhưng Đức Chúa Trời của cha tôi vẫn ở với tôi.+ 6 Các cô biết rõ là tôi đã làm việc cho cha các cô hết sức mình,+ 7 và ông đã gian lận mà đổi công giá tôi cả chục lần. Nhưng Đức Chúa Trời không để ông gây thiệt hại cho tôi. 8 Nếu ông ấy nói: ‘Những con có đốm là phần công giá của con’ thì cả bầy đều sinh con có đốm. Còn nếu ông ấy nói: ‘Những con có sọc là phần công giá của con’ thì cả bầy đều sinh con có sọc.+ 9 Cứ thế mà Đức Chúa Trời lấy gia súc của cha các cô để ban cho tôi. 10 Lần nọ, đến mùa gia súc giao phối, tôi mơ thấy rằng những con dê đực giao phối với các con trong bầy đều có sọc, đốm hoặc chấm.+ 11 Rồi thiên sứ của Đức Chúa Trời gọi* tôi trong giấc mơ: ‘Hỡi Gia-cốp!’, và tôi đáp: ‘Thưa, con đây’. 12 Ngài phán: ‘Con hãy nhìn xem,* tất cả dê đực giao phối với các con trong bầy đều có sọc, đốm hoặc chấm, bởi ta đã thấy hết mọi việc La-ban làm với con.+ 13 Ta là Đức Chúa Trời đã hiện ra cùng con tại Bê-tên,+ nơi con xức dầu cho cái cột và hứa nguyện với ta.+ Giờ hãy lên đường, đi khỏi xứ này và trở về nơi con sinh ra’”.+
14 Ra-chên và Lê-a nói: “Chúng tôi còn phần gia tài nào trong nhà cha đâu! 15 Chẳng phải cha xem chúng tôi như người dưng vì đã gả bán chúng tôi, rồi tiêu xài số tiền ấy sao?+ 16 Tất cả tài sản mà Đức Chúa Trời đã lấy của cha nay thuộc về chúng ta và con cái chúng ta.+ Mình hãy làm theo mọi lời Đức Chúa Trời dặn bảo”.+
17 Bấy giờ, Gia-cốp lên đường. Ông đỡ vợ con lên lạc đà+ 18 và đem theo hết thảy bầy đàn cùng tài sản ông đã gây dựng,+ bầy gia súc ông gây được ở Pha-đan-a-ram, để về với Y-sác cha mình ở xứ Ca-na-an.+
19 Lúc ấy, La-ban đang ở ngoài đồng xén lông cừu. Ra-chên nhân dịp đó lấy trộm các tượng thê-ra-phim*+ của cha mình.+ 20 Gia-cốp lừa được La-ban người A-ram, không cho ông ta biết mình sắp trốn đi. 21 Gia-cốp bỏ trốn và băng qua sông Ơ-phơ-rát,+ cùng đi với ông có gia đình và mọi vật thuộc về ông. Rồi ông đi về hướng vùng núi Ga-la-át.+ 22 Đến ngày thứ ba, La-ban hay tin Gia-cốp đã trốn đi. 23 La-ban liền cùng người nhà* đuổi theo Gia-cốp trong bảy ngày đường và bắt kịp ông ở vùng núi Ga-la-át. 24 Ban đêm, Đức Chúa Trời hiện ra với La-ban người A-ram+ trong một giấc mơ+ và phán: “Hãy coi chừng điều ngươi nói với Gia-cốp, dù lành hay dữ”.+
25 Khi Gia-cốp đang đóng trại ở vùng núi Ga-la-át và La-ban cùng người nhà cũng đóng trại gần đó thì La-ban đến gặp Gia-cốp. 26 La-ban nói với Gia-cốp: “Con làm gì thế? Sao lại lừa cha mà đem hết con gái của cha đi như bắt tù nhân chiến tranh vậy? 27 Sao con âm thầm bỏ trốn, lừa cha và không cho cha biết gì hết? Nếu con nói trước, hẳn cha đã tiễn con trong niềm vui tiếng hát, trong tiếng trống tiếng đàn. 28 Nhưng con chẳng để cha hôn từ biệt hai con gái và các cháu mình. Con làm vậy thật dại dột. 29 Cha thừa sức làm hại các con, nhưng đêm qua Đức Chúa Trời của tổ phụ các con đã phán với cha rằng: ‘Hãy coi chừng điều ngươi nói với Gia-cốp, dù lành hay dữ’.+ 30 Con đi vì mong mỏi trở về nhà cha mình đã đành, nhưng sao lại lấy trộm các thần của cha?”.+
31 Gia-cốp đáp lời La-ban: “Con lén bỏ đi vì sợ. Con thầm nghĩ: ‘Cha sẽ bắt các con gái của cha lại’. 32 Nếu cha tìm được các thần của cha nơi người nào thì người đó sẽ chết. Trước mặt mọi người, cha hãy khám xét đồ đạc chúng con và lấy lại vật gì thuộc về cha”. Nhưng Gia-cốp không biết Ra-chên đã trộm các tượng thần. 33 Thế là La-ban đi vào lều của Gia-cốp, lều của Lê-a và lều của hai người tớ gái,+ nhưng ông không tìm thấy các tượng đó. Rồi ông ra khỏi lều của Lê-a và đi vào lều của Ra-chên. 34 Ra-chên đã giấu các tượng thê-ra-phim trong yên lạc đà dành cho phụ nữ và cô đang ngồi trên đó. Vì thế, La-ban khám xét khắp lều mà không tìm thấy chúng. 35 Cô nói với cha: “Thưa chúa, xin đừng giận. Con không tiện xuống vì đang đến kỳ của phụ nữ”.+ Ông tiếp tục khám xét rất kỹ nhưng không tìm được các tượng thê-ra-phim.+
36 Gia-cốp bèn nổi giận và trách La-ban. Ông nói: “Con đã làm gì sai, con có tội gì mà cha ráo riết đuổi theo như thế? 37 Cha đã khám xét hết đồ đạc của con, cha có tìm thấy thứ gì thuộc về nhà mình không? Hãy đưa thứ ấy ra trước mặt người nhà con và người nhà cha, để họ phân xử giữa hai chúng ta. 38 Suốt 20 năm con ở với cha, cừu và dê của cha chưa từng sẩy thai,+ và con chưa bao giờ ăn cừu đực trong bầy của cha. 39 Con vật nào bị thú dữ cắn xé+ thì con không đem về cho cha mà thà chịu thiệt. Thế nhưng hễ có con nào bị cướp, bất kể là ban ngày hay ban đêm, thì cha đều đòi con bồi thường. 40 Ban ngày con phải chịu nắng nóng như thiêu, ban đêm chịu giá rét, lắm lúc thức trắng đêm.+ 41 Con làm việc 20 năm trong nhà cha: 14 năm để được hai con gái cha và 6 năm để được bầy gia súc, cha lại còn đổi công giá của con cả chục lần.+ 42 Nếu Đức Chúa Trời của tổ phụ con,+ là Đức Chúa Trời của ông Áp-ra-ham, là đấng mà ông Y-sác kính sợ,*+ không đứng về phía con thì bây giờ hẳn cha đã đuổi con đi tay không. Nhưng Đức Chúa Trời đã thấy nỗi khổ sở và công khó của tay con, vì vậy đêm qua ngài đã cảnh báo cha”.+
43 La-ban đáp lời Gia-cốp: “Đây là con gái của cha, đây là cháu của cha, đây cũng là bầy gia súc của cha. Mọi thứ trước mắt con đều thuộc về cha và hai con gái cha. Lẽ nào cha làm hại các con gái mình và những đứa con chúng đã sinh ra? 44 Nào, cha con mình hãy lập giao ước. Giao ước đó sẽ làm chứng giữa chúng ta”. 45 Gia-cốp bèn lấy một hòn đá và dựng lên làm cột.+ 46 Ông bảo người nhà: “Hãy đi lượm đá!”. Họ liền đi lượm đá, chất thành một đống. Rồi họ cùng nhau dùng bữa trên đống đá đó. 47 La-ban đặt tên đống đá ấy là Y-ê-ga-sa-ha-đu-ta,* còn Gia-cốp thì gọi nó là Ga-lét.*
48 La-ban nói: “Hôm nay đống đá này làm chứng giữa cha và con”. Thế nên nó được gọi là Ga-lét,+ 49 và cũng được gọi là Tháp Canh vì ông nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va canh giữa cha và con khi chúng ta không thấy mặt nhau. 50 Nếu con bạc đãi các con gái cha và cưới thêm vợ khác thì dù không có ai ở bên chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời sẽ là đấng làm chứng giữa cha và con”. 51 La-ban nói tiếp với Gia-cốp: “Đây là đống đá và cái cột mà cha đã dựng giữa cha và con. 52 Đống đá này làm chứng, cái cột này cũng là vật làm chứng,+ rằng cha sẽ không vượt qua đống đá này để gây thiệt hại cho con, và con cũng không vượt qua đống đá và cái cột này để gây thiệt hại cho cha. 53 Nguyện Đức Chúa Trời của ông Áp-ra-ham+ và Đức Chúa Trời của ông Na-cô, Đức Chúa Trời của cha họ, phân xử giữa chúng ta”. Gia-cốp chỉ đấng mà Y-sác cha mình kính sợ* để thề.+
54 Sau đó, Gia-cốp dâng vật tế lễ trên núi và mời người nhà mình dùng bữa. Vậy, họ cùng nhau dùng bữa và nghỉ qua đêm trên núi. 55 Sáng hôm sau La-ban dậy sớm, hôn từ biệt hai con gái và các cháu mình,+ chúc phước cho họ+ rồi lên đường trở về nhà.+
32 Gia-cốp đi tiếp đường mình thì có các thiên sứ của Đức Chúa Trời gặp ông. 2 Vừa thấy họ, Gia-cốp thốt lên: “Đây là trại của Đức Chúa Trời!”. Vì vậy, ông gọi nơi đó là Ma-ha-na-im.*
3 Sau đó, Gia-cốp sai người đưa tin đi trước để gặp Ê-sau anh mình ở vùng Sê-i-rơ,+ lãnh thổ của Ê-đôm.+ 4 Ông dặn họ: “Hãy thưa với Ê-sau chúa ta thế này: ‘Gia-cốp tôi tớ ngài nói rằng: “Em đã ở với cậu La-ban một thời gian dài cho đến nay.+ 5 Em có nhiều bò, lừa, cừu cùng tôi trai tớ gái,+ nay xin báo tin này cho chúa biết để được ơn trước mắt chúa”’”.
6 Những người đưa tin trở về báo với Gia-cốp rằng: “Chúng tôi đã gặp Ê-sau anh ông. Ông ấy đang trên đường đến đây gặp ông và có 400 người đi cùng”.+ 7 Gia-cốp đâm ra sợ hãi và lo lắng.+ Ông chia người nhà mình cùng cừu, dê, bò và lạc đà thành hai trại 8 vì ông nói: “Nếu Ê-sau tấn công trại này thì trại kia có thể chạy thoát”.
9 Sau đó, Gia-cốp cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời của ông con là Áp-ra-ham và Đức Chúa Trời của cha con là Y-sác, lạy Đức Giê-hô-va, đấng đã phán cùng con rằng: ‘Hãy trở về xứ sở của con và về với bà con mình, ta sẽ ban phước lành cho con’,+ 10 con chẳng xứng đáng với tình yêu thương thành tín và lòng trung tín mà ngài đã tỏ ra cùng kẻ tôi tớ này.+ Khi băng qua sông Giô-đanh, con chỉ có cây gậy trên tay mà nay đã có hai trại này.+ 11 Con van xin ngài giải cứu con+ khỏi tay Ê-sau anh con, vì con sợ anh ấy, e rằng anh ấy sẽ đến tấn công con,+ cả bọn trẻ lẫn mẹ chúng. 12 Bởi ngài có phán rằng: ‘Ta sẽ ban phước lành cho con, làm cho dòng dõi con nhiều như cát biển, không thể đếm được’”.+
13 Gia-cốp nghỉ đêm ở đó. Ông lấy một phần tài sản làm quà biếu cho Ê-sau anh mình:+ 14 200 dê cái, 20 dê đực, 200 cừu cái, 20 cừu đực, 15 30 lạc đà cái cùng con đang bú, 40 bò cái, 10 bò đực, 20 lừa cái và 10 lừa đực trưởng thành.+
16 Ông chia chúng theo từng nhóm cho các tôi tớ và căn dặn: “Hãy băng qua suối trước ta, mỗi nhóm phải cách nhau một quãng”. 17 Ông dặn người dẫn nhóm đầu tiên: “Nếu Ê-sau anh ta có hỏi: ‘Chủ ngươi là ai, ngươi đi đâu và đàn gia súc này của ai?’, 18 ngươi phải trả lời: ‘Thưa, của Gia-cốp tôi tớ ngài. Đây là quà biếu cho Ê-sau chúa tôi,+ và này, chính chủ tôi đang đi đằng sau chúng tôi’”. 19 Ông cũng dặn người dẫn nhóm thứ hai, thứ ba và tất cả những người dẫn các nhóm gia súc: “Khi gặp ông Ê-sau, các ngươi phải nói như thế. 20 Các ngươi cũng phải nói: ‘Gia-cốp tôi tớ ngài đang đi đằng sau chúng tôi’”. Gia-cốp thầm nghĩ: “Nếu mình biếu quà trước+ để làm anh ấy nguôi giận, thì khi gặp mặt nhau, có lẽ anh ấy sẽ tiếp đón mình tử tế”. 21 Vậy các tôi tớ đem số quà biếu băng qua suối trước, còn ông thì ở lại trại đêm đó.
22 Đến khuya, ông trỗi dậy, đưa hai vợ,+ hai tớ gái+ và 11 con trai băng qua chỗ nông của suối Gia-bốc.+ 23 Vậy ông đưa họ cùng mọi thứ thuộc về mình băng qua suối.
24 Lúc đó chỉ còn một mình Gia-cốp ở lại. Có một vị vật lộn với ông đến rạng đông.+ 25 Khi thấy mình không thắng thế, vị ấy đụng vào khớp hông của Gia-cốp. Thế là Gia-cốp bị trật khớp hông trong lúc vật lộn.+ 26 Vị ấy nói:* “Hãy để ta đi vì trời sắp sáng rồi”. Gia-cốp thưa: “Con sẽ không để ngài đi nếu ngài chưa ban phước cho con”.+ 27 Vị ấy hỏi: “Con tên gì?”, ông đáp: “Con tên Gia-cốp”. 28 Vị ấy phán: “Tên của con không còn là Gia-cốp nữa mà là Y-sơ-ra-ên,*+ vì con đã tranh đấu với Đức Chúa Trời+ lẫn con người và cuối cùng đã thắng thế”. 29 Gia-cốp cũng hỏi: “Xin cho con biết tên ngài”. Nhưng vị ấy đáp: “Sao con lại hỏi tên ta?”.+ Rồi vị ấy ban phước cho ông tại đó. 30 Gia-cốp bèn gọi nơi ấy là Phê-ni-ên*+ vì ông nói: “Tôi đã thấy Đức Chúa Trời mặt đối mặt, nhưng vẫn giữ được tính mạng”.+
31 Khi mặt trời vừa mọc, Gia-cốp đi khỏi Phê-nu-ên,* chân bước khập khiễng vì bị thương ở hông.+ 32 Thế nên đến nay, con cháu Y-sơ-ra-ên có lệ không ăn gân đùi ở khớp hông vì vị ấy đã đụng đến khớp hông của Gia-cốp, chỗ gân đùi.
33 Bấy giờ, Gia-cốp nhìn về phía trước thì thấy Ê-sau đang tiến đến cùng với 400 người.+ Gia-cốp bèn chia các con cho Lê-a, Ra-chên và hai tớ gái.+ 2 Ông cho hai tớ gái cùng các con của họ đi đầu,+ kế tiếp là Lê-a cùng các con của cô,+ sau cùng là Ra-chên+ và Giô-sép. 3 Còn chính ông thì đi phía trước họ. Ông bước vài bước rồi sấp mặt xuống đất, làm thế bảy lần cho đến khi tới gần anh mình.
4 Nhưng Ê-sau chạy lại đón ông, ôm chầm lấy mà hôn, và cả hai bật khóc. 5 Ê-sau nhìn lên, thấy các phụ nữ và bọn trẻ thì hỏi: “Ai đi cùng em thế?”. Gia-cốp đáp: “Đây là các con mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi tớ anh”.+ 6 Hai tớ gái cùng các con bước đến và sấp mặt xuống; 7 Lê-a cùng các con cũng bước đến và sấp mặt xuống. Rồi Giô-sép cùng Ra-chên bước đến và sấp mặt xuống.+
8 Ê-sau bèn hỏi: “Còn những người và đàn gia súc mà anh gặp trên đường, em gửi đến làm chi?”.+ Gia-cốp đáp: “Ấy là để được ơn trước mắt chúa của em”.+ 9 Ê-sau nói: “Em à, anh có dư dả tài sản rồi.+ Của em thì em cứ giữ đi”. 10 Nhưng Gia-cốp nói: “Không được. Nếu em được ơn trước mắt anh, xin anh nhận quà biếu này từ tay em, bởi em gửi chúng đến là để được gặp mặt anh. Em quả đã được gặp mặt anh, như thể là gặp mặt Đức Chúa Trời vì anh đã vui lòng đón nhận em.+ 11 Xin anh cứ nhận món quà chúc phước gửi đến anh+ vì Đức Chúa Trời đã ban ơn cho em và em không thiếu gì cả”.+ Gia-cốp nài nỉ mãi nên Ê-sau đành nhận.
12 Sau đó, Ê-sau nói: “Chúng ta hãy lên đường, anh sẽ dẫn đầu”. 13 Nhưng Gia-cốp đáp: “Chúa biết bọn trẻ thì yếu sức.+ Em cũng phải chăm lo cho cừu và bò đang cho con bú, nếu dẫn chúng đi nhanh quá, dù chỉ một ngày thì cả bầy sẽ chết. 14 Xin chúa cứ đi trước tôi tớ chúa. Em sẽ đi sau chậm hơn, tùy theo sức của đàn gia súc và bọn trẻ, rồi mình sẽ gặp nhau ở Sê-i-rơ”.+ 15 Ê-sau bảo: “Vậy, anh xin để một số người ở lại với em”. Gia-cốp nói: “Cần gì làm thế? Em được ơn trước mắt chúa là đủ lắm rồi”. 16 Ê-sau bèn lên đường trở về Sê-i-rơ trong hôm đó.
17 Còn Gia-cốp thì đi đến Su-cốt.+ Tại đó ông xây nhà để ở và dựng chòi cho đàn gia súc. Vì thế ông gọi nơi ấy là Su-cốt.*
18 Sau khi từ Pha-đan-a-ram+ trở về, Gia-cốp đến thành Si-chem+ thuộc xứ Ca-na-an+ bình an vô sự. Ông đóng trại gần thành ấy, 19 rồi mua lại từ các con trai Hê-mô, cha Si-chem, một phần của khu đất mà mình đang đóng trại với giá 100 miếng bạc.+ 20 Ông dựng một bàn thờ ở đó và đặt tên là: Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.+
34 Đi-na, con gái mà Lê-a sinh cho Gia-cốp,+ thường ra ngoài giao du với các cô gái bản xứ.+ 2 Si-chem, con trai của Hê-mô người Hê-vít,+ một thủ lĩnh xứ đó, để ý đến Đi-na. Hắn bắt nàng và hãm hiếp. 3 Si-chem ngày càng say đắm Đi-na, con gái Gia-cốp, thương yêu nàng và dỗ ngọt để lấy lòng nàng. 4 Si-chem bèn nói với Hê-mô+ cha mình: “Xin cha đi hỏi cưới nàng cho con”.
5 Gia-cốp nghe tin Si-chem làm nhục Đi-na con mình. Khi ấy các con trai ông đang ở ngoài đồng chăn bầy, nên ông giữ im lặng cho đến khi họ về. 6 Hê-mô, cha của Si-chem, đến nói chuyện với Gia-cốp. 7 Tuy nhiên, các con trai của Gia-cốp biết được tin ấy thì từ ngoài đồng trở về ngay. Họ tức giận và phẫn nộ vì Si-chem đã gây sỉ nhục cho Y-sơ-ra-ên khi cưỡng đoạt con gái Gia-cốp,+ là điều không được phép làm.+
8 Hê-mô nói với họ: “Si-chem, con trai tôi, đã phải lòng con gái nhà các ông. Xin gả cháu cho con trai tôi 9 và chúng ta hãy kết tình thông gia. Hãy gả các con gái nhà các ông cho chúng tôi và cưới các con gái nhà chúng tôi về làm vợ.+ 10 Các ông có thể sống với chúng tôi, cả xứ này ở trước mặt các ông. Hãy ở lại và an cư lạc nghiệp tại nơi này”. 11 Si-chem bèn nói với cha Đi-na và các anh nàng: “Mong cháu được ơn trước mắt bác và các anh. Nhà bác muốn gì cháu cũng đáp ứng. 12 Nhà bác cứ đòi sính lễ thật cao và cả quà cáp nữa.+ Cháu sẵn lòng đáp ứng những gì nhà bác đưa ra. Chỉ xin gả nàng cho cháu”.
13 Các con trai Gia-cốp trả lời Si-chem và Hê-mô cha hắn bằng những lời giả dối vì hắn đã làm nhục Đi-na em gái họ. 14 Họ đáp: “Không được, chúng tôi không thể gả em gái cho người chưa cắt bì,+ vì đó là một sự sỉ nhục. 15 Chúng tôi chỉ bằng lòng với điều kiện là các ông phải như chúng tôi, mọi người nam phải cắt bì.+ 16 Có vậy chúng tôi mới gả các con gái mình cho các ông và cưới các con gái của các ông về làm vợ, chúng tôi sẽ sống với các ông và chúng ta sẽ trở thành một dân mà thôi. 17 Nhưng nếu các ông không nghe và không chịu cắt bì, chúng tôi sẽ đem con gái nhà mình về và ra đi”.
18 Những lời ấy đẹp lòng Hê-mô+ và Si-chem, con Hê-mô.+ 19 Gã thanh niên ấy liền làm theo những gì họ đòi hỏi+ vì con gái Gia-cốp vừa ý hắn; Si-chem cũng là người được quý trọng nhất trong cả nhà cha mình.
20 Hê-mô và Si-chem con ông đi đến cổng thành nói với các người nam trong thành+ rằng: 21 “Những người này muốn sống hòa bình với chúng ta. Hãy để họ an cư lạc nghiệp tại nơi này vì đất của chúng ta đủ rộng. Chúng ta có thể cưới con gái họ và gả con gái mình cho họ.+ 22 Chỉ có một điều kiện để họ bằng lòng sống với chúng ta và cùng chúng ta trở thành một dân: Đó là mọi người nam trong chúng ta phải chịu cắt bì như họ.+ 23 Chẳng phải tài sản, sự giàu có và tất cả bầy đàn của họ rồi cũng sẽ thuộc về chúng ta sao? Vậy chúng ta hãy bằng lòng với điều kiện ấy để họ sống với chúng ta”. 24 Mọi người ở cổng thành đều nghe lời Hê-mô và Si-chem con ông, và tất cả người nam đều chịu cắt bì, tức là tất cả những người ở cổng thành.
25 Tuy nhiên, vào ngày thứ ba, khi những người ấy còn đau đớn thì hai con trai Gia-cốp là Si-mê-ôn và Lê-vi, tức hai anh của Đi-na,+ mỗi người cầm gươm đi vào thành trong lúc không ai ngờ, và ra tay giết tất cả người nam.+ 26 Họ dùng gươm giết hai cha con Hê-mô và Si-chem, đem Đi-na ra khỏi nhà Si-chem rồi đi về. 27 Các con trai khác của Gia-cốp xông đến những người bị giết và cướp bóc thành, vì em mình đã bị làm nhục.+ 28 Họ đem đi cừu, dê, bò, lừa và mọi thứ trong thành lẫn ngoài đồng. 29 Họ cũng lấy hết tài sản, bắt cả vợ cùng con nhỏ của dân thành ấy và cướp bóc mọi thứ trong nhà.
30 Gia-cốp bèn nói với Si-mê-ôn và Lê-vi:+ “Hai đứa bay đã gây đại họa cho cha, khiến cha thành một thứ hôi tanh đối với dân trong xứ, dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. Ta chỉ có ít người, mà họ thì chắc chắn sẽ hợp sức để tấn công ta. Lúc ấy cha và cả nhà đều sẽ bị diệt”. 31 Họ đáp: “Lẽ nào chúng con để em mình bị đối xử như gái điếm sao?”.
35 Đức Chúa Trời phán với Gia-cốp: “Hãy lên đường đi đến Bê-tên,+ ở tại đó và dựng một bàn thờ cho Đức Chúa Trời, đấng đã hiện ra với con thời con chạy trốn Ê-sau anh mình”.+
2 Gia-cốp bảo người nhà và tất cả những người ở với ông: “Hãy trừ bỏ các tượng thần ngoại mà mình đang giữ,+ tẩy uế mình và thay áo, 3 rồi chúng ta sẽ lên đường đi Bê-tên. Tại đó tôi sẽ dựng một bàn thờ cho Đức Chúa Trời, là đấng đã đáp lời tôi trong cơn khốn khổ và ở với tôi bất cứ nơi nào tôi đi”.+ 4 Thế là họ đưa cho Gia-cốp hết thảy các tượng thần ngoại mà họ có cũng như các bông tai họ đang đeo, rồi Gia-cốp chôn những thứ ấy dưới cây lớn gần Si-chem.
5 Khi họ đi, nỗi kinh sợ Đức Chúa Trời bao phủ các thành xung quanh nên các dân ấy không đuổi theo các con trai của Gia-cốp. 6 Gia-cốp và hết thảy những người đi với ông đến Lu-xơ,+ tức là Bê-tên, trong xứ Ca-na-an. 7 Ông dựng một bàn thờ và gọi nơi ấy là Ên-bê-tên,* vì tại đó Đức Chúa Trời đã tỏ mình ra cho ông thời ông chạy trốn anh trai.+ 8 Đê-bô-ra,+ vú nuôi của Rê-bê-ca, qua đời và được chôn cất dưới một cây sồi gần Bê-tên. Vì thế ông gọi nó là A-lôn-ba-cút.*
9 Đức Chúa Trời hiện ra với Gia-cốp lần nữa sau khi ông từ Pha-đan-a-ram trở về và ngài ban phước cho ông. 10 Đức Chúa Trời phán: “Tên con là Gia-cốp.+ Nhưng nay tên của con không còn là Gia-cốp nữa, mà là Y-sơ-ra-ên”. Kể từ đó, ngài gọi ông là Y-sơ-ra-ên.+ 11 Ngài phán tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng.+ Hãy sinh sản và gia tăng nhiều. Từ con sẽ ra các dân và một cộng đồng các dân,+ và từ con sẽ sinh ra các vua.+ 12 Xứ mà ta đã ban cho Áp-ra-ham và Y-sác thì ta cũng sẽ ban cho con và dòng dõi con sau này”.+ 13 Rồi Đức Chúa Trời đi khỏi nơi ngài đã phán với Gia-cốp.
14 Gia-cốp bèn dựng một cái cột tại nơi Đức Chúa Trời phán với ông, một cái cột đá. Ông rưới rượu tế lễ và đổ dầu lên đó.+ 15 Gia-cốp vẫn gọi nơi Đức Chúa Trời đã phán với ông là Bê-tên.+
16 Sau đó họ rời Bê-tên, và khi còn cách Ép-ra một quãng đường xa thì Ra-chên chuyển dạ, nhưng cô sinh khó. 17 Trong lúc Ra-chên sinh nở khó khăn, bà đỡ nói: “Đừng sợ, cô sẽ sinh được bé trai này”.+ 18 Khi sức sống* Ra-chên cạn kiệt (vì cô đang hấp hối), cô đặt tên con là Bên-ô-ni,* nhưng cha đứa trẻ gọi nó là Bên-gia-min.*+ 19 Ra-chên qua đời và được chôn cất trên đường đi đến Ép-ra, tức là Bết-lê-hem.+ 20 Gia-cốp dựng một cái cột trên mộ cô; ấy là cái cột của mộ Ra-chên cho đến nay.
21 Y-sơ-ra-ên lại lên đường, đi qua khỏi tháp Ê-đe một quãng rồi hạ trại. 22 Lần nọ, khi Y-sơ-ra-ên còn đóng trại tại xứ ấy, Ru-bên đến ăn nằm với Bi-la, vợ lẽ của cha mình, và Y-sơ-ra-ên hay được chuyện đó.+
Gia-cốp có 12 con trai. 23 Các con trai của Lê-a là Ru-bên, trưởng nam của Gia-cốp,+ rồi đến Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Xê-bu-lôn. 24 Các con trai của Ra-chên là Giô-sép và Bên-gia-min. 25 Các con trai của Bi-la, tôi tớ của Ra-chên, là Đan và Nép-ta-li. 26 Các con trai của Xinh-ba, tôi tớ của Lê-a, là Gát và A-se. Đó là những con trai của Gia-cốp sinh ra tại Pha-đan-a-ram.
27 Cuối cùng Gia-cốp về đến chỗ Y-sác cha mình tại Mam-rê,+ gần Ki-ri-át-ạc-ba, tức Hếp-rôn, là nơi Áp-ra-ham và Y-sác cư ngụ như những ngoại kiều.+ 28 Y-sác hưởng thọ 180 tuổi.+ 29 Ông trút hơi thở cuối cùng rồi nhắm mắt và an giấc cùng tổ phụ;* ông sống thọ và đời đầy mãn nguyện. Hai con trai ông là Ê-sau và Gia-cốp chôn cất ông.+
36 Đây là lời tường thuật về Ê-sau, tức Ê-đôm.+
2 Ê-sau lấy vợ trong vòng con gái xứ Ca-na-an: Một người là A-đa,+ con gái của Ê-lôn người Hếch,+ một người là Ô-hô-li-ba-ma,+ con gái của A-na và là cháu của Xi-bê-ôn người Hê-vít; 3 ông cũng lấy Bách-mát,+ con gái của Ích-ma-ên và là em của Nê-ba-giốt.+
4 A-đa sinh Ê-li-pha cho Ê-sau, Bách-mát sinh Rê-u-ên.
Đó là những con trai của Ê-sau sinh ra ở xứ Ca-na-an. 6 Ê-sau đem vợ con và mọi người trong nhà, bầy đàn và mọi thú vật khác, cùng hết thảy tài sản ông đã gây dựng+ tại xứ Ca-na-an mà dọn đến một xứ khác, cách xa Gia-cốp em mình.+ 7 Tài sản hai anh em thêm nhiều đến nỗi không thể sống chung với nhau được nữa, và đất họ đang trú ngụ không đủ chỗ vì bầy đàn của họ quá đông. 8 Vậy, Ê-sau, cũng gọi là Ê-đôm,+ đến cư ngụ tại vùng núi Sê-i-rơ.+
9 Đây là lời tường thuật về Ê-sau, tổ phụ của dân Ê-đôm ở vùng núi Sê-i-rơ.+
10 Sau đây là tên các con trai của Ê-sau: Ê-li-pha, con của A-đa, vợ Ê-sau; Rê-u-ên, con của Bách-mát, vợ Ê-sau.+
11 Các con trai của Ê-li-pha là Thê-man,+ Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham và Kê-na.+ 12 Thim-na là vợ lẽ của Ê-li-pha, con trai Ê-sau. Bà sinh A-ma-léc+ cho Ê-li-pha. Đó là tất cả cháu của A-đa, vợ Ê-sau.
13 Sau đây là các con trai của Rê-u-ên: Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa. Đó là tất cả cháu của Bách-mát,+ vợ Ê-sau.
14 Sau đây là các con trai mà Ô-hô-li-ba-ma con gái A-na, cháu Xi-bê-ôn, vợ Ê-sau, sinh cho Ê-sau: Giê-úc, Gia-lam và Cô-rê.
15 Sau đây là những thủ lĩnh trong vòng con cháu của Ê-sau+ theo dòng Ê-li-pha, trưởng nam của Ê-sau: thủ lĩnh Thê-man, thủ lĩnh Ô-ma, thủ lĩnh Xê-phô, thủ lĩnh Kê-na,+ 16 thủ lĩnh Cô-rê, thủ lĩnh Ga-tham và thủ lĩnh A-ma-léc. Họ là những thủ lĩnh ra từ Ê-li-pha+ ở xứ Ê-đôm. Đó là các cháu của A-đa.
17 Sau đây là các con trai của Rê-u-ên, con Ê-sau: thủ lĩnh Na-hát, thủ lĩnh Xê-rách, thủ lĩnh Sam-ma và thủ lĩnh Mích-xa. Họ là những thủ lĩnh ra từ Rê-u-ên ở xứ Ê-đôm.+ Đó là các cháu của Bách-mát, vợ Ê-sau.
18 Sau đây là các con trai của Ô-hô-li-ba-ma, vợ Ê-sau: thủ lĩnh Giê-úc, thủ lĩnh Gia-lam và thủ lĩnh Cô-rê. Họ là những thủ lĩnh ra từ Ô-hô-li-ba-ma con gái A-na, vợ Ê-sau.
19 Ấy là các con cháu của Ê-sau, tức Ê-đôm,+ và là các thủ lĩnh.
20 Sau đây là các con cháu của Sê-i-rơ người Hô-rít, dân bản xứ:+ Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na,+ 21 Đi-sôn, Ét-xe và Đi-san.+ Đó là những thủ lĩnh người Hô-rít, con cháu của Sê-i-rơ, ở xứ Ê-đôm.
22 Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hê-mam. Em gái* của Lô-than là Thim-na.+
23 Sau đây là các con trai của Sô-banh: Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô và Ô-nam.
24 Sau đây là các con trai của Xi-bê-ôn:+ Ai-gia và A-na. A-na là người tìm ra suối nước nóng trong hoang mạc khi đang chăn lừa của Xi-bê-ôn cha mình.
25 Sau đây là các con của A-na: Đi-sôn và Ô-hô-li-ba-ma con gái A-na.
26 Sau đây là các con trai của Đi-sôn: Hem-đan, Ếch-ban, Dít-ran và Kê-ran.+
27 Sau đây là các con trai của Ét-xe: Binh-han, Xa-van và Gia-a-can.
28 Sau đây là các con trai của Đi-san: Út-xơ và A-ran.+
29 Sau đây là các thủ lĩnh của người Hô-rít: thủ lĩnh Lô-than, thủ lĩnh Sô-banh, thủ lĩnh Xi-bê-ôn, thủ lĩnh A-na, 30 thủ lĩnh Đi-sôn, thủ lĩnh Ét-xe và thủ lĩnh Đi-san.+ Đó là những thủ lĩnh người Hô-rít ở xứ Sê-i-rơ, theo tên từng thủ lĩnh.
31 Còn sau đây là các vua trong xứ Ê-đôm+ trước thời dân Y-sơ-ra-ên có vua.+ 32 Bê-la con trai Bê-ô cai trị ở Ê-đôm, và thành của ông tên là Đin-ha-ba. 33 Khi Bê-la chết, Giô-báp con trai Xê-rách từ thành Bốt-ra lên nối ngôi. 34 Khi Giô-báp chết, Hu-sam từ vùng Thê-man lên nối ngôi. 35 Khi Hu-sam chết, Ha-đát con trai Bê-đát lên nối ngôi. Ông là người đánh bại dân Ma-đi-an+ trong lãnh thổ dân Mô-áp, và thành của ông tên là A-vít. 36 Khi Ha-đát chết, Sam-la từ Ma-rê-ca lên nối ngôi. 37 Khi Sam-la chết, Sa-un từ thành Rê-hô-bốt bên sông lên nối ngôi. 38 Khi Sa-un chết, Ba-anh-ha-nan con trai Ạc-bồ lên nối ngôi. 39 Khi Ba-anh-ha-nan con trai Ạc-bồ chết, Ha-đa lên nối ngôi. Thành của ông tên là Ba-u, vợ ông là Mê-hê-ta-bê-ên con gái của Mát-rết, Mát-rết là con gái của Mê-xa-háp.
40 Sau đây là tên các thủ lĩnh ra từ Ê-sau, theo dòng, lãnh thổ và tên: thủ lĩnh Thim-na, thủ lĩnh Anh-va, thủ lĩnh Giê-hết,+ 41 thủ lĩnh Ô-hô-li-ba-ma, thủ lĩnh Ê-lát, thủ lĩnh Phi-nôn, 42 thủ lĩnh Kê-na, thủ lĩnh Thê-man, thủ lĩnh Mép-xa, 43 thủ lĩnh Mác-đi-ên và thủ lĩnh Y-ram. Đó là những thủ lĩnh của Ê-đôm theo nơi ở trong lãnh thổ của họ.+ Ấy là con cháu Ê-sau, tổ phụ dân Ê-đôm.+
37 Gia-cốp tiếp tục sống ở xứ Ca-na-an, nơi cha mình từng sống như một ngoại kiều.+
2 Đây là lời tường thuật về Gia-cốp.
Khi con trai ông là Giô-sép+ được 17 tuổi, cậu cùng đi chăn bầy+ với các con trai của Bi-la+ và Xinh-ba,+ các vợ của cha mình. Giô-sép kể cho cha biết việc làm sai trái của các anh. 3 Y-sơ-ra-ên yêu Giô-sép hơn tất cả những người con khác+ vì cậu là con mà ông có vào lúc tuổi già. Ông cho may một cái áo thụng rất đẹp để tặng cậu. 4 Khi các anh của Giô-sép thấy cha yêu cậu hơn thì sinh lòng ghen ghét và không thể nói năng hòa nhã với cậu.
5 Một ngày nọ, Giô-sép nằm mơ và kể lại cho các anh nghe.+ Họ càng có thêm cớ để ghét cậu. 6 Cậu nói với họ: “Xin nghe em kể lại giấc mơ. 7 Anh em mình đang bó lúa ngoài đồng thì bỗng nhiên bó lúa của em đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh thì đến đứng xung quanh và cúi xuống trước bó lúa của em”.+ 8 Các anh cậu nói: “Mày sẽ tôn mình lên làm vua và cai trị chúng ta sao?”.+ Vậy, họ có thêm cớ để ghét cậu, vì các giấc mơ và những gì cậu kể.
9 Sau đó, cậu lại nằm mơ và kể cho các anh nghe: “Em thấy một giấc mơ khác: Lần này mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao sấp mình xuống trước em”.+ 10 Ngoài các anh, cậu cũng kể giấc mơ ấy cho cha nghe nữa, nên cha la rầy cậu và nói: “Giấc mơ ấy nghĩa là sao? Chẳng lẽ cha, mẹ và các anh con sẽ sấp mình xuống đất trước con ư?”. 11 Thế là các anh ngày càng ghen ghét Giô-sép,+ nhưng cha thì ghi nhớ lời cậu nói.
12 Lần nọ, các anh Giô-sép chăn bầy của cha mình gần Si-chem.+ 13 Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: “Các anh con đang chăn bầy gần Si-chem phải không? Cha muốn nhờ con đến chỗ các anh con”. Cậu đáp: “Dạ được, thưa cha!”. 14 Ông dặn: “Con giúp cha đi xem các anh con thế nào và bầy đàn ra sao, rồi về báo lại cho cha”. Vậy, ông sai cậu đi từ thung lũng Hếp-rôn+ đến Si-chem. 15 Có người thấy cậu lang thang trong một cánh đồng bèn hỏi: “Cậu đang tìm gì vậy?”. 16 Cậu trả lời: “Cháu tìm các anh cháu. Xin chỉ cho cháu biết họ đang chăn bầy ở đâu”. 17 Người ấy đáp: “Họ đi khỏi đây rồi, có nghe họ nói là: ‘Chúng ta hãy đến Đô-than’”. Giô-sép đi tìm các anh và gặp được họ ở Đô-than.
18 Các anh nhìn thấy cậu từ đằng xa, và trước khi cậu đến nơi, họ bàn mưu giết cậu. 19 Họ nói với nhau: “Kìa, thằng nằm mộng đến rồi!+ 20 Tụi mình hãy giết nó, quăng xuống hố nước và nói là thú dữ đã ăn thịt nó. Để xem giấc mơ của nó sẽ ra thế nào”. 21 Ru-bên+ nghe vậy bèn tìm cách giải cứu Giô-sép. Anh nói: “Đừng lấy mạng nó”.+ 22 Anh bảo: “Đừng gây đổ máu.+ Cứ quăng nó xuống hố nước trong hoang mạc, nhưng đừng ra tay hại nó”.+ Thật ra, Ru-bên định giải cứu Giô-sép và trả cậu về với cha.
23 Giô-sép vừa đến nơi, họ liền lột áo cậu, là chiếc áo thụng rất đẹp cậu đang mặc.+ 24 Họ bắt cậu quăng xuống hố nước, lúc ấy hố không có nước.
25 Rồi họ ngồi ăn uống với nhau. Họ nhìn lên, thấy một đoàn người Ích-ma-ên+ từ Ga-la-át đi đến, chở nhựa thơm, nhũ hương và vỏ cây có nhựa trên lưng lạc đà.+ Đoàn người ấy đang trên đường đi đến Ai Cập. 26 Giu-đa bèn nói với anh em mình: “Giết thằng em mình và giấu giếm việc đó thì có ích gì?+ 27 Hãy bán nó+ cho người Ích-ma-ên, chứ đừng ra tay hại nó. Dù gì nó cũng là em, là ruột thịt của mình”. Thế là họ nghe lời Giu-đa. 28 Khi những lái buôn người Ma-đi-an+ đi ngang qua, các anh của Giô-sép kéo cậu lên khỏi hố và bán cậu cho người Ích-ma-ên với giá 20 miếng bạc.+ Đoàn người ấy đem Giô-sép đến Ai Cập.
29 Khi Ru-bên trở lại cái hố, không thấy Giô-sép đâu thì xé áo mình. 30 Anh quay về chỗ các em mình và nói: “Thằng nhỏ biến mất rồi! Còn anh, anh phải làm sao đây?”.
31 Họ giết một con dê đực rồi lấy áo của Giô-sép nhúng trong máu. 32 Họ gửi chiếc áo về cho cha và nhắn: “Chúng con tìm thấy cái này. Xin cha xem có phải là áo của con cha không”.+ 33 Gia-cốp xem chiếc áo rồi thốt lên: “Đúng là áo của con trai ta! Chắc thú dữ đã ăn thịt nó! Giô-sép bị xé xác rồi!”. 34 Ông bèn xé áo mình và quấn vải thô quanh hông mà khóc con trong nhiều ngày. 35 Tất cả con trai, con gái đều cố gắng an ủi ông, nhưng ông không chịu mà nói rằng: “Cứ để cha khóc con mình mà xuống mồ*+ với nó luôn đi!”. Cha cậu cứ khóc thương cậu mãi.
36 Trong khi đó, người Ma-đi-an đã đem Giô-sép sang Ai Cập và bán cho Phô-ti-pha, là triều thần của Pha-ra-ôn+ và quan chỉ huy vệ binh.+
38 Bấy giờ, Giu-đa lìa anh em mình và đến đóng trại gần một người A-đu-lam tên là Hi-ra. 2 Tại đó, Giu-đa gặp con gái của một người Ca-na-an,+ ông ấy tên là Su-a. Giu-đa lấy cô làm vợ và ăn ở với cô. 3 Cô có thai và sinh một con trai. Giu-đa đặt tên con là Ê-rơ.+ 4 Cô lại có thai, sinh một con trai và đặt tên là Ô-nan. 5 Cô sinh một con trai nữa và đặt tên là Sê-lách. Khi cô sinh đứa con này, Giu-đa đang sống tại Ạc-xíp.+
6 Thời gian trôi qua, Giu-đa cưới cho Ê-rơ, con trưởng nam, một người vợ tên là Ta-ma.+ 7 Nhưng Ê-rơ, con trưởng nam của Giu-đa, là người xấu trước mắt Đức Giê-hô-va nên đã bị Đức Giê-hô-va diệt. 8 Giu-đa bèn bảo Ô-nan: “Con hãy ăn ở với chị dâu, hãy kết hôn với chị ấy theo bổn phận của anh em chồng, hầu sinh con nối dõi cho anh con”.+ 9 Nhưng Ô-nan biết đứa con sinh ra sẽ không nối dõi mình,+ nên khi ăn ở với vợ của anh mình thì cho tinh dịch rơi xuống đất để không sinh con nối dõi cho anh.+ 10 Đó là điều xấu xa trước mắt Đức Giê-hô-va nên ngài cũng diệt Ô-nan.+ 11 Giu-đa bảo Ta-ma dâu mình: “Con hãy về nhà cha con ở góa cho đến khi Sê-lách, con trai cha, lớn lên”, bởi ông nghĩ: “E rằng nó cũng sẽ chết như các anh nó”.+ Thế là Ta-ma về ở nhà cha mình.
12 Ngày tháng trôi qua, vợ Giu-đa, tức con gái Su-a,+ qua đời. Mãn thời gian khóc vợ, Giu-đa đi thăm những người xén lông cừu của mình ở Tim-na,+ cùng đi có ông bạn là Hi-ra người A-đu-lam.+ 13 Có người báo cho Ta-ma: “Nay cha chồng cô đang trên đường đến Tim-na để xén lông cừu”. 14 Ta-ma liền cởi áo góa phụ, lấy khăn che mặt lại và khoác khăn choàng lên người. Cô đến ngồi ở lối vào Ê-na-im, trên đường đi Tim-na, bởi cô thấy Sê-lách đã lớn mà cha chồng chưa cưới cô cho cậu ta.+
15 Khi thấy cô, Giu-đa liền lầm tưởng cô là kỹ nữ vì cô đã che mặt lại. 16 Ông ghé lại bên đường chỗ cô và nói: “Hãy cho tôi đến cùng nàng”. Ông không hề biết cô là con dâu mình.+ Cô bèn hỏi: “Ông sẽ cho tôi gì để đến cùng tôi?”. 17 Ông đáp: “Tôi sẽ gửi cho nàng một dê con trong bầy mình”. Nhưng cô bảo: “Ông đưa tôi vật gì để làm tin cho tới khi gửi con dê đến?”. 18 Ông trả lời: “Nàng muốn tôi đưa vật gì?”. Cô nói: “Hãy đưa tôi chiếc nhẫn đóng dấu+ cùng sợi dây và cây gậy trên tay ông”. Ông bèn đưa những thứ ấy cho cô rồi đến cùng cô, và cô có thai với ông. 19 Sau đó, cô đi khỏi, cởi bỏ khăn choàng và mặc lại áo góa phụ.
20 Giu-đa nhờ ông bạn người A-đu-lam+ mang dê con đến để lấy lại các vật làm tin từ tay người phụ nữ ấy, nhưng ông không thể tìm ra cô. 21 Ông hỏi những người xung quanh: “Người kỹ nữ* ngồi bên đường tại Ê-na-im đâu rồi?”. Nhưng người ta trả lời: “Ở đó làm gì có kỹ nữ”. 22 Cuối cùng, ông trở về nói với Giu-đa: “Tôi không tìm được cô ấy, những người xung quanh bảo: ‘Ở đó làm gì có kỹ nữ’”. 23 Giu-đa bèn nói: “Thôi để cô ấy giữ hết mấy thứ đó, đừng để người ta khinh thường chúng ta. Dù sao, tôi cũng đã gửi dê con đến nhưng anh không tìm ra cô ta đó thôi”.
24 Khoảng ba tháng sau, có người báo với Giu-đa: “Ta-ma, con dâu ông, đã làm điếm và bị chửa hoang”. Giu-đa bảo: “Hãy đem nó ra xử và thiêu xác nó đi”.+ 25 Đang khi bị đem ra, cô nhắn với cha chồng: “Con có thai với chủ nhân của những thứ này”. Cô nhắn thêm: “Xin cha nhìn kỹ những thứ này, xem chiếc nhẫn đóng dấu, sợi dây và cây gậy là của ai”.+ 26 Giu-đa xem xong thì thốt lên: “Cô ấy làm vậy là đúng hơn ta, vì ta đã không cưới cô cho Sê-lách, con trai ta”.+ Ông không ăn ở với cô thêm lần nào nữa.
27 Đến ngày sinh nở, trong bụng cô có thai đôi. 28 Trong lúc cô sinh thì một đứa thò tay ra, bà đỡ liền lấy sợi chỉ đỏ buộc vào tay nó và nói: “Đứa này ra trước”. 29 Nhưng nó vừa thụt tay vào thì đứa kia ra, bà đỡ bèn nói: “Con đã tạo đường ra cho mình!”, nên nó được đặt tên là Phê-rết.*+ 30 Rồi đứa có buộc sợi chỉ đỏ trên tay ra sau và được đặt tên là Xê-rách.+
39 Về phần Giô-sép, cậu bị đem sang Ai Cập.+ Một người Ai Cập tên là Phô-ti-pha,+ là triều thần của Pha-ra-ôn và quan chỉ huy vệ binh, đã mua cậu từ những người Ích-ma-ên+ đem cậu đến. 2 Nhưng Đức Giê-hô-va ở cùng Giô-sép.+ Vì thế, cậu làm việc gì cũng thành công và được đặt cai quản nhà chủ mình, người Ai Cập. 3 Ông chủ thấy rằng Đức Giê-hô-va ở cùng cậu và Đức Giê-hô-va khiến mọi việc cậu làm đều thành công.
4 Giô-sép ngày càng được ơn trước mắt Phô-ti-pha và trở thành người hầu việc thân cận của ông. Cậu được đặt cai quản nhà và coi sóc mọi thứ thuộc về chủ. 5 Kể từ khi Phô-ti-pha đặt cậu cai quản nhà và coi sóc mọi thứ thuộc về ông, thì Đức Giê-hô-va vì Giô-sép mà luôn ban phước cho nhà của người Ai Cập ấy, và ân phước Đức Giê-hô-va đổ xuống trên mọi thứ thuộc về ông, từ trong nhà đến ngoài đồng.+ 6 Cuối cùng, ông giao hết mọi thứ thuộc về mình cho Giô-sép coi sóc, không phải lo việc gì nữa, chỉ đến bữa là ăn. Còn Giô-sép thì ngày càng cường tráng và khôi ngô.
7 Rồi vợ chủ để mắt đến Giô-sép và một hôm bà nói với cậu: “Hãy lại nằm với ta”. 8 Nhưng Giô-sép khước từ mà nói với vợ chủ: “Ông chủ không phải lo việc gì trong nhà và giao mọi thứ thuộc về ông cho tôi coi sóc. 9 Trong nhà này chẳng ai lớn hơn tôi, và ông chủ cũng không từ chối tôi bất cứ điều gì, ngoại trừ bà, vì là vợ của chủ tôi. Sao tôi có thể làm điều vô cùng xấu xa đó mà phạm tội với Đức Chúa Trời?”.+
10 Bà mời mọc Giô-sép hết ngày này qua ngày khác, nhưng cậu không chịu nằm cùng bà hay ở gần bà. 11 Một ngày nọ, khi cậu vào nhà làm việc, không có tôi tớ nào khác ở nhà, 12 bà nắm lấy áo cậu và nói: “Hãy nằm với ta đi!”. Nhưng cậu bỏ áo lại trong tay bà mà chạy ra ngoài. 13 Khi thấy Giô-sép bỏ áo lại trong tay mình mà chạy ra ngoài, 14 bà liền la lên, gọi những người nam trong nhà lại và nói: “Xem này! Ông chủ các ngươi mang tên Hê-bơ-rơ đó về để biến chúng ta thành trò cười. Hắn định cưỡng đoạt ta, nhưng ta hét toáng lên. 15 Hắn nghe ta hét lên thì liền bỏ áo lại mà chạy ra ngoài”. 16 Bà giữ áo của cậu bên mình cho đến khi ông chủ cậu về nhà.
17 Rồi bà cũng kể cho ông y như vậy: “Thằng tôi tớ người Hê-bơ-rơ mà anh mang về đây định biến em thành trò cười. 18 Em hét lên thì hắn liền bỏ áo lại mà chạy ra ngoài”. 19 Vừa nghe vợ nói rằng: “Thằng tôi tớ của anh đối xử với em như thế đó”, ông nổi giận phừng phừng. 20 Ông chủ bắt Giô-sép bỏ vào tù, là nơi giam giữ các tù nhân của vua. Vậy cậu ngồi tù ở đó.+
21 Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va vẫn ở cùng Giô-sép và tỏ lòng yêu thương thành tín với cậu, khiến cậu được ơn trước mắt quan cai ngục.+ 22 Thế nên, quan cai ngục giao cho Giô-sép quản lý tất cả các tù nhân; mọi việc các tù nhân làm đều do cậu trông coi.+ 23 Quan cai ngục không phải lo gì đến những việc đã giao cho Giô-sép, vì Đức Giê-hô-va ở cùng cậu và Đức Giê-hô-va khiến mọi việc cậu làm đều thành công.+
40 Sau đó, tổng quản dâng rượu+ và tổng quản làm bánh của vua Ai Cập phạm tội cùng chúa họ là vua Ai Cập. 2 Thế nên Pha-ra-ôn nổi cơn phẫn nộ với hai vị quan của mình, là tổng quản dâng rượu và tổng quản làm bánh.+ 3 Vua truyền giam họ vào tù trong nhà quan chỉ huy vệ binh,+ nơi Giô-sép đang bị giam cầm.+ 4 Quan chỉ huy vệ binh phân công Giô-sép ở bên cạnh phục vụ họ,+ và họ ngồi tù ít lâu.
5 Cả quan dâng rượu và quan làm bánh của vua Ai Cập, đang bị giam giữ tại tù, đều nằm mơ trong cùng một đêm, và giấc mơ của mỗi người mang ý nghĩa riêng. 6 Sáng hôm sau, Giô-sép đến thì thấy họ có vẻ buồn rầu lo nghĩ. 7 Vì thế, cậu hỏi hai vị quan của Pha-ra-ôn đang bị giam chung với mình trong nhà chủ mình: “Sao hôm nay các quan trông rầu rĩ vậy?”. 8 Họ đáp: “Cả hai chúng tôi đều nằm mơ nhưng không có người giải nghĩa”. Giô-sép bèn nói: “Chẳng phải việc giải nghĩa thuộc về Đức Chúa Trời sao?+ Xin hai quan hãy kể cho tôi nghe”.
9 Thế là quan dâng rượu kể lại giấc mơ của mình cho Giô-sép, ông nói: “Trong giấc mơ, tôi thấy trước mặt mình có một cây nho. 10 Cây nho đó có ba cành. Nó đâm chồi, nở hoa, rồi kết những chùm nho chín. 11 Trên tay tôi là ly của Pha-ra-ôn. Tôi hái nho, vắt vào ly và dâng cho Pha-ra-ôn”. 12 Giô-sép nói với ông: “Này là lời giải nghĩa: Ba cành nho là ba ngày. 13 Ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ làm cho quan ngước đầu lên, phục chức lại cho quan+ và quan sẽ dâng rượu cho Pha-ra-ôn như trước kia, khi là quan dâng rượu.+ 14 Nhưng khi quan được yên ổn rồi thì xin nhớ đến tôi. Xin quan tỏ lòng nhân nghĩa* với tôi mà tâu cùng Pha-ra-ôn để tôi được ra khỏi nơi này; 15 bởi tôi bị bắt cóc đem ra khỏi xứ của người Hê-bơ-rơ,+ và tại đây tôi cũng chẳng làm gì sai để phải bị bỏ tù”.+
16 Khi thấy lời giải nghĩa của Giô-sép báo điều lành thì tổng quản làm bánh kể với cậu: “Tôi cũng thấy mình trong giấc mơ. Trên đầu tôi có ba giỏ bánh mì trắng, 17 giỏ trên cùng đựng đủ loại bánh nướng cho Pha-ra-ôn và chim chóc đang ăn bánh trong giỏ trên đầu tôi”. 18 Giô-sép nói: “Này là lời giải nghĩa: Ba giỏ bánh là ba ngày. 19 Ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ cho chém đầu và treo quan lên cây cột, rồi chim chóc sẽ ăn thịt quan”.+
20 Đến ngày thứ ba là sinh nhật của Pha-ra-ôn,+ vua mở tiệc đãi tất cả quần thần và truyền đem tổng quản dâng rượu lẫn tổng quản làm bánh ra trước mặt mọi người. 21 Pha-ra-ôn phục chức cho tổng quản dâng rượu và ông tiếp tục dâng rượu cho vua. 22 Nhưng vua cho treo tổng quản làm bánh lên, đúng như lời giải nghĩa của Giô-sép.+ 23 Tuy nhiên, tổng quản dâng rượu không nhớ đến Giô-sép, ông quên mất cậu.+
41 Trọn hai năm sau, Pha-ra-ôn nằm mơ+ thấy mình đang đứng bên sông Nin. 2 Từ sông đi lên bảy con bò tốt mã và béo mập, chúng đến ăn cỏ bên sông Nin.+ 3 Theo sau những con đó, từ sông đi lên bảy con bò xấu xí và gầy gò, chúng đến đứng cạnh những con bò béo mập kia trên bờ sông Nin. 4 Rồi những con bò xấu xí và gầy gò ăn hết bảy con bò tốt mã và béo mập. Lúc ấy Pha-ra-ôn tỉnh giấc.
5 Pha-ra-ôn ngủ lại và nằm mơ lần nữa. Này, có bảy bông lúa mọc trên cùng một thân, tốt và chắc hạt.+ 6 Mọc lên sau chúng là bảy bông lúa lép hạt, bị gió đông thổi héo khô. 7 Các bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa tốt và chắc hạt. Lúc ấy Pha-ra-ôn tỉnh giấc và nhận ra đó chỉ là giấc mơ.
8 Nhưng đến sáng thì tâm trí Pha-ra-ôn lại bối rối. Pha-ra-ôn bèn triệu tập tất cả các pháp sư cùng nhà thông thái của Ai Cập đến, rồi kể lại các giấc mơ của mình, nhưng không một ai giải nghĩa được.
9 Bấy giờ, viên tổng quản dâng rượu tâu với Pha-ra-ôn: “Hôm nay hạ thần xin nhắc lại tội mình. 10 Pha-ra-ôn từng nổi cơn phẫn nộ với bề tôi của ngài nên truyền giam hạ thần vào tù trong nhà quan chỉ huy vệ binh, cả hạ thần và tổng quản làm bánh.+ 11 Sau đó, cả hai chúng thần đều nằm mơ trong cùng một đêm, mỗi người thấy một giấc mơ mang ý nghĩa riêng.+ 12 Ở chung với chúng thần có một thanh niên người Hê-bơ-rơ, là tôi tớ của quan chỉ huy vệ binh.+ Khi chúng thần kể cho cậu ấy nghe+ thì cậu ấy đã giải cho chúng thần ý nghĩa của mỗi giấc mơ. 13 Mọi việc xảy ra y như lời cậu ấy đã giải nghĩa. Hạ thần được phục chức, còn quan làm bánh thì bị treo lên”.+
14 Thế là Pha-ra-ôn truyền gọi Giô-sép+ và cậu lập tức được đưa ra khỏi tù.+ Giô-sép cạo râu,* thay áo rồi vào diện kiến Pha-ra-ôn. 15 Pha-ra-ôn phán với Giô-sép: “Ta thấy một giấc mơ nhưng không ai giải nghĩa được. Ta được biết rằng khi nghe kể lại một giấc mơ, ngươi có thể giải nghĩa nó”.+ 16 Giô-sép thưa với Pha-ra-ôn: “Tiện dân không là gì! Chính Đức Chúa Trời sẽ cho biết về sự an lành của Pha-ra-ôn”.+
17 Pha-ra-ôn bèn kể với Giô-sép: “Trong giấc mơ, ta đang đứng bên bờ sông Nin. 18 Từ sông đi lên bảy con bò tốt mã và béo mập, chúng đến ăn cỏ bên sông Nin.+ 19 Theo sau những con bò đó là bảy con bò trông thê thảm, rất xấu xí và gầy gò. Trong cả xứ Ai Cập, ta chưa từng thấy những con bò xấu đến vậy. 20 Rồi những con xấu xí và gầy gò ấy ăn hết bảy con béo mập lên trước. 21 Nhưng khi chúng đã ăn hết bảy con kia, không ai biết là chúng đã ăn vì trông chúng vẫn xấu xí như lúc đầu. Khi ấy ta tỉnh giấc.
22 Sau đó, ta lại nằm mơ và thấy có bảy bông lúa mọc trên cùng một thân, tốt và chắc hạt.+ 23 Mọc lên sau chúng là bảy bông lúa còi cọc, lép hạt, bị gió đông thổi héo khô. 24 Các bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa tốt. Ta đã kể cho các pháp sư nghe+ nhưng không một ai giải nghĩa được cho ta”.+
25 Giô-sép nói với Pha-ra-ôn: “Hai giấc mơ của Pha-ra-ôn là một. Đức Chúa Trời báo cho Pha-ra-ôn biết điều ngài sẽ làm.+ 26 Bảy con bò tốt là bảy năm. Bảy bông lúa tốt cũng là bảy năm. Hai giấc mơ ấy là một. 27 Bảy con bò gầy gò và xấu xí lên sau là bảy năm, bảy bông lúa lép bị gió đông thổi héo khô là bảy năm đói kém. 28 Như tôi đã thưa với Pha-ra-ôn: Đức Chúa Trời cho Pha-ra-ôn thấy điều ngài sẽ làm.
29 Sẽ có bảy năm bội thu trong khắp xứ Ai Cập. 30 Nhưng sau đó sẽ là bảy năm đói kém, sự sung túc của xứ Ai Cập sẽ chìm vào quên lãng và nạn đói sẽ làm cho xứ kiệt quệ.+ 31 Thời sung túc trước kia của xứ sẽ không còn được ai nhớ đến vì cớ nạn đói sau đó, bởi nạn đói ấy rất trầm trọng. 32 Giấc mơ được báo cho Pha-ra-ôn hai lần vì sự việc đã được Đức Chúa Trời ấn định chắc chắn, và Đức Chúa Trời sẽ sớm thực hiện điều đó.
33 Vậy, bây giờ Pha-ra-ôn hãy tìm một người thông sáng và khôn ngoan để đặt cai quản xứ Ai Cập. 34 Xin Pha-ra-ôn hãy hành động và lập những người giám sát trên khắp xứ, ngài hãy thu một phần năm hoa lợi của xứ Ai Cập trong bảy năm bội thu.+ 35 Họ phải thu lương thực trong những năm được mùa sắp tới; tại các thành, họ phải trữ thóc lúa vào kho thuộc quyền Pha-ra-ôn để làm lương thực và canh gác các kho ấy.+ 36 Đó sẽ là lương thực dự trữ cho bảy năm đói kém xảy ra tại Ai Cập, hầu cho xứ không bị diệt bởi nạn đói”.+
37 Những lời ấy đẹp ý Pha-ra-ôn và các quần thần. 38 Pha-ra-ôn bèn phán với các quần thần: “Có ai khác như người này không, một người có thần khí của Đức Chúa Trời?”. 39 Rồi Pha-ra-ôn phán với Giô-sép: “Vì Đức Chúa Trời tiết lộ cho ngươi mọi điều này, nên không có ai thông sáng và khôn ngoan bằng ngươi. 40 Ngươi sẽ trực tiếp cai quản nhà ta, toàn thể dân ta sẽ tuyệt đối vâng lời ngươi.+ Chỉ mình ta lớn hơn ngươi vì ngự trên ngai mà thôi”. 41 Pha-ra-ôn phán tiếp: “Này, ta đặt ngươi cai quản cả xứ Ai Cập”.+ 42 Rồi Pha-ra-ôn cởi chiếc nhẫn đóng dấu trên tay mình mà trao cho Giô-sép, mặc áo vải lanh mịn cho cậu và đeo chiếc vòng vàng vào cổ cậu. 43 Pha-ra-ôn cũng cho cậu lên chiếc xe ngựa hàng danh dự thứ hai của mình, và có người đi trước xe hô lên: “A-vơ-rét!”.* Như vậy, Giô-sép được đưa lên cai quản cả xứ Ai Cập.
44 Sau đó, Pha-ra-ôn nói với Giô-sép: “Dù trẫm là Pha-ra-ôn nhưng nhất cử nhất động của dân trong khắp xứ Ai Cập đều phải được khanh cho phép”.+ 45 Pha-ra-ôn đặt tên Giô-sép là Xa-phơ-nát-pha-nê-ách và cho cưới Ách-nát,+ con gái Phô-ti-phê-ra là thầy tế của thành Ôn,* làm vợ. Vậy Giô-sép bắt đầu cai quản xứ Ai Cập.+ 46 Giô-sép được 30 tuổi+ khi chầu Pha-ra-ôn, vua Ai Cập.
Rồi Giô-sép cáo biệt Pha-ra-ôn mà đi khắp xứ Ai Cập. 47 Suốt bảy năm bội thu, đất sinh hoa lợi dư dật. 48 Giô-sép thu lương thực của xứ Ai Cập trong bảy năm đó và trữ trong các thành. Tại mỗi thành, Giô-sép dự trữ lương thực thu được từ các cánh đồng xung quanh thành ấy. 49 Giô-sép tiếp tục trữ rất nhiều thóc lúa, nhiều như cát biển, đến nỗi cuối cùng họ phải ngừng đong vì không thể đong được nữa.
50 Trước khi những năm đói kém đến, Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra là thầy tế của thành Ôn,* sinh cho Giô-sép hai con trai.+ 51 Giô-sép đặt tên con trưởng là Ma-na-se*+ vì nói: “Đức Chúa Trời đã cho tôi quên đi mọi gian nan và cả nhà cha tôi”, 52 còn con thứ hai thì ông đặt tên là Ép-ra-im*+ vì nói: “Đức Chúa Trời cho tôi sinh con tại xứ tôi phải chịu khổ sở”.+
53 Bảy năm bội thu trong xứ Ai Cập chấm dứt+ 54 và bảy năm đói kém bắt đầu, đúng như lời Giô-sép nói.+ Nạn đói xảy ra trong tất cả các xứ nhưng khắp xứ Ai Cập đều có lương thực.+ 55 Rồi xứ Ai Cập cũng bị đói và dân chúng kêu nài Pha-ra-ôn ban lương thực.+ Pha-ra-ôn bèn nói với tất cả người dân: “Hãy đến gặp quan Giô-sép và làm theo mọi điều người bảo”.+ 56 Nạn đói tiếp tục bao trùm khắp mặt đất.+ Giô-sép mở tất cả kho vựa trong xứ để bán cho người Ai Cập+ vì nạn đói hoành hành dữ dội khắp xứ. 57 Dân các nước đều đến Ai Cập để mua lương thực từ Giô-sép vì nạn đói hoành hành dữ dội khắp mặt đất.+
42 Khi hay tin ở Ai Cập có thóc lúa,+ Gia-cốp nói với các con trai mình: “Sao các con còn đứng đó nhìn nhau?”. 2 Ông bảo: “Cha nghe nói ở Ai Cập có thóc lúa. Các con hãy đến đó mà mua, để chúng ta sống chứ không phải chết đói”.+ 3 Thế là mười người anh của Giô-sép+ đi Ai Cập để mua thóc lúa. 4 Nhưng Gia-cốp không cho Bên-gia-min,+ em trai Giô-sép, đi theo vì ông nói: “Lỡ đâu nó gặp tai nạn và mất mạng”.+
5 Các con trai của Y-sơ-ra-ên đến Ai Cập chung với bao người đến mua lương thực, vì nạn đói đã lan tới xứ Ca-na-an.+ 6 Giô-sép là người nắm quyền trong cả xứ Ai Cập+ và là người bán thóc lúa cho dân các nước.+ Vì thế, các anh của Giô-sép đến sấp mình xuống đất trước mặt ông.+ 7 Vừa thấy các anh mình, Giô-sép nhận ra ngay nhưng không cho họ biết mình là ai.+ Ông gắt gỏng với họ: “Các ngươi từ đâu đến?”. Họ đáp: “Chúng tôi từ xứ Ca-na-an đến mua lương thực”.+
8 Vậy, Giô-sép nhận ra các anh nhưng họ không nhận ra ông. 9 Ngay lập tức Giô-sép nhớ lại những giấc mơ về các anh mình.+ Ông nói với họ: “Các ngươi là bọn do thám! Các ngươi đến đây để tìm điểm yếu của xứ này!”. 10 Họ liền đáp: “Thưa chúa, không phải thế, các tôi tớ chúa đến mua lương thực. 11 Chúng tôi đều là con cùng một cha, chúng tôi là người ngay thật. Các tôi tớ chúa không phải là kẻ do thám”. 12 Nhưng ông nói: “Không đúng! Các ngươi đến đây để tìm điểm yếu của xứ này!”. 13 Họ thưa: “Các tôi tớ chúa có 12 anh em,+ là con cùng một cha,+ ở xứ Ca-na-an. Em út chúng tôi đang ở với cha,+ một người thì không còn nữa”.+
14 Nhưng Giô-sép bảo: “Đúng như ta nói: ‘Các ngươi là bọn do thám!’. 15 Ta sẽ thử các ngươi thế này: Thật như Pha-ra-ôn đang sống, các ngươi sẽ không được ra khỏi đây cho tới khi em út các ngươi đến.+ 16 Hãy cho một người về mang em các ngươi đến đây, còn những người khác sẽ bị giam giữ. Như vậy, ta sẽ thử xem lời các ngươi nói có thật hay không. Bằng không, thật như Pha-ra-ôn đang sống, các ngươi là bọn do thám”. 17 Thế là ông giam họ chung với nhau trong ba ngày.
18 Đến ngày thứ ba, Giô-sép nói với họ: “Ta kính sợ Đức Chúa Trời nên các ngươi làm thế này thì sẽ giữ được mạng. 19 Nếu các ngươi nói thật, hãy để một người ở lại trong nhà giam, còn những người kia có thể ra về và mang theo lương thực cứu đói cho gia đình.+ 20 Sau đó, hãy mang em út đến đây để chứng minh lời các ngươi là thật, và các ngươi sẽ không chết”. Họ đồng ý làm thế.
21 Họ nói với nhau: “Chắc là chúng ta đang bị trừng phạt vì có tội với em mình.+ Chúng ta đã thấy nỗi khốn khổ của nó khi nó van xin chúng ta thương xót mà chúng ta chẳng nghe. Thế nên bây giờ chúng ta phải chịu nỗi khốn khổ này”. 22 Ru-bên nói: “Chẳng phải anh đã bảo: ‘Đừng phạm tội hại đến thằng nhỏ!’, mà các em không nghe đó sao?+ Giờ chúng ta phải đền lại máu nó”.+ 23 Nhưng các anh không biết Giô-sép hiểu lời họ nói, vì có người thông dịch giữa hai bên. 24 Giô-sép bèn đi chỗ khác mà khóc.+ Sau đó, ông trở lại nói chuyện với họ rồi cho bắt Si-mê-ôn+ trói lại trước mặt họ.+ 25 Giô-sép truyền lệnh đổ đầy thóc lúa vào bao của họ. Ông cũng bảo đầy tớ trả tiền lại, của ai bỏ vào bao người nấy, đồng thời cung cấp thức ăn đi đường cho họ. Các đầy tớ bèn làm như vậy.
26 Các anh của Giô-sép chất thóc lúa trên lưng lừa rồi ra về. 27 Khi đến chỗ trọ, một người trong số họ mở bao để lấy cỏ khô cho lừa ăn thì thấy tiền của mình nơi miệng bao. 28 Ông liền nói với anh em mình: “Họ trả tiền lại cho em! Tiền trong bao của em đây này!”. Các anh em sợ đến thót tim, run rẩy nhìn nhau mà nói: “Đức Chúa Trời làm gì với chúng ta thế này?”.
29 Khi về đến nhà Gia-cốp cha mình ở xứ Ca-na-an, họ thuật lại cho cha nghe mọi chuyện đã xảy ra: 30 “Chúa xứ đó gắt gỏng với chúng con,+ ông ta buộc tội chúng con là đi do thám xứ. 31 Chúng con đã nói với ông ấy: ‘Chúng tôi là người ngay thật, không phải kẻ do thám.+ 32 Chúng tôi có 12 anh em,+ là con cùng một cha. Một người không còn nữa,+ và em út hiện đang ở với cha tại xứ Ca-na-an’.+ 33 Nhưng chúa xứ đó bảo: ‘Qua cách này ta sẽ biết các ngươi có nói thật hay không: Hãy để một người ở lại với ta,+ còn các ngươi hãy lấy lương thực cứu đói cho gia đình rồi ra về.+ 34 Sau đó, các ngươi phải mang em út mình đến cho ta, lúc ấy ta mới tin các ngươi không phải là bọn do thám mà là người ngay thật. Ta sẽ thả người anh em của các ngươi ra và các ngươi có thể mua lương thực ở xứ này’”.
35 Họ lấy đồ trong bao ra, và này, trong bao mỗi người đều có túi tiền của mình. Vừa nhìn thấy những túi tiền ấy, họ và cha họ đều lo sợ. 36 Gia-cốp cha họ kêu than: “Vì chúng bay, ta đây phải mất con!+ Giô-sép không còn,+ Si-mê-ôn cũng không còn,+ giờ chúng bay lại tính mang Bên-gia-min đi nữa! Ta là người hứng chịu tất cả!”. 37 Ru-bên thưa với cha: “Nếu con không mang em về cho cha thì cha có thể giết hai con trai của con.+ Xin cha giao em cho con, con sẽ mang em về cho cha”.+ 38 Nhưng Gia-cốp nói: “Con trai ta không được đi với chúng bay, anh nó đã chết, nó chỉ còn một mình.+ Lỡ dọc đường xảy ra tai nạn và nó mất mạng thì chúng bay khiến ông lão đầu bạc này phải sầu khổ mà xuống mồ”.*+
43 Bấy giờ, nạn đói trong xứ rất trầm trọng.+ 2 Khi họ đã dùng hết thóc lúa mang về từ Ai Cập,+ Gia-cốp bảo: “Hãy quay lại đó mua ít lương thực cho chúng ta”. 3 Giu-đa thưa: “Ông ấy đã cảnh báo chúng con rõ ràng: ‘Các ngươi không được gặp mặt ta lần nữa nếu không mang theo em trai mình’.+ 4 Cha cho em đi cùng thì chúng con mới đi mua lương thực cho cha được. 5 Nếu cha không cho em đi, chúng con sẽ không đi, vì ông ấy đã nói: ‘Các ngươi không được gặp mặt ta lần nữa nếu không mang theo em trai mình’”.+ 6 Y-sơ-ra-ên+ thốt lên: “Sao lại đi nói với ông ấy là các con còn một đứa em để làm khổ cha thế này?”. 7 Họ bèn đáp: “Ông ấy hỏi kỹ về chúng con và gia đình mình rằng: ‘Cha các ngươi còn sống không? Các ngươi còn anh em trai nào không?’, nên chúng con đã khai sự thật.+ Làm sao chúng con biết được là ông ấy sẽ nói: ‘Hãy mang em các ngươi đến đây’?”.+
8 Giu-đa hối thúc Y-sơ-ra-ên cha mình: “Hãy cho thằng nhỏ đi với con+ để chúng con lên đường hầu chúng ta được sống và không chết đói,+ cả cha lẫn chúng con và bọn trẻ.+ 9 Con xin đứng ra bảo đảm là em sẽ được an toàn.*+ Con sẽ chịu trách nhiệm trước cha. Nếu con không đem em về và giao lại cho cha, con sẽ chịu tội với cha mãi mãi. 10 Giá mà không trì hoãn thì chúng con đã đi được hai chuyến rồi”.
11 Y-sơ-ra-ên cha họ bèn bảo: “Thôi, nếu không có cách khác thì các con nên làm thế này: Hãy mang theo trong bao những thứ tốt nhất của xứ để làm quà cho ông ấy+ gồm ít nhũ hương,+ ít mật ong, nhựa thơm, vỏ cây có nhựa,+ quả hồ trăn và hạnh đào. 12 Hãy đem theo số tiền gấp đôi và hoàn trả số tiền họ đã để lại nơi miệng bao của các con,+ vì có lẽ đó là sự nhầm lẫn. 13 Giờ hãy dẫn em các con đi và quay lại gặp ông ta. 14 Nguyện Đức Chúa Trời Toàn Năng giúp các con được ơn trước mắt ông ấy, để ông ấy giao lại Si-mê-ôn lẫn Bên-gia-min cho các con. Về phần cha, nếu buộc phải mất con thì cha đành chịu vậy!”.+
15 Thế là các anh của Giô-sép đem quà, số tiền gấp đôi cùng Bên-gia-min mà lên đường đi Ai Cập và đến trước mặt Giô-sép.+ 16 Vừa thấy Bên-gia-min đi chung, Giô-sép bảo người cai quản nhà mình: “Hãy đưa những người này về nhà ta, bắt gia súc làm thịt và chuẩn bị bữa ăn, vì họ sẽ dùng bữa trưa với ta”. 17 Ông ấy lập tức làm y như lời+ và đưa họ về nhà Giô-sép. 18 Nhưng khi thấy ông ấy đưa mình đến nhà Giô-sép, họ đâm ra sợ hãi và nói: “Chắc là vì số tiền để lại trong bao lần trước mà bây giờ chúng ta bị đưa đến đây. Họ sẽ xông đến, bắt chúng ta làm nô lệ và cướp mất lừa!”.+
19 Vì thế, họ đến thưa chuyện với người cai quản nhà Giô-sép ở lối vào nhà. 20 Họ nói: “Xin thứ lỗi, thưa ngài! Lần trước chúng tôi có đến mua lương thực.+ 21 Nhưng khi về chỗ trọ, chúng tôi mở bao ra thì kìa, số tiền của mỗi người ở nơi miệng bao mình, toàn bộ số tiền.+ Nay chúng tôi muốn tận tay trả lại số tiền ấy. 22 Chúng tôi có mang thêm tiền để mua lương thực. Còn số tiền kia thì chúng tôi không hề biết ai đã bỏ lại vào bao mình”.+ 23 Ông ấy đáp: “Mọi việc đều ổn cả. Đừng sợ gì hết. Tôi có nhận tiền của các ông. Đức Chúa Trời của các ông và Đức Chúa Trời của cha các ông đã để số tiền ấy vào bao các ông”. Sau đó, ông dẫn Si-mê-ôn ra.+
24 Rồi ông đưa tất cả vào nhà Giô-sép, cho nước để họ rửa chân và cho cỏ khô để lừa ăn. 25 Các anh em chuẩn bị quà+ chờ Giô-sép trở về trưa hôm ấy, bởi họ nghe nói mình sẽ dùng bữa tại đây.+ 26 Khi Giô-sép về đến nhà, họ đem quà ra biếu ông và sấp mặt xuống đất.+ 27 Giô-sép hỏi thăm sức khỏe của họ và nói: “Người cha già mà các ngươi đã nhắc đến có khỏe không? Ông còn sống không?”.+ 28 Họ đáp: “Tôi tớ chúa, là cha của chúng tôi, vẫn mạnh khỏe và còn sống”. Rồi họ cúi mình và sấp mặt xuống đất.+
29 Giô-sép nhìn lên thấy Bên-gia-min, em cùng mẹ với mình,+ bèn hỏi: “Đây có phải là em các ngươi, người em út mà các ngươi đã nói với ta hay không?”.+ Rồi ông nói với Bên-gia-min: “Hỡi con ta, nguyện xin Đức Chúa Trời ban ơn cho con”. 30 Vì cảm xúc đối với em mình dâng trào, Giô-sép vội đi ra tìm chỗ để khóc. Ông vào một phòng kín và khóc.+ 31 Sau đó, ông rửa mặt rồi bước ra ngoài. Ông bình tâm lại và bảo: “Dọn bữa lên!”. 32 Các đầy tớ dọn riêng cho Giô-sép, riêng cho anh em ông và riêng cho những người Ai Cập ở với ông; người Ai Cập không dùng bữa chung với người Hê-bơ-rơ vì đó là điều gớm ghiếc đối với người Ai Cập.+
33 Các anh em Giô-sép ngồi trước mặt ông, anh cả ngồi theo vị trí anh cả+ và em út ngồi theo vị trí em út; họ cứ kinh ngạc nhìn nhau. 34 Giô-sép liên tục sai đem những phần thức ăn trên bàn mình cho họ, nhưng phần của Bên-gia-min thì gấp năm lần các anh.+ Vậy, họ ăn uống thỏa thuê với Giô-sép.
44 Sau đó, Giô-sép ra lệnh cho người cai quản nhà mình: “Hãy đổ đầy lương thực vào bao những người ấy, họ chở được bao nhiêu thì đổ đầy bấy nhiêu. Cũng hãy để lại tiền mỗi người nơi miệng bao của họ.+ 2 Còn cái chén của ta, cái chén bạc đó, thì hãy để nơi miệng bao người em út, cùng với số tiền mua thóc lúa của anh ta”. Ông liền làm theo lời Giô-sép dặn bảo.
3 Hôm sau, khi trời sáng, các anh em của Giô-sép ra về cùng với lừa của họ. 4 Họ đi khỏi thành chưa xa thì Giô-sép bảo người cai quản nhà ông: “Hãy lên đường! Đuổi cho kịp những người ấy và nói với họ: ‘Sao các ông lại lấy oán trả ơn? 5 Sao các ông lấy cái chén mà chủ tôi dùng để uống và giải điềm? Các ông làm vậy thật là ác!’”.
6 Ông ấy bắt kịp họ và lặp lại những lời đó. 7 Họ đáp: “Sao ngài lại nói vậy? Các tôi tớ ngài không bao giờ làm chuyện như thế! 8 Tiền đã tìm thấy nơi miệng bao mà chúng tôi còn mang từ xứ Ca-na-an đến trả cho ngài,+ vậy làm sao chúng tôi có thể lấy trộm bạc hay vàng trong nhà chủ ngài được? 9 Trong vòng các đầy tớ ngài đây, nếu ngài tìm thấy chén đó nơi người nào thì người ấy phải chết và những người còn lại sẽ làm nô lệ cho ngài”. 10 Người cai quản nói: “Được, như lời các ông nói: Cái chén được tìm thấy nơi người nào thì người ấy sẽ làm nô lệ cho tôi, những người còn lại coi như vô tội”. 11 Thế là mỗi người liền hạ bao mình xuống đất và mở ra. 12 Ông ấy lục soát kỹ, bắt đầu từ anh cả đến em út. Cuối cùng, cái chén được tìm thấy trong bao của Bên-gia-min.+
13 Các anh em bèn xé áo mình, mỗi người chất đồ lên lừa và trở lại thành. 14 Khi Giu-đa+ cùng các anh em vào nhà Giô-sép thì Giô-sép vẫn còn ở đó. Họ liền sấp mình xuống đất trước mặt ông.+ 15 Giô-sép hỏi họ: “Các ngươi đã làm gì thế? Các ngươi không biết người như ta có tài giải điềm sao?”.+ 16 Giu-đa đáp: “Chúng tôi biết nói sao với chúa đây? Chúng tôi biết nói gì bây giờ? Làm sao để chúa hiểu chúng tôi là người ngay thẳng? Đức Chúa Trời đã thấy lỗi lầm của các đầy tớ chúa.+ Giờ chúng tôi đều là nô lệ của chúa, người bị phát hiện đang giữ cái chén và cả chúng tôi nữa!”. 17 Nhưng Giô-sép nói: “Không bao giờ ta làm thế! Chỉ kẻ bị phát hiện đang giữ cái chén phải làm nô lệ cho ta thôi,+ còn các ngươi thì được yên ổn về với cha mình”.
18 Giu-đa lại gần Giô-sép và nói: “Thưa chúa, tôi van ngài, xin cho kẻ đầy tớ này nói vài lời với ngài, xin đừng nổi giận với kẻ đầy tớ này, vì ngài như là Pha-ra-ôn vậy.+ 19 Chúa đã hỏi: ‘Các ngươi còn cha hoặc anh em trai nào không?’. 20 Chúng tôi trả lời: ‘Chúng tôi còn người cha già và đứa em út sinh ra lúc cha đã già.+ Anh ruột nó đã mất,+ nó là đứa con trai duy nhất còn lại của mẹ nó+ nên cha chúng tôi rất thương nó’. 21 Rồi ngài nói với các đầy tớ ngài: ‘Hãy mang nó đến đây cho ta thấy tận mắt’.+ 22 Nhưng chúng tôi thưa: ‘Em chúng tôi* không thể rời cha. Nếu nó lìa cha thì người sẽ chết mất’.+ 23 Ngài lại bảo: ‘Nếu không mang theo em út các ngươi đến, các ngươi không được gặp mặt ta lần nữa’.+
24 Thế là chúng tôi về với cha, là đầy tớ ngài, và thuật lại cho cha những lời ngài nói. 25 Một thời gian sau, cha bảo: ‘Hãy quay lại đó mua ít lương thực cho chúng ta’.+ 26 Chúng tôi thưa với cha: ‘Chúng con không đi được. Nếu em út đi cùng thì chúng con mới đi, vì chúng con không được gặp mặt ông ấy nếu không mang theo em út’.+ 27 Cha tôi, là đầy tớ ngài, nói: ‘Các con biết rõ rằng vợ cha chỉ sinh được cho cha hai con trai.+ 28 Một đứa đã mất biệt và cha nghĩ: “Nó bị xé xác rồi!”,+ mãi cho đến nay vẫn không gặp lại nó. 29 Nếu các con cũng đem đứa này xa cách mặt cha và có tai nạn nào làm cho nó mất mạng thì các con sẽ khiến ông lão đầu bạc này phải đau khổ mà xuống mồ’.*+
30 Sự sống của cha tôi gắn liền với sự sống của đứa em này. Nếu bây giờ tôi trở về gặp cha, là đầy tớ ngài, mà không mang nó* theo 31 thì ngay khi không thấy nó,* hẳn cha sẽ chết, và chúng tôi sẽ khiến người cha đầu bạc phải sầu khổ mà xuống mồ.* 32 Kẻ đầy tớ ngài đã đứng ra bảo đảm với cha về đứa em này* rằng: ‘Nếu con không đem em về cho cha thì con sẽ chịu tội với cha mãi mãi’.+ 33 Vậy xin để tôi ở lại làm nô lệ cho chúa tôi, thay thế đứa em này,* hầu nó được đi về cùng các anh. 34 Làm sao tôi có thể trở về gặp cha mà không mang nó* theo? Tôi không thể chịu được khi thấy thảm họa ấy xảy đến với cha mình!”.
45 Nghe thế, Giô-sép không cầm lòng trước các tôi tớ mình được nữa+ nên la lên: “Tất cả hãy lui ra!”. Vậy, khi Giô-sép tỏ cho biết mình là ai thì chỉ có các anh em của ông.+
2 Ông bật khóc lớn tiếng đến nỗi các người Ai Cập và nhà Pha-ra-ôn đều nghe. 3 Giô-sép nói với anh em mình: “Em là Giô-sép. Cha em còn sống chăng?”. Nhưng họ không trả lời được tiếng nào vì quá bàng hoàng. 4 Giô-sép bèn bảo anh em mình: “Xin hãy lại gần đây”. Họ bước lại gần ông.
Rồi ông nói: “Em là Giô-sép, em các anh đây, người mà các anh đã bán sang Ai Cập.+ 5 Nhưng các anh đừng buồn phiền, đừng trách móc nhau vì đã bán em sang đây; Đức Chúa Trời sai em đến đây trước để làm phương tiện bảo tồn sự sống.+ 6 Nay mới là năm thứ hai của nạn đói trong xứ,+ vẫn còn 5 năm nữa sẽ không có cày cấy hay gặt hái. 7 Đức Chúa Trời sai em đến đây trước, hầu bảo tồn dòng giống của các anh*+ trên đất và cứu mạng các anh bằng một cuộc giải thoát vĩ đại. 8 Vậy, chẳng phải các anh, nhưng chính là Đức Chúa Trời đã sai em đến đây để đặt em làm cố vấn trưởng* cho Pha-ra-ôn, làm chúa trong cả nhà vua và người cai trị toàn xứ Ai Cập.+
9 Anh em hãy mau về cùng cha và thưa rằng: ‘Con trai cha là Giô-sép nói thế này: “Đức Chúa Trời đã lập con làm chúa của cả xứ Ai Cập.+ Xin cha đến đây với con, đừng chần chừ.+ 10 Cha hãy đến ngụ trong vùng Gô-sen+ để ở gần con, cả cha lẫn con cháu, cũng như bầy đàn và mọi vật thuộc về cha nữa. 11 Tại đó con sẽ chu cấp lương thực cho cha, vì vẫn còn 5 năm đói kém,+ để cha cùng cả nhà cha không rơi vào cảnh nghèo đói và mọi vật thuộc về cha không bị tiêu tan”’. 12 Nay các anh và Bên-gia-min tận mắt thấy chính em đang nói những lời này.+ 13 Vậy, hãy cho cha biết tất cả sự vinh quang của em ở xứ Ai Cập cùng mọi việc anh em đã thấy. Giờ hãy mau mau đưa cha đến đây”.
14 Rồi Giô-sép ôm choàng lấy cổ Bên-gia-min em mình mà khóc, Bên-gia-min cũng ôm ông mà khóc.+ 15 Giô-sép hôn tất cả anh em mình, vừa ôm họ vừa khóc. Sau đó, các anh em trò chuyện với ông.
16 Tin tức lan đến cung Pha-ra-ôn rằng: “Anh em Giô-sép đã đến!”. Cả Pha-ra-ôn và các quần thần đều vui mừng. 17 Pha-ra-ôn bèn phán dặn Giô-sép: “Khanh hãy nói với anh em mình: ‘Phải làm thế này: Hãy chất đồ lên lưng súc vật thồ rồi đi về xứ Ca-na-an 18 để đưa cha và cả nhà các ngươi đến đây với ta. Ta sẽ ban cho các ngươi những vật quý của xứ Ai Cập, các ngươi sẽ ăn sản vật từ vùng đất màu mỡ nhất của xứ’.+ 19 Ta truyền cho khanh nói với họ:+ ‘Phải làm thế này: Hãy đem các cỗ xe+ từ xứ Ai Cập về chở vợ con các ngươi, và đem một cỗ xe về rước cha các ngươi đến đây.+ 20 Đừng tiếc tài sản mình+ vì những thứ tốt nhất trong cả xứ Ai Cập đều thuộc về các ngươi’”.
21 Các con trai của Y-sơ-ra-ên bèn làm như thế. Giô-sép cấp cho họ các cỗ xe theo lệnh của Pha-ra-ôn và cung cấp thức ăn đi đường cho họ. 22 Ông tặng mỗi người một chiếc áo, nhưng Bên-gia-min thì được 300 miếng bạc và năm chiếc áo.+ 23 Ông cũng gửi cho cha mười con lừa chở những vật quý của xứ Ai Cập, mười con lừa cái chở thóc lúa, bánh và thức ăn để cha dùng khi đi đường. 24 Rồi Giô-sép để anh em mình ra đi. Khi họ lên đường, ông dặn: “Đừng giận nhau dọc đường”.+
25 Vậy, họ từ Ai Cập về với Gia-cốp cha mình ở xứ Ca-na-an. 26 Họ báo cho cha hay: “Giô-sép vẫn còn sống và hiện là người cai trị cả xứ Ai Cập!”.+ Nhưng ông điếng lòng vì không tin lời họ.+ 27 Tuy nhiên, khi Gia-cốp cha họ nghe thuật lại mọi điều Giô-sép nói, và nhìn thấy những cỗ xe Giô-sép gửi đến để rước mình thì tinh thần ông bừng tỉnh. 28 Y-sơ-ra-ên thốt lên: “Cha tin rồi! Giô-sép con cha còn sống! Cha phải đi gặp nó trước khi nhắm mắt!”.+
46 Vậy Y-sơ-ra-ên lên đường, mang theo toàn bộ gia đình và tài sản. Khi đến Bê-e-sê-ba,+ ông dâng lễ vật cho Đức Chúa Trời của Y-sác cha mình.+ 2 Đức Chúa Trời gọi Y-sơ-ra-ên trong một khải tượng ban đêm: “Hỡi Gia-cốp, Gia-cốp!”, ông đáp: “Thưa, con đây!”. 3 Ngài phán: “Ta là Đức Chúa Trời thật,* Đức Chúa Trời của cha con.+ Đừng sợ đi Ai Cập vì ta sẽ khiến con nên một dân lớn.+ 4 Chính ta sẽ đi Ai Cập với con, chính ta sẽ mang con từ đó trở về+ và Giô-sép sẽ là người vuốt mắt con”.+
5 Gia-cốp rời khỏi Bê-e-sê-ba. Các con trai của Y-sơ-ra-ên chở Gia-cốp cha họ, cùng vợ con mình trên những cỗ xe mà Pha-ra-ôn đã gửi đến để rước cha họ. 6 Họ mang theo bầy đàn và tài sản đã gây dựng ở xứ Ca-na-an. Cuối cùng, Gia-cốp và tất cả con cháu mình đến Ai Cập. 7 Vậy, Gia-cốp dẫn con trai, con gái, cháu trai, cháu gái, tức cả dòng dõi mình, sang Ai Cập.
8 Đây là tên các con trai của Y-sơ-ra-ên, tức các con trai của Gia-cốp, đã đến Ai Cập:+ Ru-bên là con trưởng nam của Gia-cốp.+
9 Các con trai của Ru-bên là Ha-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi.+
10 Các con trai của Si-mê-ôn+ là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sa-un; Sa-un+ là con trai của một phụ nữ người Ca-na-an.
11 Các con trai của Lê-vi+ là Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.+
12 Các con trai của Giu-đa+ là Ê-rơ, Ô-nan, Sê-lách,+ Phê-rết+ và Xê-rách.+ Nhưng Ê-rơ và Ô-nan đã chết ở xứ Ca-na-an.+
Các con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun.+
13 Các con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-va, Dốp và Sim-rôn.+
14 Các con trai của Xê-bu-lôn+ là Sê-rết, Ê-lôn và Gia-lê-ên.+
15 Đó là các con cháu do Lê-a sinh cho Gia-cốp. Các con trai ông, cùng một con gái tên Đi-na,+ được sinh ra ở Pha-đan-a-ram. Tổng cộng con cháu của ông là 33 người.
16 Các con trai của Gát+ là Xi-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rốt và A-rê-li.+
17 Các con trai của A-se+ là Di-ma, Dích-và, Dích-vi và Bê-ri-a, cùng một con gái là Sê-rách.
Các con trai của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên.+
18 Đó là các con cháu của Xinh-ba,+ người mà La-ban cho theo hầu con gái ông là Lê-a. Số con cháu bà sinh cho Gia-cốp tổng cộng là 16 người.*
19 Các con trai của Ra-chên, vợ Gia-cốp, là Giô-sép+ và Bên-gia-min.+
20 Các con trai của Giô-sép là Ma-na-se+ và Ép-ra-im,+ do Ách-nát,+ con gái Phô-ti-phê-ra là thầy tế của thành Ôn,* sinh cho ông tại xứ Ai Cập.
21 Các con cháu của Bên-gia-min+ là Bê-la, Bê-ke, Ách-bên, Ghê-ra,+ Na-a-man, Ê-hi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim+ và A-rết.+
22 Đó là các con cháu do Ra-chên sinh cho Gia-cốp, tổng cộng là 14 người.
23 Con trai* của Đan+ là Hu-sim.+
24 Các con trai của Nép-ta-li+ là Giát-xê-ên, Gu-ni, Dít-xe và Si-lem.+
25 Đó là các con cháu của Bi-la, người mà La-ban cho theo hầu con gái ông là Ra-chên. Số con cháu bà sinh cho Gia-cốp tổng cộng là bảy người.
26 Tổng cộng các con cháu của Gia-cốp sang Ai Cập với ông là 66 người, chưa tính vợ của các con trai ông.+ 27 Giô-sép có hai con trai, sinh ra ở Ai Cập. Vậy, tổng cộng những người thuộc nhà Gia-cốp đến Ai Cập là 70 người.+
28 Gia-cốp sai Giu-đa+ đi trước để báo cho Giô-sép biết ông đang trên đường đến Gô-sen. Khi họ đến vùng Gô-sen,+ 29 Giô-sép truyền thắng xe và lên đường đi gặp Y-sơ-ra-ên cha mình ở Gô-sen. Vừa nhìn thấy nhau, Giô-sép ôm choàng lấy cổ ông mà khóc một hồi lâu. 30 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Giờ cha có thể yên lòng nhắm mắt, vì cha đã thấy được mặt con và biết con còn sống”.
31 Rồi Giô-sép nói với các anh em và nhà cha mình: “Để tôi đi báo cho Pha-ra-ôn biết+ và tâu với người rằng: ‘Anh em và nhà cha hạ thần từ xứ Ca-na-an đã đến đây.+ 32 Họ làm nghề chăn cừu+ và nuôi gia súc,+ họ đã mang theo bầy đàn cùng hết thảy tài sản của mình’.+ 33 Khi Pha-ra-ôn triệu anh em đến và hỏi: ‘Các ngươi làm nghề gì?’, 34 anh em nên thưa: ‘Các tôi tớ bệ hạ làm nghề chăn nuôi gia súc từ thuở nhỏ cho đến nay, cả chúng tôi và tổ phụ chúng tôi’.+ Như vậy thì cả nhà sẽ được cư ngụ ở vùng Gô-sen,+ vì người Ai Cập gớm ghê tất cả người chăn cừu”.+
47 Giô-sép đến báo với Pha-ra-ôn:+ “Cha và anh em hạ thần từ xứ Ca-na-an đã đến đây cùng bầy đàn và hết thảy tài sản của họ. Hiện họ đang ở vùng Gô-sen”.+ 2 Ông cũng dẫn theo năm người trong số anh em mình vào yết kiến Pha-ra-ôn.+
3 Pha-ra-ôn hỏi anh em Giô-sép: “Các ngươi làm nghề gì?”. Họ đáp: “Các tôi tớ bệ hạ làm nghề chăn cừu, cả chúng tôi và tổ phụ chúng tôi”.+ 4 Họ thưa tiếp với Pha-ra-ôn: “Các tôi tớ bệ hạ đến xứ này cư ngụ như những ngoại kiều,+ vì nạn đói trong xứ Ca-na-an rất trầm trọng và không có đồng cỏ cho bầy đàn của chúng tôi.+ Xin bệ hạ cho các tôi tớ ngài được ở vùng Gô-sen”.+ 5 Pha-ra-ôn bèn phán với Giô-sép: “Cha và anh em khanh đã đến đây. 6 Cả xứ Ai Cập ở trước mặt khanh. Khanh hãy cho cha và anh em cư ngụ tại vùng tốt nhất của xứ.+ Họ có thể ở vùng Gô-sen, và nếu khanh thấy trong số họ có ai tài giỏi thì hãy giao cai quản bầy đàn của ta”.
7 Rồi Giô-sép đưa Gia-cốp cha mình vào yết kiến Pha-ra-ôn. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn. 8 Pha-ra-ôn hỏi Gia-cốp: “Ông bao nhiêu tuổi rồi?”. 9 Gia-cốp đáp: “Các năm tôi sống du cư là 130 năm. Các năm đời tôi ngắn ngủi và khổ cực,+ không dài như các năm mà tổ phụ tôi sống du cư”.+ 10 Gia-cốp lại chúc phước cho Pha-ra-ôn rồi lui ra.
11 Đúng theo lệnh của Pha-ra-ôn, Giô-sép sắp xếp cho cha cùng anh em mình định cư tại Ai Cập và cấp cho họ đất làm sản nghiệp trong vùng tốt nhất của xứ, trong vùng Ram-se.+ 12 Giô-sép tiếp tục chu cấp lương thực cho cha, anh em và cả nhà cha mình, tùy theo số con cháu của họ.
13 Bấy giờ, cả xứ không có lương thực vì nạn đói rất trầm trọng. Cả Ai Cập lẫn Ca-na-an đều bị kiệt quệ vì nạn đói.+ 14 Dần dần Giô-sép thu hết tiền có trong xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an, tức là tiền người ta mua thóc lúa,+ và chuyển vào kho báu của Pha-ra-ôn. 15 Khi tiền trong xứ Ai Cập và xứ Ca-na-an đã hết, cả dân Ai Cập đều nói với Giô-sép: “Xin cấp lương thực cho chúng tôi! Không lẽ vì hết tiền mà chúng tôi phải chết trước mặt ngài sao?”. 16 Giô-sép nói: “Nếu không còn tiền thì hãy nộp gia súc, ta sẽ cấp lương thực cho các ngươi”. 17 Thế là họ nộp gia súc cho Giô-sép, còn ông thì cấp lương thực cho họ, đổi lấy ngựa, cừu, dê, bò và lừa. Suốt năm ấy, ông cấp lương thực cho họ và đổi lấy tất cả gia súc của họ.
18 Năm ấy trôi qua, sang năm sau dân chúng đến nói với Giô-sép: “Không giấu gì chúa, tiền và gia súc thì chúng tôi đã nộp hết cho chúa. Chúng tôi không còn gì cả, ngoài cái thân này và đất đai của mình. 19 Lẽ nào chúng tôi phải chết và đất đai phải bỏ hoang trước mặt ngài? Xin ngài mua chúng tôi cùng đất đai, đổi lại hãy cấp lương thực cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ôn và đất đai sẽ thuộc về người. Xin cho chúng tôi hạt giống để chúng tôi được sống, chứ không chết đói, và đất đai không bị bỏ hoang”. 20 Vậy, Giô-sép mua tất cả đất đai của người Ai Cập cho Pha-ra-ôn vì mọi người Ai Cập đều bán đất của mình, bởi nạn đói rất trầm trọng. Thế là đất đai thuộc về Pha-ra-ôn.
21 Sau đó, Giô-sép chuyển dân chúng, từ khắp đầu này đến đầu kia của xứ Ai Cập, vào ở trong các thành.+ 22 Chỉ có đất của các thầy tế thì ông không mua.+ Vì họ nhận được phần lương thực từ Pha-ra-ôn nên không phải bán đất của mình. 23 Rồi Giô-sép nói với dân chúng: “Nay ta đã mua các ngươi cùng đất đai cho Pha-ra-ôn. Đây là hạt giống cho các ngươi, hãy lấy đem đi gieo. 24 Khi đất sinh hoa lợi, hãy nộp một phần năm cho Pha-ra-ôn,+ còn bốn phần kia sẽ thuộc về các ngươi để làm hạt giống gieo trên đồng và làm lương thực cho các ngươi, cho người trong nhà và con cái các ngươi”. 25 Họ bèn đáp: “Chúa đã cứu mạng chúng tôi.+ Nguyện chúng tôi được ơn trước mắt ngài, chúng tôi sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ôn”.+ 26 Giô-sép lập điều đó thành một luật vẫn còn hiệu lực cho đến nay trong khắp xứ Ai Cập, tức là một phần năm hoa lợi thuộc về Pha-ra-ôn. Chỉ có đất đai của các thầy tế là không thuộc về Pha-ra-ôn.+
27 Vậy, nhà Y-sơ-ra-ên tiếp tục cư ngụ trong vùng Gô-sen, xứ Ai Cập.+ Họ gây dựng cơ nghiệp ở đó, sinh con cái và gia tăng rất nhiều.+ 28 Gia-cốp sống thêm 17 năm nữa ở xứ Ai Cập. Ông hưởng thọ 147 tuổi.+
29 Khi gần đến ngày qua đời,+ Y-sơ-ra-ên gọi Giô-sép con mình tới và nói: “Nếu con thương cha, xin hãy đặt tay dưới đùi cha* mà thề rằng con sẽ tỏ tình yêu thương thành tín và lòng trung tín với cha. Xin đừng chôn cha ở Ai Cập.+ 30 Khi cha nằm xuống, con phải đưa cha ra khỏi Ai Cập và chôn cất trong mộ của tổ phụ cha”.+ Giô-sép đáp: “Con sẽ làm đúng như lời cha dặn”. 31 Y-sơ-ra-ên bảo: “Hãy thề với cha”. Giô-sép liền thề.+ Y-sơ-ra-ên bèn cúi mình xuống nơi đầu giường.+
48 Không lâu sau, Giô-sép được báo rằng: “Cha ngài yếu lắm”. Giô-sép liền dẫn hai con trai là Ma-na-se và Ép-ra-im đến gặp cha.+ 2 Có người thưa với Gia-cốp: “Giô-sép con ông đến thăm ông đây”. Y-sơ-ra-ên bèn gượng ngồi dậy trên giường. 3 Gia-cốp nói với Giô-sép:
“Đức Chúa Trời Toàn Năng đã hiện ra với cha tại Lu-xơ, trong xứ Ca-na-an, và ban phước cho cha.+ 4 Ngài phán: ‘Này ta sẽ làm cho con có đông con cháu và gia tăng nhiều. Ta sẽ khiến con trở thành một cộng đồng các dân+ và ban cho dòng dõi con vùng đất này làm sản nghiệp lâu bền’.+ 5 Hai con trai mà con sinh ra tại Ai Cập trước khi cha đến đây với con thì nay thuộc về cha.+ Ép-ra-im và Ma-na-se sẽ là con của cha, giống như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy.+ 6 Nhưng những đứa sinh ra sau hai đứa này sẽ thuộc về con. Chúng sẽ mang danh hai anh mình mà hưởng phần thừa kế.+ 7 Về phần cha, cha đã ở bên cạnh mẹ Ra-chên của con, khi mẹ con qua đời+ tại xứ Ca-na-an, trên đường đi từ Pha-đan. Lúc đó còn cách Ép-ra+ một quãng xa nên cha đã chôn mẹ con trên đường đến Ép-ra, tức Bết-lê-hem”.+
8 Y-sơ-ra-ên thấy các con trai của Giô-sép thì hỏi: “Ai đây?”. 9 Giô-sép trả lời: “Đây là hai con trai mà Đức Chúa Trời đã ban cho con tại xứ này”.+ Y-sơ-ra-ên nói: “Xin hãy đưa chúng lại gần đây để cha chúc phước cho chúng”.+ 10 Bấy giờ, mắt Y-sơ-ra-ên đã yếu vì tuổi già và gần như không thấy gì. Giô-sép bèn đưa hai con lại gần ông, và ông ôm hôn chúng. 11 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Cha tưởng là sẽ không bao giờ được gặp mặt con,+ mà nay Đức Chúa Trời còn cho cha thấy cả dòng dõi con nữa”. 12 Giô-sép cho hai con đang ở gần nơi đầu gối Y-sơ-ra-ên đứng dậy, rồi ông sấp mặt xuống đất.
13 Sau đó Giô-sép dẫn hai con lại gần cha: dùng tay phải đưa Ép-ra-im+ đến bên trái của Y-sơ-ra-ên và dùng tay trái đưa Ma-na-se+ đến bên phải của Y-sơ-ra-ên. 14 Nhưng Y-sơ-ra-ên lại đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im, dù Ép-ra-im là con thứ, và đặt tay trái lên đầu Ma-na-se. Ông cố tình đặt tay như thế, dù Ma-na-se là con trưởng nam.+ 15 Rồi ông chúc phước cho Giô-sép và nói:+
“Nguyện Đức Chúa Trời, đấng mà tổ phụ cha là Áp-ra-ham và Y-sác bước theo,+
Nguyện Đức Chúa Trời, đấng dẫn dắt cha suốt cuộc đời đến tận ngày nay,+
16 Nguyện thiên sứ đã giải cứu* cha khỏi mọi thảm họa,+ ban phước cho hai đứa trẻ này.+
Nguyện danh cha được lưu truyền qua chúng, cả danh của tổ phụ cha là Áp-ra-ham và Y-sác nữa.
Nguyện chúng gia tăng gấp bội trên đất”.+
17 Giô-sép thấy cha cứ để tay phải lên đầu Ép-ra-im thì không hài lòng, nên cố lấy tay cha ra khỏi đầu Ép-ra-im mà đặt lên đầu Ma-na-se. 18 Giô-sép nói với cha: “Thưa cha, không phải thế, đứa này mới là con trưởng.+ Cha hãy đặt tay phải lên đầu nó”. 19 Nhưng cha không chịu và nói: “Cha biết, con à, cha biết. Đứa này cũng sẽ trở nên một dân, nó cũng sẽ lớn mạnh. Dầu vậy, em nó sẽ lớn mạnh hơn nó,+ dòng dõi của em nó sẽ đông đảo đến nỗi trở thành nhiều dân tộc”.+ 20 Trong ngày đó, ông chúc phước tiếp cho chúng+ mà rằng:
“Nguyện nhà Y-sơ-ra-ên nhắc đến con khi chúc phước rằng:
‘Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho anh em như đã ban phước cho Ép-ra-im và Ma-na-se’”.
Vậy, ông vẫn đặt Ép-ra-im trên Ma-na-se.
21 Y-sơ-ra-ên nói với Giô-sép: “Này, cha sắp nhắm mắt rồi,+ nhưng Đức Chúa Trời sẽ luôn ở với các con và đem các con trở về xứ sở của tổ phụ mình.+ 22 Còn cha, cha cho con nhiều hơn anh em con một phần đất, là đất mà cha đã chiếm lấy từ tay dân A-mô-rít bằng gươm và cung”.
49 Gia-cốp gọi các con trai mình và nói: “Hãy tập hợp lại để cha cho biết điều sẽ xảy ra với các con trong những ngày về sau. 2 Hãy nhóm nhau lại để nghe, hỡi các con trai của Gia-cốp, phải, hãy nghe Y-sơ-ra-ên cha các con.
3 Hỡi Ru-bên,+ con là trưởng nam của cha,+ là sinh lực và sự khởi đầu khả năng sinh sản của cha. Con nổi trội về sự uy nghi và nổi trội về sức mạnh. 4 Nhưng con buông tuồng như dòng nước chảy xiết nên sẽ không được nổi trội, bởi đã lên giường cha.+ Ngày ấy con làm ô uế giường cha. Nó quả đã lên giường ta!
5 Si-mê-ôn và Lê-vi là huynh đệ.+ Thanh gươm chúng là vũ khí hung tàn.+ 6 Hỡi tâm hồn ta, chớ kết bè với chúng. Hỡi danh dự* ta, chớ gắn liền với chúng, vì chúng đã giết người trong cơn giận+ và cắt gân khoeo của bò đực chỉ cho vui. 7 Đáng rủa thay cơn giận của chúng vì tàn ác, đáng rủa thay cơn thịnh nộ của chúng vì hung nghiệt.+ Cha sẽ chia chúng ra trong xứ Gia-cốp và phân tán chúng trong xứ Y-sơ-ra-ên.+
8 Hỡi Giu-đa,+ các anh em con sẽ ca ngợi con.+ Tay con sẽ đặt trên gáy quân thù.+ Các con trai cha sẽ sấp mình trước con.+ 9 Giu-đa là sư tử con.+ Hỡi con trai cha, ăn mồi xong con trở về. Nó nằm xuống và duỗi mình như sư tử; nó như chúa sơn lâm, nào ai dám bắt nó đứng dậy? 10 Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,+ quyền trượng không lìa khỏi giữa chân nó, cho tới khi Đấng Si-lô* đến,+ lúc ấy muôn dân sẽ phải vâng phục ngài.+ 11 Nó buộc lừa mình nơi cây nho và lừa con nơi cây nho quý. Nó giặt áo mình trong rượu nho và y phục trong nước nho. 12 Mắt nó đỏ sẫm bởi rượu, răng nó trắng muốt bởi sữa.
13 Xê-bu-lôn+ sẽ ở gần bờ biển, gần bờ mà tàu thuyền thả neo.+ Bờ cõi nó hướng về Si-đôn.+
14 Y-sa-ca+ là con lừa có xương chắc khỏe, nằm mà lưng vẫn đeo hai bao hàng. 15 Nó sẽ thấy nơi ở thật tốt lành, xứ sở quả tươi tốt. Nó sẽ ghé vai mang gánh nặng và phải chịu làm lao dịch.
16 Đan,+ một chi phái của Y-sơ-ra-ên, sẽ xét xử dân chúng.+ 17 Đan sẽ là rắn bên đường, con rắn sừng cạnh lối đi, nó cắn gót chân ngựa, làm kỵ mã ngã ngửa.+ 18 Lạy Đức Giê-hô-va, con trông đợi ngài giải cứu!
19 Gát+ sẽ bị một toán giặc cướp tấn công, nhưng nó sẽ tấn công lại từ phía sau.+
20 A-se+ sẽ có lương thực dư dật và cung cấp món ngon xứng dâng cho vua.+
21 Nép-ta-li+ là nai cái nhanh nhẹn, miệng nói những lời thanh nhã.+
22 Giô-sép+ là chồi của một cây trĩu quả, cây trĩu quả trồng bên dòng suối, cành vượt qua cả tường rào. 23 Các cung thủ cứ tấn công nó, bắn tên và nuôi lòng thù hận.+ 24 Nhưng cung nó vẫn vững vàng,+ tay nó vẫn mạnh mẽ và nhanh nhẹn.+ Ấy là nhờ tay vị quyền uy của Gia-cốp, là vị chăn giữ, là đá của Y-sơ-ra-ên. 25 Nó đến từ Đức Chúa Trời của cha, ngài sẽ giúp nó; nó ở cùng Đấng Toàn Năng, ngài sẽ ban phước lành cho nó, phước lành từ trời cao, phước lành từ mạch nước sâu,+ phước lành của bầu sữa và dạ con. 26 Phước lành của cha sẽ trổi hơn ân phước của núi non bất diệt, trổi hơn vật quý trên đồi nương trường tồn.+ Phước lành sẽ luôn ngự trên đầu Giô-sép, trên đỉnh đầu người được chọn trong vòng anh em mình.+
27 Bên-gia-min+ sẽ không ngừng cắn xé như sói,+ buổi sáng ăn mồi, đến chiều chia chiến lợi phẩm”.+
28 Từ những người này mà có 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên, và ấy là những lời mà cha họ chúc phước cho họ, mỗi người một lời chúc phước tương xứng.+
29 Rồi ông dặn bảo họ: “Cha sắp an giấc cùng tổ phụ.*+ Hãy chôn cha chung với cha ông mình trong hang đá trên mảnh đất của ông Ép-rôn người Hếch,+ 30 là cái hang trên mảnh đất ở Mặc-bê-la, gần Mam-rê, trong xứ Ca-na-an, tức mảnh đất mà ông Áp-ra-ham đã mua của ông Ép-rôn người Hếch để làm mộ địa. 31 Ông Áp-ra-ham và bà Sa-ra vợ người được chôn ở đó.+ Ông Y-sác và bà Rê-bê-ca vợ người được chôn ở đó.+ Cha cũng chôn mẹ Lê-a của các con tại đó. 32 Mảnh đất và cái hang ở đó đều đã được mua từ con cháu của Hếch”.+
33 Gia-cốp dặn bảo các con mình xong thì nhấc chân lên giường. Ông trút hơi thở cuối cùng và an giấc cùng tổ phụ.*+
50 Giô-sép gục trên mình cha+ mà khóc và hôn cha. 2 Giô-sép truyền cho các thầy thuốc trong vòng tôi tớ mình ướp xác+ cha. Các thầy thuốc bèn ướp xác Y-sơ-ra-ên. 3 Họ ướp xác ông đủ 40 ngày, vì ấy là trọn thời gian ướp xác. Người Ai Cập khóc thương ông suốt 70 ngày.
4 Mãn thời gian khóc cha, Giô-sép nói với triều thần của Pha-ra-ôn: “Nếu tôi được ơn trước mắt các quan thì hãy tâu giúp với Pha-ra-ôn thế này: 5 ‘Cha hạ thần buộc hạ thần thề+ rằng: “Nay cha sắp nhắm mắt.+ Con phải chôn cha nơi mộ địa+ mà cha đã chuẩn bị sẵn tại xứ Ca-na-an”.+ Vậy, xin bệ hạ cho hạ thần đi chôn cất cha mình. Rồi hạ thần sẽ trở về’”. 6 Pha-ra-ôn đáp: “Khanh cứ đi chôn cha, như lời người đã buộc khanh thề”.+
7 Giô-sép bèn lên đường đi chôn cha mình, cùng đi có tất cả quần thần của Pha-ra-ôn, các trưởng lão+ trong triều và hết thảy trưởng lão trong xứ Ai Cập, 8 cả nhà Giô-sép, anh em ông và nhà cha ông.+ Chỉ có con trẻ và bầy đàn ở lại Gô-sen. 9 Cũng có cả xe ngựa+ và các kỵ mã theo cùng. Đoàn người thật rất đông. 10 Đến sân đạp lúa ở A-tát thuộc vùng Giô-đanh, họ cất tiếng than khóc thảm thiết, và Giô-sép khóc cha suốt bảy ngày. 11 Khi thấy họ than khóc tại sân đạp lúa ở A-tát, dân bản xứ là dân Ca-na-an thốt lên: “Đây là đại tang đối với người Ai Cập!”. Vì thế người ta gọi nơi ấy, ở vùng Giô-đanh, là A-bên-mích-ra-im.*
12 Các con trai Gia-cốp làm đúng như lời ông dặn.+ 13 Họ mang thi hài ông về xứ Ca-na-an và chôn nơi hang đá trên mảnh đất ở Mặc-bê-la, là mảnh đất gần Mam-rê mà Áp-ra-ham đã mua của Ép-rôn người Hếch để làm mộ địa.+ 14 Sau khi an táng cha mình, Giô-sép trở về Ai Cập, cùng với anh em và tất cả những người đi theo đưa tang.
15 Các anh của Giô-sép thấy cha mình đã mất thì bảo nhau: “Có lẽ Giô-sép vẫn còn hận chúng ta và sẽ báo trả mọi việc ác mà chúng ta đã làm cho nó”.+ 16 Thế nên họ nhắn với Giô-sép rằng: “Cha đã truyền thế này trước lúc lâm chung: 17 ‘Các con phải nói với Giô-sép: “Cha van con, xin hãy tha lỗi cho các anh và tội họ đã phạm khi hãm hại con”’. Vậy xin em tha lỗi cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời của cha em”. Giô-sép bật khóc khi nghe lời họ nhắn. 18 Rồi các anh cũng đến sấp mình trước ông và nói: “Chúng tôi đây là đầy tớ ngài!”.+ 19 Giô-sép nói: “Các anh đừng sợ, em là người thay mặt Đức Chúa Trời sao? 20 Dù các anh có ý làm hại em,+ nhưng Đức Chúa Trời lại có ý biến dữ thành lành để bảo toàn mạng sống nhiều người, như ngài đang làm ngày nay.+ 21 Đừng sợ chi. Em sẽ tiếp tục cấp dưỡng cho các anh cùng con nhỏ”.+ Vậy, ông an ủi và làm họ yên lòng.
22 Giô-sép tiếp tục cư ngụ ở Ai Cập, cả ông cùng nhà cha mình. Ông hưởng thọ 110 tuổi. 23 Giô-sép thấy con cháu Ép-ra-im đến thế hệ thứ ba;+ cũng thấy các con của Ma-ki-rơ,+ con trai Ma-na-se. Giô-sép xem chúng là con mình.* 24 Ngày ấy, Giô-sép dặn anh em mình: “Em sắp qua đời. Nhưng Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đoái đến anh em+ và đem anh em ra khỏi xứ này để vào xứ mà ngài đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp”.+ 25 Giô-sép buộc các con trai Y-sơ-ra-ên thề và ông nói: “Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đoái đến anh em. Anh em phải đem hài cốt em ra khỏi xứ này”.+ 26 Giô-sép qua đời lúc 110 tuổi. Họ cho ướp xác+ ông và đặt vào quan tài ở xứ Ai Cập.
Hay “lực đang hoạt động”.
Ds: “làm”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Có lẽ gồm loài bò sát và những sinh vật không thuộc các loài được liệt kê trong câu.
Ds: “cùng cả đạo quân của chúng”.
Lần đầu tiên xuất hiện danh riêng độc đáo của Đức Chúa Trời là יהוה (YHWH). Xem Phụ lục A4.
Hê: neʹphesh, có nghĩa đen là “một tạo vật thở”. Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “Ti-gơ-rơ”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Ds: “một thịt”.
Tức là dòng dõi người nữ.
Hay “gây thương tích cho”.
Hay “gây thương tích cho”.
Nghĩa là “người trên đất; loài người; con người”.
Nghĩa là “người sống”.
Ds: “mọi người sống”.
Nghĩa là “được sinh ra”.
Ds: “sức của nó”.
Ds: “khỏi mặt đất”.
Hay “xứ Nốt”.
Nghĩa là “sắp đặt; lập”.
Hay “A-đam; loài người”.
Rất có thể ý nghĩa là “sự nghỉ ngơi; niềm an ủi”.
Thành ngữ tiếng Hê-bơ-rơ nói đến các thiên sứ.
Ds: “loài xác thịt”. Hay “vì chúng hành động theo xác thịt”.
Có thể ý nghĩa là “kẻ hạ gục”, tức là kẻ làm người khác ngã. Xem mục “Người Nê-phi-lim” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “đau lòng”.
Hay “loài người”.
Ds: “rương”. Muốn nói đến chiếc tàu hình chữ nhật như cái rương, có lẽ có góc vuông và đáy phẳng.
Hay “chất bi-tum”.
Một cu-bít tương đương 44,5cm. Kích thước tàu là: chiều dài 133,5m, chiều rộng 22,3m và chiều cao 13,4m.
Hê: tsoʹhar. Có người nghĩ đây là mái dốc có chiều cao một cu-bít thay vì là khoảng trống để lấy ánh sáng, hay cửa sổ.
Hay “sinh khí”.
Cũng có thể là “bảy cặp”.
Cũng có thể là “bảy cặp”.
Hay “sinh khí”.
Khoảng 6,5m.
Hay “hơi của sinh khí”.
Hay “chúng ở dưới quyền các con”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Cũng có thể là “Chúng hợp nên thành phố lớn”.
Cũng có thể là “và là anh trai của Gia-phết”.
Nghĩa là “chia”.
Ds: “trái đất bị phân chia”.
Hay “chất bi-tum”.
Nghĩa là “sự xáo trộn”.
Hay “sẽ đạt được ân phước cho mình”.
Ds: “anh em”.
Động từ Hê-bơ-rơ ở dạng yêu cầu lịch sự.
Tức là Biển Chết.
Hay “chất bi-tum”.
Ds: “anh em”.
Ds: “anh em”.
Động từ Hê-bơ-rơ ở dạng yêu cầu lịch sự.
Tức là Đức Giê-hô-va nói qua thiên sứ.
Nghĩa là “Đức Chúa Trời nghe”.
Có người cho rằng đây là ngựa vằn. Rất có thể nói đến tính khí độc lập.
Cũng có thể là “sống đối nghịch”.
Hay “Đức Chúa Trời thấy tôi”; hay “Đức Chúa Trời để người khác thấy ngài [là đấng hiện ra]”.
Nghĩa là “giếng của đấng hằng sống thấy tôi”.
Nghĩa là “cha cao quý”.
Nghĩa là “cha của nhiều người”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Có thể ý nghĩa là “hay tranh cãi”.
Nghĩa là “công chúa”.
Nghĩa là “cười”.
Ds: “sê-a”. Một sê-a tương đương 7,33 lít. Xem Phụ lục B14.
Hay “sẽ đạt được ân phước cho mình”.
Tức là quan hệ tình dục.
Hay “lòng yêu thương thành tín”.
Nghĩa là “nhỏ”.
Tức là chưa quan hệ tình dục.
Hay “lòng yêu thương thành tín”.
Ds: “Với bà, đây là tấm che mắt”. Thành ngữ tiếng Hê-bơ-rơ này là lời tuyên bố về pháp lý xác nhận một phụ nữ đã giữ trọn tiết hạnh, và minh oan cho bà.
Cũng có thể là “cười tôi”.
Hay “yêu thương thành tín”.
Có thể ý nghĩa là “giếng của lời thề” hoặc “giếng của bảy thứ”.
Động từ Hê-bơ-rơ ở dạng yêu cầu lịch sự.
Tức là Đức Giê-hô-va nói qua thiên sứ.
Nghĩa là “Đức Giê-hô-va sẽ cung cấp; Đức Giê-hô-va sẽ lo liệu”.
Cũng có thể là “thủ lĩnh lớn”.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Một phong tục người ta thường làm khi nói lời thề.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Ds: “Ông”.
Mỗi tên này trong tiếng Hê-bơ-rơ hẳn nói đến một chi phái hay dân tộc.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Cũng có thể là “sống đối nghịch với”.
Nghĩa là “nhiều lông”.
Nghĩa là “người nắm gót chân; người qua mặt”.
Nghĩa là “đỏ”.
Nghĩa là “tranh giành”.
Nghĩa là “tranh tụng”.
Nghĩa là “những nơi rộng rãi”.
Nghĩa là “người nắm gót chân; người qua mặt”.
Hay “sẽ đạt được ân phước cho mình”.
Nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời”.
Ds: “anh em”.
Ds: “anh em”.
Hay “Đôi mắt Lê-a lờ đờ (yếu)”.
Nghĩa là “Nhìn đây, một con trai!”.
Nghĩa là “nghe”.
Nghĩa là “sự gắn kết; được gắn bó”.
Nghĩa là “được ngợi khen; đối tượng được ngợi khen”.
Ds: “sinh con trên đầu gối tôi”.
Nghĩa là “xét xử”.
Nghĩa là “những cuộc tranh đấu của tôi”.
Nghĩa là “phước”.
Nghĩa là “hạnh phúc”.
Cây thân cỏ họ khoai, có củ và trái. Người ta cho là trái của nó làm tăng khả năng sinh sản.
Nghĩa là “Người ấy là tiền công”.
Nghĩa là “sự nhẫn nhịn”.
Dạng viết tắt của Giô-si-phia, có nghĩa là “Nguyện Gia cho thêm (làm tăng)”.
Tức là Đức Giê-hô-va nói qua thiên sứ.
Động từ Hê-bơ-rơ ở dạng yêu cầu lịch sự.
Hay “thần của gia đình; tượng thờ”.
Ds: “anh em”.
Ds: “là nỗi kính sợ của Y-sác”.
Theo tiếng A-ram, nghĩa là “đống làm chứng”.
Theo tiếng Hê-bơ-rơ, nghĩa là “đống làm chứng”.
Ds: “chỉ nỗi kính sợ của Y-sác cha mình”.
Nghĩa là “hai trại”.
Tức là Đức Giê-hô-va nói qua thiên sứ.
Nghĩa là “người tranh đấu (người bền chí) với Đức Chúa Trời” hay “Đức Chúa Trời tranh đấu”.
Nghĩa là “mặt của Đức Chúa Trời”.
Hay “Phê-ni-ên”.
Nghĩa là “lều; chòi”.
Nghĩa là “Đức Chúa Trời của Bê-tên”.
Nghĩa là “cây sồi than khóc”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Nghĩa là “con trai của sự tang tóc”.
Nghĩa là “con trai của tay phải”.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Tiếng Hê-bơ-rơ không cho biết rõ là chị hay em.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “kỹ nữ đền thờ”. Rất có thể là một hình thức mại dâm để thờ phượng các thần Ca-na-an.
Nghĩa là “chỗ rách”, rất có thể nói đến việc rách đáy chậu.
Hay “lòng yêu thương thành tín”.
Động từ Hê-bơ-rơ có thể hiểu là cạo cả râu và tóc.
Có lẽ là một lời kêu gọi người khác thể hiện sự tôn vinh và kính trọng.
Tức là Hê-li-ô-pô-li.
Tức là Hê-li-ô-pô-li.
Nghĩa là “người làm cho quên”.
Nghĩa là “sinh gấp đôi”.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “Con lấy mạng mình bảo lãnh cho em”.
Ds: “Thằng nhỏ”.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Ds: “thằng nhỏ”.
Ds: “thằng nhỏ”.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Ds: “thằng nhỏ”.
Ds: “thằng nhỏ”.
Ds: “thằng nhỏ”.
Hay “hầu giữ cho các anh một số người sót lại”.
Ds: “cha”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Tức là Hê-li-ô-pô-li.
Ds: “Các con trai”.
Một phong tục người ta thường làm khi nói lời thề.
Hay “chuộc”.
Cũng có thể là “tâm trí”.
Nghĩa là “đấng có quyền có được nó”.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Nghĩa là “đám tang của người Ai Cập”.
Ds: “Chúng được sinh trên đầu gối của Giô-sép”.