DÂN SỐ
1 Vào ngày mùng một, tháng thứ hai của năm thứ hai sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập,+ Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong lều hội họp+ tại hoang mạc Si-nai+ rằng: 2 “Con hãy thống kê dân số+ của toàn thể dân Y-sơ-ra-ên từng người một, theo gia tộc, theo dòng tộc, liệt kê theo tên của tất cả người nam. 3 Con và A-rôn phải lập danh sách theo từng đoàn tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên+ có thể phục vụ trong quân đội Y-sơ-ra-ên.
4 Con hãy dẫn theo một người trong mỗi chi phái, là người đứng đầu của dòng tộc mình.+ 5 Đây là tên của những người sẽ giúp đỡ các con: Ê-lít-xu+ con trai Sê-đêu, thuộc chi phái Ru-bên; 6 Sê-lu-mi-ên+ con trai Xu-ri-ha-đai, thuộc chi phái Si-mê-ôn; 7 Na-ha-sôn+ con trai A-mi-na-đáp, thuộc chi phái Giu-đa; 8 Nê-tha-nê-ên+ con trai Xu-a, thuộc chi phái Y-sa-ca; 9 Ê-li-áp+ con trai Hê-lôn, thuộc chi phái Xê-bu-lôn; 10 về con cháu Giô-sép: Ê-li-sa-ma con trai A-mi-hút, thuộc chi phái Ép-ra-im;+ Ga-ma-li-ên con trai Phê-đát-xu, thuộc chi phái Ma-na-se; 11 A-bi-đan+ con trai Ghi-đeo-ni, thuộc chi phái Bên-gia-min; 12 A-hi-ê-xe+ con trai A-mi-sa-đai, thuộc chi phái Đan; 13 Pha-ghi-ên+ con trai Óc-ran, thuộc chi phái A-se; 14 Ê-li-a-sáp+ con trai Đê-u-ên, thuộc chi phái Gát; 15 A-hi-ra+ con trai Ê-nan, thuộc chi phái Nép-ta-li. 16 Đó là những người được triệu tập từ dân chúng. Họ là thủ lĩnh+ các chi phái của cha ông mình, tức những người đứng đầu hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên”.+
17 Vậy, Môi-se và A-rôn dẫn theo những người đó, tức những người được chỉ định đích danh. 18 Họ tập hợp hết thảy dân chúng vào ngày mùng một của tháng thứ hai, để mỗi người Y-sơ-ra-ên, tức những người từ 20 tuổi trở lên, có thể đăng ký theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình,+ 19 đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. Vậy, ông lập danh sách cho họ tại hoang mạc Si-nai.+
20 Con cháu của Ru-bên, tức con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên,+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm từng người, 21 và số người đăng ký thuộc chi phái Ru-bên là 46.500 người.
22 Con cháu của Si-mê-ôn+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm từng người, 23 và số người đăng ký thuộc chi phái Si-mê-ôn là 59.300 người.
24 Con cháu của Gát+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 25 và số người đăng ký thuộc chi phái Gát là 45.650 người.
26 Con cháu của Giu-đa+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 27 và số người đăng ký thuộc chi phái Giu-đa là 74.600 người.
28 Con cháu của Y-sa-ca+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 29 và số người đăng ký thuộc chi phái Y-sa-ca là 54.400 người.
30 Con cháu của Xê-bu-lôn+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 31 và số người đăng ký thuộc chi phái Xê-bu-lôn là 57.400 người.
32 Con cháu của Giô-sép, qua Ép-ra-im,+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 33 và số người đăng ký thuộc chi phái Ép-ra-im là 40.500 người.
34 Con cháu của Ma-na-se+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 35 và số người đăng ký thuộc chi phái Ma-na-se là 32.200 người.
36 Con cháu của Bên-gia-min+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 37 và số người đăng ký thuộc chi phái Bên-gia-min là 35.400 người.
38 Con cháu của Đan+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 39 và số người đăng ký thuộc chi phái Đan là 62.700 người.
40 Con cháu của A-se+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 41 và số người đăng ký thuộc chi phái A-se là 41.500 người.
42 Con cháu của Nép-ta-li+ được liệt kê theo tên, theo gia tộc và theo dòng tộc mình. Tất cả người nam từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều đã được đếm, 43 và số người đăng ký thuộc chi phái Nép-ta-li là 53.400 người.
44 Đó là những người được Môi-se, A-rôn và 12 thủ lĩnh Y-sơ-ra-ên lập danh sách, mỗi thủ lĩnh đại diện cho dòng tộc mình. 45 Tất cả người Y-sơ-ra-ên từ 20 tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân đội đều được đăng ký theo dòng tộc mình. 46 Tổng số người đăng ký là 603.550 người.+
47 Nhưng người Lê-vi+ không được đăng ký theo chi phái của cha ông mình như các chi phái khác.+ 48 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 49 “Riêng đối với chi phái Lê-vi, con không được lập danh sách, không được gộp chung số người của họ với những người Y-sơ-ra-ên khác.+ 50 Hãy bổ nhiệm người Lê-vi coi sóc lều thánh chứa Chứng Tích,+ tất cả vật dụng của nó cùng mọi thứ thuộc về nó.+ Họ sẽ khiêng lều thánh và mọi vật dụng của nó.+ Họ sẽ phục vụ tại lều thánh+ và đóng trại xung quanh.+ 51 Bất cứ khi nào lều thánh cần được chuyển đi thì người Lê-vi sẽ dỡ nó xuống,+ khi lều thánh cần được ráp lại thì người Lê-vi sẽ dựng nó lên. Người nào không có phận sự* mà đến gần thì sẽ bị xử tử.+
52 Mỗi người Y-sơ-ra-ên phải dựng lều của mình tại khu trại được chỉ định, theo từng đoàn trong phân khu gồm ba chi phái.*+ 53 Người Lê-vi phải đóng trại xung quanh lều thánh chứa Chứng Tích, để cơn phẫn nộ của ta không nổi lên cùng dân Y-sơ-ra-ên.+ Người Lê-vi phải có trách nhiệm chăm sóc* lều thánh chứa Chứng Tích”.+
54 Dân Y-sơ-ra-ên làm mọi điều Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se. Họ làm y như những gì ngài phán.
2 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 2 “Dân Y-sơ-ra-ên phải đóng trại tại phân khu gồm ba chi phái+ được chỉ định, mỗi người gần cờ hiệu của dòng tộc mình. Họ phải đóng trại đối diện và bao quanh lều hội họp.
3 Về hướng đông, tức hướng mặt trời mọc, sẽ là phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của Giu-đa, họ sẽ đóng trại theo từng đoàn; thủ lĩnh của con cháu Giu-đa là Na-ha-sôn+ con trai A-mi-na-đáp. 4 Số người đăng ký trong đội quân là 74.600 người.+ 5 Đóng trại bên cạnh là chi phái Y-sa-ca; thủ lĩnh của con cháu Y-sa-ca là Nê-tha-nê-ên+ con trai Xu-a. 6 Số người đăng ký trong đội quân là 54.400 người.+ 7 Tiếp theo là chi phái Xê-bu-lôn; thủ lĩnh của con cháu Xê-bu-lôn là Ê-li-áp+ con trai Hê-lôn. 8 Số người đăng ký trong đội quân là 57.400 người.+
9 Tổng số người đăng ký trong các đội quân thuộc trại của Giu-đa là 186.400 người. Họ sẽ nhổ trại trước tiên.+
10 Về hướng nam sẽ là phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của Ru-bên,+ họ sẽ đóng trại theo từng đoàn; thủ lĩnh của con cháu Ru-bên là Ê-lít-xu+ con trai Sê-đêu. 11 Số người đăng ký trong đội quân là 46.500 người.+ 12 Đóng trại bên cạnh là chi phái Si-mê-ôn; thủ lĩnh của con cháu Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên+ con trai Xu-ri-ha-đai. 13 Số người đăng ký trong đội quân là 59.300 người.+ 14 Tiếp theo là chi phái Gát; thủ lĩnh của con cháu Gát là Ê-li-a-sáp+ con trai Rê-u-ên. 15 Số người đăng ký trong đội quân là 45.650 người.+
16 Tổng số người đăng ký trong các đội quân thuộc trại của Ru-bên là 151.450 người. Họ sẽ nhổ trại thứ nhì.+
17 Khi chuyển lều hội họp,+ trại của người Lê-vi phải ở giữa những trại khác.
Họ phải di chuyển theo thứ tự giống như lúc hạ trại,+ mỗi người ở đúng vị trí, theo các phân khu gồm ba chi phái của mình.
18 Về hướng tây sẽ là phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của Ép-ra-im, họ sẽ đóng trại theo từng đoàn; thủ lĩnh của con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma+ con trai A-mi-hút. 19 Số người đăng ký trong đội quân là 40.500 người.+ 20 Đóng trại cạnh đó là chi phái Ma-na-se;+ thủ lĩnh của con cháu Ma-na-se là Ga-ma-li-ên+ con trai Phê-đát-xu. 21 Số người đăng ký trong đội quân là 32.200 người.+ 22 Kế đến là chi phái Bên-gia-min; thủ lĩnh của con cháu Bên-gia-min là A-bi-đan+ con trai Ghi-đeo-ni. 23 Số người đăng ký trong đội quân là 35.400 người.+
24 Tổng số người đăng ký trong các đội quân thuộc trại của Ép-ra-im là 108.100 người. Họ sẽ nhổ trại thứ ba.+
25 Về hướng bắc sẽ là phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của Đan, họ sẽ đóng trại theo từng đoàn; thủ lĩnh của con cháu Đan là A-hi-ê-xe+ con trai A-mi-sa-đai. 26 Số người đăng ký trong đội quân là 62.700 người.+ 27 Đóng trại bên cạnh là chi phái A-se; thủ lĩnh của con cháu A-se là Pha-ghi-ên+ con trai Óc-ran. 28 Số người đăng ký trong đội quân là 41.500 người.+ 29 Tiếp theo là chi phái Nép-ta-li; thủ lĩnh của con cháu Nép-ta-li là A-hi-ra+ con trai Ê-nan. 30 Số người đăng ký trong đội quân là 53.400 người.+
31 Tổng số người đăng ký trong trại của Đan là 157.600 người. Họ sẽ nhổ trại cuối cùng,+ theo phân khu gồm ba chi phái của mình”.
32 Đó là những người Y-sơ-ra-ên được đăng ký theo dòng tộc mình; tổng số người thuộc các trại đăng ký trong quân đội là 603.550 người.+ 33 Nhưng người Lê-vi không được đăng ký+ chung với những người Y-sơ-ra-ên khác,+ đúng như những gì Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 34 Dân Y-sơ-ra-ên làm mọi điều Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se. Đó là cách họ hạ trại theo các phân khu gồm ba chi phái+ và cách họ nhổ trại,+ theo gia tộc và dòng tộc mình.
3 Đây là dòng họ của A-rôn và Môi-se vào lúc Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trên núi Si-nai.+ 2 Đây là các con trai của A-rôn: Na-đáp là trưởng nam, A-bi-hu,+ Ê-lê-a-xa+ và Y-tha-ma.+ 3 Đó là tên của các con trai A-rôn, tức những người được xức dầu và phong chức thầy tế lễ.+ 4 Tuy nhiên, Na-đáp và A-bi-hu đã chết trước mặt Đức Giê-hô-va khi họ dâng một thứ lửa trái phép trước mặt Đức Giê-hô-va+ trong hoang mạc Si-nai. Họ không có một đứa con trai nào. Nhưng Ê-lê-a-xa+ và Y-tha-ma+ thì tiếp tục hầu việc với tư cách thầy tế lễ cùng với cha mình là A-rôn.
5 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 6 “Hãy dẫn chi phái Lê-vi+ đến đứng trước mặt thầy tế lễ A-rôn, và họ sẽ phục vụ+ người. 7 Khi làm các công việc liên quan đến lều thánh, họ sẽ hoàn thành trách nhiệm của mình đối với A-rôn và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên trước lều hội họp. 8 Họ phải coi sóc mọi dụng cụ+ của lều hội họp và thi hành các trách nhiệm đối với dân Y-sơ-ra-ên bằng cách coi sóc các công việc liên quan đến lều thánh.+ 9 Con hãy trao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai người. Họ sẽ được trao cho A-rôn như những món quà từ dân Y-sơ-ra-ên.+ 10 Hãy bổ nhiệm A-rôn và các con trai người, họ sẽ thi hành các nhiệm vụ tế lễ của mình;+ người nào không có phận sự* mà đến gần thì sẽ bị xử tử”.+
11 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se rằng: 12 “Này, về phần ta, ta sẽ lấy người Lê-vi từ dân Y-sơ-ra-ên để thế cho mọi con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên;+ người Lê-vi sẽ thuộc về ta. 13 Mọi con đầu lòng đều thuộc về ta.+ Vào ngày mà ta giết mọi con đầu lòng trong xứ Ai Cập,+ ta đã biệt riêng ra thánh cho mình mọi con đầu lòng trong Y-sơ-ra-ên, từ người cho đến thú vật.+ Chúng sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va”.
14 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se trong hoang mạc Si-nai+ rằng: 15 “Hãy lập danh sách con cháu Lê-vi theo dòng tộc và theo gia tộc. Con phải lập danh sách cho người nam từ một tháng tuổi trở lên”.+ 16 Vậy, Môi-se lập danh sách theo lệnh của Đức Giê-hô-va, đúng như ông đã được phán dặn. 17 Đây là tên của các con trai Lê-vi: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.+
18 Đây là tên của các con trai Ghẹt-sôn theo gia tộc: Líp-ni và Si-mê-i.+
19 Các con trai của Kê-hát theo gia tộc là Am-ram, Dít-xê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.+
20 Các con trai của Mê-ra-ri theo gia tộc là Mách-li+ và Mu-si.+
Đó là những gia tộc của người Lê-vi, liệt kê theo dòng tộc.
21 Ra từ Ghẹt-sôn là gia tộc Líp-ni+ và gia tộc Si-mê-i. Đó là những gia tộc của Ghẹt-sôn. 22 Tổng số người nam thuộc các gia tộc đó từ một tháng tuổi trở lên đã được đăng ký là 7.500 người.+ 23 Các gia tộc của Ghẹt-sôn đóng trại phía sau lều thánh,+ về hướng tây. 24 Thủ lĩnh của dòng tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp con trai La-ên. 25 Nhiệm vụ của con cháu Ghẹt-sôn+ trong lều hội họp là coi sóc lều thánh, tấm vải lều,+ tấm phủ,+ cái màn che+ của lối ra vào lều hội họp, 26 các màn treo+ của sân, cái màn che+ của lối ra vào sân xung quanh lều thánh và bàn thờ, các dây lều cùng mọi công việc liên quan đến các vật dụng đó.
27 Ra từ Kê-hát là gia tộc Am-ram, gia tộc Dít-xê-ha, gia tộc Hếp-rôn và gia tộc U-xi-ên. Đó là các gia tộc của Kê-hát.+ 28 Tổng số người nam từ một tháng tuổi trở lên là 8.600 người; họ có nhiệm vụ chăm sóc nơi thánh.+ 29 Các gia tộc của con cháu Kê-hát đóng trại về hướng nam của lều thánh.+ 30 Thủ lĩnh dòng tộc của các gia tộc Kê-hát là Ê-li-xa-phan con trai U-xi-ên.+ 31 Nhiệm vụ của họ là coi sóc Hòm Chứng Tích,+ cái bàn,+ chân đèn,+ các bàn thờ,+ các vật dụng+ được dùng khi phục vụ trong nơi thánh, bức màn phân cách+ và mọi công việc liên quan đến các vật dụng đó.+
32 Đứng đầu các thủ lĩnh của người Lê-vi là Ê-lê-a-xa,+ con trai thầy tế lễ A-rôn. Ê-lê-a-xa có trách nhiệm giám sát những người chăm lo các nhiệm vụ trong nơi thánh.
33 Ra từ Mê-ra-ri là gia tộc Mách-li và gia tộc Mu-si. Đó là các gia tộc của Mê-ra-ri.+ 34 Tổng số người nam từ một tháng tuổi trở lên đã được đăng ký là 6.200 người.+ 35 Thủ lĩnh dòng tộc của các gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên con trai A-bi-hai. Họ đóng trại về hướng bắc của lều thánh.+ 36 Con cháu của Mê-ra-ri có trách nhiệm coi sóc các khung ván+ của lều thánh, các thanh ngang,+ các cột,+ các đế có lỗ, mọi vật dụng+ của lều thánh cùng mọi công việc liên quan đến các vật dụng đó,+ 37 các cột xung quanh sân, các đế có lỗ,+ các cọc và dây của cột.
38 Môi-se, A-rôn cùng các con trai người đóng trại phía trước lều thánh về hướng đông, tức trước lều hội họp về hướng mặt trời mọc. Họ có trách nhiệm chăm sóc nơi thánh, họ làm nhiệm vụ đó thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Người nào không có phận sự* mà đến gần thì sẽ bị xử tử.+
39 Tổng số người nam Lê-vi từ một tháng tuổi trở lên được Môi-se và A-rôn lập danh sách theo gia tộc, theo lệnh của Đức Giê-hô-va, là 22.000 người.
40 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: “Hãy lập danh sách mọi con trai đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên từ một tháng tuổi trở lên,+ đếm số của họ và liệt kê theo tên. 41 Con phải lấy cho ta người Lê-vi để thay thế mọi con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên,+ và lấy súc vật của người Lê-vi để thay thế mọi súc vật đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên.+ Ta là Đức Giê-hô-va”. 42 Vậy, Môi-se lập danh sách tất cả con đầu lòng trong dân Y-sơ-ra-ên, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn. 43 Tổng số các con trai đầu lòng đã được đăng ký theo tên từ một tháng tuổi trở lên là 22.273 người.
44 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se rằng: 45 “Hãy lấy người Lê-vi để thay thế mọi con đầu lòng trong dân Y-sơ-ra-ên, và lấy súc vật của người Lê-vi để thay thế mọi súc vật của dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi sẽ thuộc về ta. Ta là Đức Giê-hô-va. 46 Để trả giá chuộc+ cho 273 con đầu lòng trong dân Y-sơ-ra-ên dư ra so với số người Lê-vi,+ 47 con hãy thu mỗi người năm siếc-lơ,*+ theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh.* Một siếc-lơ bằng 20 ghê-ra.*+ 48 Hãy đưa số tiền đó cho A-rôn và các con trai người, để làm giá chuộc cho số người dư ra”. 49 Vậy, Môi-se thu số tiền của giá chuộc để chuộc lại những người dư ra so với số người Lê-vi. 50 Ông thu tiền từ những con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên, được 1.365 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh. 51 Rồi Môi-se đưa số tiền của giá chuộc cho A-rôn và các con trai người theo lời của Đức Giê-hô-va, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
4 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 2 “Trong vòng con cháu Lê-vi, hãy thống kê số con cháu của Kê-hát,+ theo gia tộc và dòng tộc, 3 tất cả những người từ 30+ đến 50 tuổi+ thuộc về nhóm được giao công việc trong lều hội họp.+
4 Đây là công việc của con cháu Kê-hát trong lều hội họp.+ Đó là một điều rất thánh: 5 Khi nhổ trại, A-rôn cùng các con trai người sẽ đến hạ bức màn phân cách xuống,+ rồi phủ nó trên Hòm+ Chứng Tích. 6 Kế đến, họ sẽ phủ thêm một tấm da hải cẩu, trải một tấm vải màu xanh dương lên trên và đặt các đòn khiêng+ vào đúng vị trí.
7 Họ cũng sẽ trải một tấm vải màu xanh dương trên bàn đặt bánh dâng hiến,+ rồi đặt trên bàn các đĩa, cốc, bát và bình dùng cho rượu tế lễ;+ bánh dâng hiến+ phải luôn ở trên bàn. 8 Họ sẽ trải một tấm vải đỏ tươi trên chúng, phủ thêm một tấm da hải cẩu, rồi đặt các đòn khiêng+ vào đúng vị trí. 9 Sau đó, họ sẽ lấy một tấm vải màu xanh dương và phủ trên chân đèn,+ các ngọn đèn,+ đồ kẹp tim đèn, đồ đựng tim đèn đã cháy+ và các bình đựng dầu thắp đèn. 10 Họ sẽ quấn chân đèn cùng mọi vật dụng của nó trong một tấm da hải cẩu và đặt trên một tấm khiêng. 11 Họ cũng sẽ trải một tấm vải màu xanh dương trên bàn thờ bằng vàng,+ phủ một tấm da hải cẩu lên trên và đặt các đòn khiêng+ vào đúng vị trí. 12 Sau đó, họ sẽ lấy mọi vật dụng+ dùng cho các công việc thường làm trong nơi thánh, đặt chúng vào một tấm vải màu xanh dương, phủ một tấm da hải cẩu lên, rồi đặt trên một tấm khiêng.
13 Họ phải lấy tất cả tro* ra khỏi bàn thờ+ và trải một tấm vải len màu tía lên trên bàn thờ. 14 Họ sẽ đặt trên bàn thờ mọi vật dụng được dùng cho việc phục vụ tại bàn thờ, gồm đồ đựng than, chĩa, xẻng và thau, tức mọi vật dụng của bàn thờ;+ họ sẽ trải một tấm da hải cẩu lên trên và đặt các đòn khiêng+ vào đúng vị trí.
15 Khi nhổ trại, A-rôn và các con trai người phải phủ xong mọi thứ trong nơi thánh+ cùng mọi dụng cụ của nó. Sau đó, con cháu Kê-hát sẽ đến để khiêng đi,+ nhưng họ không được chạm vào những đồ vật của nơi thánh, nếu chạm vào thì sẽ chết.+ Đó là những vật liên quan đến lều hội họp mà con cháu Kê-hát có trách nhiệm phải khiêng đi.
16 Ê-lê-a-xa,+ con trai thầy tế lễ A-rôn, có trách nhiệm coi sóc dầu thắp đèn,+ hương thơm,+ lễ vật ngũ cốc hằng dâng và dầu thánh.+ Người có trách nhiệm coi sóc toàn bộ lều thánh và mọi vật trong đó, bao gồm nơi thánh cùng các vật dụng”.
17 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 18 “Đừng để các gia tộc Kê-hát+ bị diệt khỏi người Lê-vi. 19 Nhưng hãy làm điều này cho họ, để họ tiếp tục sống và không chết vì đến gần các vật rất thánh.+ A-rôn cùng các con trai sẽ vào giao công việc cho mỗi người trong họ và cho biết những vật phải khiêng. 20 Họ không được vào nhìn các vật thánh dù chỉ trong chốc lát, nếu nhìn thì sẽ chết”.+
21 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 22 “Hãy thống kê số con cháu của Ghẹt-sôn,+ theo dòng tộc và gia tộc. 23 Con hãy lập danh sách tất cả những người từ 30 đến 50 tuổi thuộc về nhóm được giao công việc trong lều hội họp. 24 Đây là những vật mà các gia tộc của Ghẹt-sôn được giao coi sóc và khiêng đi:+ 25 Họ sẽ khiêng các tấm vải lều của lều thánh,+ tấm vải của lều hội họp, tấm phủ trong, tấm da hải cẩu phủ ngoài cùng,+ cái màn che của lối ra vào lều hội họp,+ 26 các màn treo của sân,+ cái màn che của lối ra vào sân+ bao quanh lều thánh và bàn thờ, các dây lều cùng mọi vật dụng của họ và mọi thứ được dùng cho việc phục vụ tại lều thánh. Đó là nhiệm vụ của họ. 27 A-rôn cùng các con trai người sẽ giám sát mọi công việc của người Ghẹt-sôn+ cùng mọi vật mà họ phải khiêng; các con hãy giao cho họ trách nhiệm khiêng những vật đó. 28 Đó là công việc mà các gia tộc của Ghẹt-sôn phải thi hành trong lều hội họp;+ họ làm nhiệm vụ của mình dưới sự chỉ dẫn của Y-tha-ma,+ con trai thầy tế lễ A-rôn.
29 Còn về con cháu của Mê-ra-ri,+ con hãy lập danh sách theo gia tộc và dòng tộc. 30 Hãy lập danh sách những người từ 30 đến 50 tuổi, tức tất cả những người thuộc về nhóm được giao công việc của lều hội họp. 31 Đây là những vật mà họ có trách nhiệm phải khiêng đi,+ liên quan đến công việc của họ tại lều hội họp: các khung ván+ của lều thánh, các thanh ngang,+ các cột,+ các đế có lỗ,+ 32 các cột+ quanh sân, các đế có lỗ của cột,+ các cọc lều,+ các dây cùng với mọi dụng cụ của cột cùng mọi công việc liên quan đến những vật đó. Các con hãy giao cho họ các dụng cụ mà họ có trách nhiệm phải khiêng, theo tên của mỗi người. 33 Đó là cách mà các gia tộc Mê-ra-ri+ sẽ hầu việc tại lều hội họp, dưới sự chỉ dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn”.+
34 Sau đó, Môi-se, A-rôn cùng các thủ lĩnh+ của dân chúng lập danh sách con cháu Kê-hát+ theo gia tộc và dòng tộc, 35 tức tất cả những người từ 30 đến 50 tuổi, thuộc về nhóm được giao công việc của lều hội họp.+ 36 Tổng số người đăng ký theo gia tộc là 2.750 người.+ 37 Đó là những người đã được đăng ký từ các gia tộc của Kê-hát, tức tất cả những người đang hầu việc tại lều hội họp. Môi-se và A-rôn lập danh sách theo lệnh Đức Giê-hô-va phán thông qua Môi-se.+
38 Con cháu của Ghẹt-sôn+ đã được đăng ký theo gia tộc và dòng tộc, 39 tức tất cả những người từ 30 đến 50 tuổi, thuộc về nhóm được giao công việc tại lều hội họp. 40 Tổng số người đã đăng ký theo gia tộc và dòng tộc là 2.630 người.+ 41 Đó là việc đăng ký cho các gia tộc của con cháu Ghẹt-sôn, tức tất cả những người đang hầu việc tại lều hội họp. Môi-se và A-rôn đã lập danh sách theo lệnh của Đức Giê-hô-va.+
42 Con cháu của Mê-ra-ri đã được đăng ký theo gia tộc và dòng tộc, 43 tức tất cả những người từ 30 đến 50 tuổi, thuộc về nhóm được giao công việc tại lều hội họp.+ 44 Tổng số người đã đăng ký theo gia tộc là 3.200 người.+ 45 Đó là việc đăng ký cho các gia tộc của con cháu Mê-ra-ri, là những người được Môi-se và A-rôn lập danh sách, theo lệnh Đức Giê-hô-va phán thông qua Môi-se.+
46 Môi-se, A-rôn cùng các thủ lĩnh của Y-sơ-ra-ên đã lập danh sách tất cả những người Lê-vi đó theo gia tộc và dòng tộc của họ; 47 họ là những người từ 30 đến 50 tuổi, đều được giao nhiệm vụ hầu việc và khiêng những vật liên quan đến lều hội họp.+ 48 Tổng số người đã đăng ký là 8.580 người.+ 49 Họ được đăng ký theo lệnh Đức Giê-hô-va phán thông qua Môi-se, mỗi người tùy theo công việc và vật được giao để khiêng. Họ đã được đăng ký đúng như Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se.
5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: 2 “Hãy lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên cách ly khỏi trại tất cả những người bị phong cùi,+ những người tiết ra một chất từ cơ thể+ và những người bị ô uế bởi người chết.*+ 3 Dù là nam hay nữ thì các ngươi cũng phải cách ly. Các ngươi phải cách ly họ khỏi trại, để họ không làm ô uế+ trại của những người mà ta đang ngự ở giữa”.+ 4 Vì thế, dân Y-sơ-ra-ên làm theo và cách ly họ khỏi trại. Những gì Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se, dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy.
5 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se: 6 “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Nếu một người nam hay nữ phạm bất kỳ tội nào mà con người thường phạm và hành động bất trung với Đức Giê-hô-va thì người đó đã mắc tội.+ 7 Người phải thú nhận+ tội lỗi đã phạm, trả đầy đủ giá trị để bồi thường cho tội mình và nộp thêm một phần năm giá trị của nó.+ Người phải đưa nó cho người mà mình đã gây thiệt hại. 8 Nhưng nếu người bị hại qua đời mà không có người thân để nhận sự bồi thường thì sự bồi thường sẽ được trả cho Đức Giê-hô-va và thuộc về thầy tế lễ, kể cả con cừu đực dành cho việc chuộc tội mà thầy tế lễ dùng để chuộc tội cho người kia.+
9 Mọi phần đóng góp thánh+ mà dân Y-sơ-ra-ên đưa cho thầy tế lễ đều sẽ thuộc về thầy tế lễ.+ 10 Những vật thánh mà mỗi người đóng góp sẽ thuộc về thầy tế lễ. Bất cứ vật gì mà một người đưa cho thầy tế lễ đều sẽ thuộc về thầy tế lễ’”.
11 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se: 12 “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Nếu một người vợ lầm đường lạc lối, không chung thủy với chồng, 13 và một người đàn ông khác quan hệ tình dục với người,+ nhưng người chồng không biết và sự việc được giấu kín, nghĩa là người đã làm ô uế chính mình nhưng không có ai làm chứng nghịch lại và người không bị bắt quả tang, thì đây là điều phải làm: 14 Nếu người chồng ghen tuông và nghi ngờ sự chung thủy của vợ khi vợ đã làm ô uế chính mình, hoặc nếu người chồng ghen tuông và nghi ngờ sự chung thủy của vợ khi vợ không làm ô uế chính mình, 15 thì người chồng phải dẫn vợ đến gặp thầy tế lễ, mang theo lễ vật cho vợ, là một phần mười ê-pha* bột lúa mạch. Không được đổ dầu, cũng không được đặt nhựa thơm trắng trên nó vì đó là lễ vật ngũ cốc của sự ghen tuông, tức một lễ vật ngũ cốc để nhắc đến tội lỗi.
16 Thầy tế lễ phải dẫn người nữ đó đến đứng trước mặt Đức Giê-hô-va.+ 17 Thầy tế lễ sẽ lấy nước thánh trong một bình bằng đất và lấy một ít bụi từ sàn của lều thánh bỏ vào nước. 18 Thầy tế lễ sẽ để người đứng trước mặt Đức Giê-hô-va, xõa tóc người ra, đặt trên hai lòng bàn tay người lễ vật ngũ cốc để nhắc nhở, tức là lễ vật ngũ cốc của sự ghen tuông.+ Thầy tế lễ phải có trong tay nước đắng mang sự nguyền rủa.+
19 Thầy tế lễ sẽ bắt người nữ đó thề, và nói với người rằng: “Nếu không có người đàn ông nào khác quan hệ tình dục với bà khi bà còn ở dưới quyền chồng,+ bà không lầm đường lạc lối và bị ô uế, nguyện bà không lãnh hậu quả của thứ nước đắng mang sự nguyền rủa này. 20 Nhưng nếu bà đã lầm đường lạc lối mà làm ô uế chính mình khi còn ở dưới quyền chồng và đã quan hệ tình dục với người đàn ông khác+ không phải chồng mình...”. 21 Rồi thầy tế lễ sẽ bắt người nữ đó lập một lời thề có sự nguyền rủa, và thầy tế lễ sẽ nói với người: “Nguyện Đức Giê-hô-va khiến tên của bà bị dùng trong những lời nguyền rủa và lời thề giữa dân tộc bà, khi Đức Giê-hô-va khiến bà bị hiếm muộn* và bụng bà phình lên. 22 Thứ nước mang sự nguyền rủa sẽ đi vào ruột bà, khiến bụng bà phình lên và làm cho bà bị hiếm muộn”. Người nữ đó phải đáp rằng: “A-men! A-men!”.*
23 Sau đó, thầy tế lễ sẽ viết những lời nguyền rủa này vào một sách và xóa chúng trong nước đắng. 24 Thầy tế lễ sẽ bắt người nữ đó uống nước đắng mang sự nguyền rủa, nước sẽ vào trong người đó và sinh ra hậu quả cay đắng. 25 Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật ngũ cốc của sự ghen tuông+ từ tay người nữ đó, đưa nó qua lại trước mặt Đức Giê-hô-va rồi đem đến gần bàn thờ. 26 Thầy tế lễ sẽ lấy đầy tay lễ vật ngũ cốc để làm lễ vật tượng trưng và thiêu nó bốc khói trên bàn thờ.+ Sau đó, thầy tế lễ sẽ bắt người uống nước đắng. 27 Khi thầy tế lễ bắt người uống nước đắng, nếu người đã làm ô uế mình và không chung thủy với chồng thì nước mang sự nguyền rủa sẽ vào trong người và trở thành điều cay đắng, bụng sẽ phình lên, người sẽ hiếm muộn và tên của người sẽ bị dùng trong những lời nguyền rủa giữa dân mình. 28 Tuy nhiên, nếu người không làm ô uế mình và vẫn tinh sạch thì sẽ không lãnh sự trừng phạt đó; người sẽ thụ thai và sinh con cái.
29 Đó là luật về sự ghen tuông,+ nếu một người nữ lầm đường lạc lối và làm ô uế mình khi còn ở dưới quyền của chồng, 30 hoặc nếu một người nam ghen tuông và nghi ngờ vợ không chung thủy; người đó phải dẫn vợ đến đứng trước mặt Đức Giê-hô-va và thầy tế lễ phải làm mọi điều trong luật này đối với người vợ. 31 Người nam đó sẽ không mắc tội nhưng người vợ phải trả giá cho tội lỗi mình’”.
6 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 2 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Nếu một người nam hoặc nữ lập một lời hứa nguyện đặc biệt để sống như người Na-xi-rê*+ trước mặt Đức Giê-hô-va 3 thì người đó phải tránh xa rượu nho và những thức uống có cồn khác. Người không được uống giấm của rượu hay giấm của bất cứ thức uống có cồn nào.+ Người không được uống bất cứ thứ gì làm từ nho, cũng không được ăn nho tươi hay nho khô. 4 Suốt thời gian sống như người Na-xi-rê, người không được ăn bất cứ thứ gì của cây nho, từ trái nho chưa chín cho đến vỏ nho.
5 Trong suốt thời gian hứa nguyện làm người Na-xi-rê, người đó không được để dao cạo đụng đến đầu mình.+ Người phải tiếp tục nên thánh bằng cách để tóc mọc dài cho đến khi kết thúc những ngày biệt riêng mình ra cho Đức Giê-hô-va. 6 Người không được đến gần người chết* trong suốt thời gian biệt riêng mình ra cho Đức Giê-hô-va. 7 Ngay cả khi cha, mẹ hay anh chị em qua đời, người cũng không được làm ô uế chính mình,+ vì dấu hiệu của người Na-xi-rê trước mặt Đức Chúa Trời vẫn còn trên đầu người.
8 Người đó là thánh đối với Đức Giê-hô-va trong suốt thời gian làm người Na-xi-rê. 9 Nhưng nếu có ai bất ngờ chết bên cạnh người,+ bởi thế mà người làm ô uế chính mình trong khi dấu hiệu của người Na-xi-rê đang ở trên đầu thì người phải cạo đầu+ vào ngày được tuyên bố là tinh sạch. Người phải cạo đầu vào ngày thứ bảy. 10 Vào ngày thứ tám, người phải mang đến cho thầy tế lễ hai chim cu gáy hoặc hai bồ câu con tại lối ra vào lều hội họp. 11 Thầy tế lễ sẽ chuẩn bị một con làm lễ vật chuộc tội và một con làm lễ vật thiêu, rồi chuộc tội cho người+ vì đã chạm vào người chết. Sau đó, người phải biệt riêng đầu mình ra thánh vào ngày ấy. 12 Rồi người phải biệt riêng mình một lần nữa cho Đức Giê-hô-va trong thời gian làm người Na-xi-rê, và mang đến một con cừu đực con dưới một năm tuổi làm lễ vật chuộc lỗi lầm. Tuy nhiên, những ngày trước đó sẽ không được tính vì người đã làm ô uế tư cách Na-xi-rê của mình.
13 Đây là luật về người Na-xi-rê: Khi một người hoàn tất thời gian làm người Na-xi-rê,+ người đó sẽ được dẫn đến lối ra vào lều hội họp. 14 Tại đó, người phải dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va: một cừu đực con khỏe mạnh dưới một năm tuổi làm lễ vật thiêu,+ một cừu cái con khỏe mạnh dưới một năm tuổi làm lễ vật chuộc tội,+ một cừu đực khỏe mạnh làm vật tế lễ hòa thuận,+ 15 một giỏ bánh vòng không men làm từ bột mịn trộn dầu, bánh mỏng không men phết dầu cùng lễ vật ngũ cốc+ và rượu tế lễ của chúng.+ 16 Thầy tế lễ sẽ trình chúng trước mặt Đức Giê-hô-va và dâng lễ vật chuộc tội cùng lễ vật thiêu của người đó. 17 Thầy tế lễ sẽ dâng con cừu đực làm vật tế lễ hòa thuận cho Đức Giê-hô-va cùng với giỏ bánh không men, rồi cũng sẽ dâng lễ vật ngũ cốc+ và rượu tế lễ của vật tế lễ hòa thuận.
18 Sau đó, tại lối ra vào lều hội họp, người Na-xi-rê phải cạo tóc đã để dài+ rồi lấy tóc đó, tức là tóc đã mọc trong suốt thời gian làm người Na-xi-rê, đặt trên lửa đang cháy dưới vật tế lễ hòa thuận. 19 Thầy tế lễ phải lấy một bên vai đã được luộc+ của con cừu đực, một bánh vòng không men từ giỏ bánh, một bánh mỏng không men, rồi đặt chúng trên hai lòng bàn tay của người Na-xi-rê sau khi người đã cạo tóc trên đầu, tức dấu hiệu Na-xi-rê của mình. 20 Thầy tế lễ phải đưa chúng qua lại như một lễ vật đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va.+ Đó là một điều thánh dành cho thầy tế lễ, cái ức của lễ vật đưa qua đưa lại và cái chân của phần đóng góp cũng vậy.+ Sau đó, người Na-xi-rê có thể uống rượu.
21 Đây là luật về người Na-xi-rê+ có lời hứa nguyện: Nếu người đó hứa nguyện và có đủ khả năng dâng cho Đức Giê-hô-va một lễ vật ngoài những đòi hỏi dành cho người Na-xi-rê thì người đó phải thực hiện lời hứa nguyện của mình vì tôn trọng luật của người Na-xi-rê’”.
22 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: 23 “Hãy bảo A-rôn và các con trai người rằng: ‘Đây là cách các anh chúc phước+ cho dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với họ:
24 “Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước+ và gìn giữ anh em.
25 Nguyện Đức Giê-hô-va khiến mặt ngài chiếu sáng trên anh em+ và ban ơn cho anh em.
26 Nguyện Đức Giê-hô-va ngước mặt ngài về phía anh em và ban cho anh em sự bình an”’.+
27 Họ phải rao báo danh ta trên dân Y-sơ-ra-ên+ để ta ban phước cho dân chúng”.+
7 Vào ngày mà Môi-se hoàn tất việc dựng lều thánh,+ ông xức dầu+ và biệt riêng lều cùng với tất cả đồ đạc của lều, bàn thờ và mọi vật dụng của nó ra thánh.+ Khi ông đã xức dầu và biệt riêng chúng ra thánh+ 2 thì những thủ lĩnh Y-sơ-ra-ên,+ là những người đứng đầu dòng tộc của mình, đến dâng lễ vật. Những thủ lĩnh của các chi phái, tức những người giám sát việc lập danh sách, 3 mang đến trước mặt Đức Giê-hô-va lễ vật của mình gồm sáu cỗ xe có mái che và 12 con bò đực, cứ hai thủ lĩnh dâng một cỗ xe và mỗi thủ lĩnh dâng một con bò đực; họ dâng những vật đó trước lều thánh. 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 5 “Hãy nhận những lễ vật ấy để dùng cho việc phục vụ tại lều hội họp. Con hãy giao chúng cho người Lê-vi, cho mỗi người tùy theo đòi hỏi của công việc”.
6 Vậy, Môi-se nhận các cỗ xe và gia súc rồi giao chúng cho người Lê-vi. 7 Ông giao hai cỗ xe cùng bốn con bò đực cho con cháu Ghẹt-sôn, theo đòi hỏi của công việc;+ 8 và ông giao bốn cỗ xe cùng tám con bò đực cho con cháu Mê-ra-ri, theo đòi hỏi của công việc. Những vật này ở dưới sự giám sát của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.+ 9 Nhưng ông không giao những vật đó cho con cháu Kê-hát, vì nhiệm vụ của họ liên quan đến việc phục vụ trong nơi thánh+ và họ sẽ khiêng các vật thánh trên vai mình.+
10 Các thủ lĩnh dâng lễ vật của mình tại lễ khánh thành*+ bàn thờ, vào ngày bàn thờ được xức dầu. Khi các thủ lĩnh dâng lễ vật trước bàn thờ, 11 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Vào những ngày liên tiếp nhau, các thủ lĩnh sẽ dâng lễ vật của mình dành cho lễ khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một thủ lĩnh”.
12 Người dâng lễ vật vào ngày đầu tiên là Na-ha-sôn+ con trai A-mi-na-đáp, thuộc chi phái Giu-đa. 13 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ* và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,*+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 14 một cái cốc* bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 15 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 16 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 17 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Na-ha-sôn con trai A-mi-na-đáp.+
18 Vào ngày thứ hai, thủ lĩnh của con cháu Y-sa-ca là Nê-tha-nê-ên+ con trai Xu-a dâng lễ vật. 19 Ông dâng một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 20 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 21 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 22 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 23 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Nê-tha-nê-ên con trai Xu-a.
24 Vào ngày thứ ba, thủ lĩnh của con cháu Xê-bu-lôn là Ê-li-áp+ con trai Hê-lôn 25 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 26 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 27 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 28 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 29 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Ê-li-áp+ con trai Hê-lôn.
30 Vào ngày thứ tư, thủ lĩnh của con cháu Ru-bên là Ê-lít-xu+ con trai Sê-đêu 31 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 32 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 33 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 34 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 35 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Ê-lít-xu+ con trai Sê-đêu.
36 Vào ngày thứ năm, thủ lĩnh của con cháu Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên+ con trai Xu-ri-ha-đai 37 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 38 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 39 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 40 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 41 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên+ con trai Xu-ri-ha-đai.
42 Vào ngày thứ sáu, thủ lĩnh của con cháu Gát là Ê-li-a-sáp+ con trai Đê-u-ên 43 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 44 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 45 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 46 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 47 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Ê-li-a-sáp+ con trai Đê-u-ên.
48 Vào ngày thứ bảy, thủ lĩnh của con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma+ con trai A-mi-hút 49 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 50 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 51 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 52 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 53 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Ê-li-sa-ma+ con trai A-mi-hút.
54 Vào ngày thứ tám, thủ lĩnh của con cháu Ma-na-se là Ga-ma-li-ên+ con trai Phê-đát-xu 55 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 56 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 57 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi để làm lễ vật thiêu;+ 58 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 59 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Ga-ma-li-ên+ con trai Phê-đát-xu.
60 Vào ngày thứ chín, thủ lĩnh+ của con cháu Bên-gia-min là A-bi-đan+ con trai Ghi-đeo-ni 61 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 62 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 63 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi để làm lễ vật thiêu;+ 64 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 65 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của A-bi-đan+ con trai Ghi-đeo-ni.
66 Vào ngày thứ mười, thủ lĩnh của con cháu Đan là A-hi-ê-xe+ con trai A-mi-sa-đai 67 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 68 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 69 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 70 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 71 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của A-hi-ê-xe+ con trai A-mi-sa-đai.
72 Vào ngày thứ mười một, thủ lĩnh của con cháu A-se là Pha-ghi-ên+ con trai Óc-ran 73 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 74 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 75 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 76 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 77 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên+ con trai Óc-ran.
78 Vào ngày thứ mười hai, thủ lĩnh của con cháu Nép-ta-li là A-hi-ra+ con trai Ê-nan 79 dâng lễ vật gồm một cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ và một cái bát bằng bạc nặng 70 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh,+ cả hai vật đó đều chứa đầy bột mịn trộn dầu để dùng làm lễ vật ngũ cốc;+ 80 một cái cốc bằng vàng nặng 10 siếc-lơ chứa đầy hương, 81 một con bò đực tơ, một con cừu đực và một con cừu đực con dưới một năm tuổi, để làm lễ vật thiêu;+ 82 một con dê con làm lễ vật chuộc tội;+ 83 vật tế lễ hòa thuận+ là hai con bò, năm con cừu đực, năm con dê đực và năm con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật của A-hi-ra+ con trai Ê-nan.
84 Đây là lễ vật mà các thủ lĩnh Y-sơ-ra-ên dành cho lễ khánh thành+ bàn thờ vào ngày nó được xức dầu: 12 cái đĩa bằng bạc, 12 cái bát bằng bạc, 12 cái cốc bằng vàng;+ 85 mỗi cái đĩa bằng bạc nặng 130 siếc-lơ, mỗi cái bát nặng 70 siếc-lơ, trọng lượng của tất cả đồ đựng bằng bạc là 2.400 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh;+ 86 12 cái cốc bằng vàng chứa đầy hương, mỗi cái nặng 10 siếc-lơ, theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh, trọng lượng của tất cả cốc bằng vàng là 120 siếc-lơ. 87 Tổng số gia súc dùng làm lễ vật thiêu là 12 con bò đực, 12 con cừu đực, 12 con cừu đực con một năm tuổi và các lễ vật ngũ cốc của chúng, lễ vật chuộc tội là 12 con dê con. 88 Tổng số gia súc dùng làm vật tế lễ hòa thuận là 24 con bò đực, 60 con cừu đực, 60 con dê đực, 60 con cừu đực con một năm tuổi. Đó là lễ vật dành cho lễ khánh thành+ bàn thờ sau khi nó được xức dầu.+
89 Mỗi khi vào lều hội họp để thưa chuyện với Đức Chúa Trời,+ Môi-se đều nghe có tiếng nói với mình từ trên nắp+ Hòm Chứng Tích; ngài phán với ông từ giữa hai chê-rúp.+
8 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 “Con hãy nói với A-rôn: ‘Khi anh thắp đèn thì bảy ngọn đèn phải chiếu sáng cả khu vực trước chân đèn’”.+ 3 Vậy, A-rôn làm theo, ông thắp đèn chiếu sáng cả khu vực trước chân đèn,+ đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 4 Đây là cách chân đèn đã được làm: Nó được làm bằng vàng và do búa tạo hình; từ thân cho đến bông hoa đều do búa tạo hình.+ Chân đèn được làm theo khải tượng+ Đức Giê-hô-va đã cho Môi-se thấy.
5 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: 6 “Hãy lấy người Lê-vi từ giữa dân Y-sơ-ra-ên và tẩy sạch họ.+ 7 Đây là cách mà con phải tẩy sạch họ: Hãy rảy nước làm sạch tội lỗi trên họ, rồi họ phải dùng dao để cạo cả người, giặt quần áo và làm sạch chính mình.+ 8 Sau đó, họ sẽ mang một con bò đực tơ+ và lễ vật ngũ cốc+ làm từ bột mịn trộn dầu của nó, còn con sẽ lấy một con bò đực tơ khác để làm lễ vật chuộc tội.+ 9 Hãy dẫn người Lê-vi đến trình diện trước lều hội họp và tập hợp hết thảy dân Y-sơ-ra-ên lại.+ 10 Khi con dẫn người Lê-vi đến trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ đặt tay trên người Lê-vi.+ 11 A-rôn phải dâng* người Lê-vi trước mặt Đức Giê-hô-va như một lễ vật đưa qua đưa lại+ từ dân Y-sơ-ra-ên, rồi người Lê-vi sẽ hầu việc Đức Giê-hô-va.+
12 Tiếp theo, người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực.+ Sau đó, hãy dâng một con làm lễ vật chuộc tội và một con làm lễ vật thiêu cho Đức Giê-hô-va để chuộc tội+ cho người Lê-vi. 13 Con sẽ để người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người rồi dâng họ như một lễ vật đưa qua đưa lại cho Đức Giê-hô-va. 14 Con phải biệt riêng người Lê-vi khỏi dân Y-sơ-ra-ên, và người Lê-vi sẽ thuộc về ta.+ 15 Sau đó, người Lê-vi sẽ vào hầu việc trong lều hội họp. Đó là cách con tẩy sạch họ và dâng họ như một lễ vật đưa qua đưa lại. 16 Vì họ là những người được trao cho ta như những món quà từ dân Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ lấy họ để thay thế cho mọi con đầu lòng của dân Y-sơ-ra-ên.+ 17 Vì mọi con đầu lòng giữa dân Y-sơ-ra-ên đều thuộc về ta, dù là người hay thú vật.+ Ta đã biệt riêng chúng ra thánh cho mình vào ngày ta giết mọi con đầu lòng trong xứ Ai Cập.+ 18 Ta sẽ lấy người Lê-vi để thay thế cho mọi con đầu lòng giữa dân Y-sơ-ra-ên. 19 Ta sẽ trao người Lê-vi cho A-rôn và các con trai người như những món quà từ dân Y-sơ-ra-ên, để làm công việc phục vụ tại lều hội họp thay cho dân Y-sơ-ra-ên+ và để chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, hầu cho không có tai vạ nào xảy ra giữa dân Y-sơ-ra-ên+ vì dân chúng đến gần nơi thánh”.
20 Môi-se, A-rôn cùng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên làm những điều đó cho người Lê-vi. Mọi điều Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se liên quan đến người Lê-vi, dân Y-sơ-ra-ên đều làm theo. 21 Vậy, người Lê-vi tẩy uế chính mình và giặt quần áo,+ rồi A-rôn dâng họ như một lễ vật đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va.+ Tiếp theo, A-rôn chuộc tội cho người Lê-vi nhằm tẩy sạch họ.+ 22 Sau đó, người Lê-vi đi vào làm công việc phục vụ tại lều hội họp trước mặt A-rôn và các con trai người. Những gì Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se liên quan đến người Lê-vi đều đã được thực hiện.
23 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 24 “Đây là điều áp dụng cho người Lê-vi: Những người nam từ 25 tuổi trở lên sẽ gia nhập nhóm người hầu việc trong lều hội họp. 25 Nhưng sau 50 tuổi, người đó sẽ ra khỏi nhóm ấy và không hầu việc nữa. 26 Người đó có thể giúp đỡ các anh em mình đang thi hành những nhiệm vụ tại lều hội họp, nhưng không được làm công việc phục vụ trong lều. Đó là những gì con phải làm liên quan đến người Lê-vi và các trách nhiệm của họ”.+
9 Vào tháng thứ nhất của năm thứ hai sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se tại hoang mạc Si-nai+ rằng: 2 “Dân Y-sơ-ra-ên phải chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua+ vào thời điểm được ấn định.+ 3 Vào lúc chạng vạng tối* ngày 14 của tháng này, các ngươi phải chuẩn bị con sinh tế vào thời điểm được ấn định. Hãy chuẩn bị theo mọi luật lệ và thông lệ của lễ này”.+
4 Vậy, Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua. 5 Vào lúc chạng vạng tối* ngày 14 của tháng thứ nhất, họ chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua tại hoang mạc Si-nai. Mọi điều Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se, dân Y-sơ-ra-ên làm y như vậy.
6 Bấy giờ, có những người nam bị ô uế do chạm vào xác chết+ nên không được chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua vào ngày đó. Vì thế, họ đến gặp Môi-se và A-rôn vào ngày đó+ 7 và nói rằng: “Chúng tôi đã bị ô uế vì chạm vào xác chết. Nhưng có nhất thiết phải ngăn cản chúng tôi dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va chung với dân Y-sơ-ra-ên vào thời điểm được ấn định không?”.+ 8 Môi-se đáp: “Hãy chờ ở đây, để tôi nghe điều Đức Giê-hô-va phán liên quan đến các anh”.+
9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 10 “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Dù bị ô uế vì đụng vào xác chết+ hay đang đi xa, mọi người nam trong vòng các ngươi hoặc thế hệ tương lai của các ngươi vẫn phải chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua cho Đức Giê-hô-va. 11 Họ phải chuẩn bị nó vào lúc chạng vạng tối* ngày 14 của tháng thứ hai.+ Họ phải ăn nó chung với bánh không men và rau đắng.+ 12 Họ không được chừa lại bất cứ phần nào cho đến sáng+ và không được bẻ gãy một cái xương nào của nó.+ Họ phải chuẩn bị nó theo mọi luật lệ liên quan đến Lễ Vượt Qua. 13 Nhưng nếu một người tinh sạch hoặc không đi xa mà lại không chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua thì người đó sẽ bị diệt trừ khỏi dân chúng+ vì đã không dâng lễ vật cho Đức Giê-hô-va vào thời điểm được ấn định. Người đó phải trả giá cho tội lỗi mình.
14 Nếu có một ngoại kiều đang sống giữa các ngươi thì người cũng phải chuẩn bị con sinh tế của Lễ Vượt Qua cho Đức Giê-hô-va.+ Người phải làm điều đó theo mọi luật lệ và thông lệ của Lễ Vượt Qua.+ Chỉ có một luật lệ được áp dụng cho các ngươi, cả ngoại kiều lẫn người bản xứ’”.+
15 Vào ngày lều thánh được dựng,+ đám mây bao phủ lều thánh, tức lều chứa Chứng Tích, nhưng ban đêm thì trông như có lửa ngự trên lều thánh cho đến sáng.+ 16 Đây là điều luôn diễn ra: Đám mây sẽ bao phủ lều thánh vào ban ngày, còn ban đêm thì trông như có lửa bao phủ.+ 17 Khi nào đám mây cất lên khỏi lều thánh thì dân Y-sơ-ra-ên nhanh chóng nhổ trại,+ và nơi nào đám mây dừng lại thì dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại đó.+ 18 Họ nhổ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va và hạ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va.+ Chừng nào đám mây còn ở trên lều thánh thì họ vẫn đóng trại. 19 Khi đám mây ngự trên lều thánh nhiều ngày, dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Đức Giê-hô-va và không nhổ trại.+ 20 Có lúc đám mây ở trên lều thánh vài ngày. Họ nhổ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va và hạ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va. 21 Có lúc đám mây chỉ ở trên lều thánh từ tối đến sáng, và khi đám mây cất lên vào buổi sáng thì dân Y-sơ-ra-ên nhổ trại. Khi đám mây cất lên, dù là ngày hay đêm, thì họ cũng nhổ trại.+ 22 Dù đám mây ở trên lều thánh hai ngày, một tháng hay lâu hơn, dân Y-sơ-ra-ên vẫn đóng trại và không rời đi. Nhưng khi đám mây cất lên thì họ nhổ trại. 23 Họ hạ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va và nhổ trại theo lệnh Đức Giê-hô-va. Họ giữ bổn phận với Đức Giê-hô-va theo lệnh Đức Giê-hô-va phán thông qua Môi-se.
10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 “Con hãy làm hai cái kèn;+ hãy làm chúng bằng bạc và dùng búa tạo hình. Hãy dùng chúng để triệu tập dân chúng và báo hiệu nhổ trại. 3 Khi cả hai kèn được thổi lên thì toàn thể dân chúng phải tập hợp tại lối ra vào lều hội họp+ để gặp con. 4 Nếu chỉ một kèn được thổi lên thì chỉ có các thủ lĩnh, tức những người đứng đầu hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên, tập hợp lại để gặp con.+
5 Khi các ngươi thổi kèn theo độ cao thấp khác nhau thì các trại ở phía đông+ sẽ rời đi. 6 Khi các ngươi thổi kèn theo độ cao thấp khác nhau lần thứ hai thì các trại ở phía nam+ sẽ rời đi. Phải thổi kèn theo cách ấy khi mỗi trại rời đi.
7 Khi tập hợp dân chúng, các ngươi phải thổi kèn+ nhưng không thổi theo độ cao thấp khác nhau. 8 Các con trai của A-rôn, tức các thầy tế lễ, phải thổi kèn.+ Việc dùng kèn sẽ là một luật lệ vững bền cho các ngươi trải qua các đời.
9 Nếu các ngươi phải tranh chiến chống lại kẻ đàn áp đang tấn công các ngươi tại xứ mình, hãy thổi vang một tiếng kèn kêu gọi ra trận+ thì các ngươi sẽ được Giê-hô-va Đức Chúa Trời nhớ đến và được giải cứu khỏi kẻ thù.
10 Ngoài ra, vào những dịp vui mừng,+ tức các kỳ lễ hội+ và những ngày đầu tháng, các ngươi phải thổi kèn trên những lễ vật thiêu+ và vật tế lễ hòa thuận+ của mình. Những tiếng kèn đó sẽ khiến Đức Chúa Trời nhớ đến các ngươi. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”.+
11 Vào năm thứ hai, tháng thứ hai, nhằm ngày 20,+ đám mây cất lên khỏi lều thánh+ chứa Chứng Tích. 12 Vì vậy, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu di chuyển khỏi hoang mạc Si-nai theo thứ tự nhổ trại đã định,+ và đám mây dừng lại tại hoang mạc Pha-ran.+ 13 Đó là lần đầu tiên họ nhổ trại theo lệnh của Đức Giê-hô-va thông qua Môi-se.+
14 Vậy, phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của con cháu Giu-đa nhổ trại trước tiên theo từng đoàn, Na-ha-sôn+ con trai A-mi-na-đáp dẫn đầu. 15 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Y-sa-ca là Nê-tha-nê-ên+ con trai Xu-a. 16 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Xê-bu-lôn là Ê-li-áp+ con trai Hê-lôn.
17 Khi lều thánh đã được dỡ xuống+ thì con cháu Ghẹt-sôn+ và con cháu Mê-ra-ri,+ tức những người khiêng lều thánh, rời đi.
18 Sau đó, phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của Ru-bên nhổ trại theo từng đoàn, Ê-lít-xu+ con trai Sê-đêu dẫn đầu. 19 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên+ con trai Xu-ri-ha-đai. 20 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Gát là Ê-li-a-sáp+ con trai Đê-u-ên.
21 Kế đến, người Kê-hát, tức những người mang các vật thánh,+ rời đi. Khi họ đến nơi thì lều thánh đã được dựng sẵn.
22 Tiếp theo, phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của con cháu Ép-ra-im nhổ trại theo từng đoàn, Ê-li-sa-ma+ con trai A-mi-hút dẫn đầu. 23 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Ma-na-se là Ga-ma-li-ên+ con trai Phê-đát-xu. 24 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Bên-gia-min là A-bi-đan+ con trai Ghi-đeo-ni.
25 Kế đến, phân khu gồm ba chi phái thuộc trại của con cháu Đan nhổ trại theo từng đoàn, họ làm hậu quân cho tất cả các trại. A-hi-ê-xe+ con trai A-mi-sa-đai dẫn đầu. 26 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu A-se là Pha-ghi-ên+ con trai Óc-ran. 27 Dẫn đầu đoàn của chi phái thuộc con cháu Nép-ta-li là A-hi-ra+ con trai Ê-nan. 28 Đó là thứ tự nhổ trại mà dân Y-sơ-ra-ên và các đoàn người đã làm theo khi họ rời đi.+
29 Sau đó, Môi-se nói với Hô-báp, tức con trai của cha vợ mình là Rê-u-ên*+ người Ma-đi-an: “Chúng tôi đang lên đường đến một nơi mà Đức Giê-hô-va đã phán rằng: ‘Ta sẽ ban xứ này cho các ngươi’.+ Hãy đến với chúng tôi+ và chúng tôi sẽ hậu đãi anh, vì Đức Giê-hô-va đã hứa những điều tốt lành cho dân Y-sơ-ra-ên”.+ 30 Nhưng Hô-báp đáp rằng: “Tôi sẽ không đi đâu. Tôi sẽ trở về với quê hương và bà con của mình”. 31 Môi-se nói: “Xin đừng đi khỏi chúng tôi, vì anh biết chúng tôi phải hạ trại tại nơi nào trong hoang mạc, và anh có thể làm người hướng dẫn* của chúng tôi. 32 Nếu anh đi với chúng tôi+ thì những điều tốt lành Đức Giê-hô-va ban cho chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ chia sẻ với anh”.
33 Vậy, từ núi của Đức Giê-hô-va,+ họ bắt đầu chuyến hành trình ba ngày đường. Trong ba ngày đó, hòm+ của giao ước Đức Giê-hô-va đi trước họ để tìm một nơi nghỉ ngơi.+ 34 Đám mây của Đức Giê-hô-va+ ở trên họ vào ban ngày khi họ rời khỏi nơi đóng trại.
35 Khi nào hòm được chuyển đi thì Môi-se nói: “Ôi Đức Giê-hô-va, xin hãy trỗi dậy+ và làm tan tác kẻ thù của ngài; nguyện những kẻ ghét ngài phải chạy trốn trước mặt ngài”. 36 Khi nào hòm được đặt xuống thì Môi-se nói: “Ôi Đức Giê-hô-va, xin trở lại cùng muôn ngàn dân Y-sơ-ra-ên”.+
11 Bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu cay đắng phàn nàn trước mặt Đức Giê-hô-va. Khi Đức Giê-hô-va nghe điều đó, cơn giận của ngài phừng lên và một ngọn lửa từ Đức Giê-hô-va rực cháy trên họ, thiêu đốt một số người ở rìa trại. 2 Khi dân chúng kêu cầu Môi-se, ông nài xin Đức Giê-hô-va+ thì ngọn lửa bèn tắt. 3 Vậy, nơi đó được đặt tên là Tha-bê-ra,* vì một ngọn lửa từ Đức Giê-hô-va đã rực cháy trên dân chúng.+
4 Sau đó, một đám người*+ giữa dân chúng tỏ lòng tham,+ và dân Y-sơ-ra-ên cũng bắt đầu than khóc lần nữa mà rằng: “Ai sẽ cho chúng ta thịt để ăn?+ 5 Chúng ta nhớ đến cá mà mình đã từng ăn miễn phí tại Ai Cập là dường nào, cả dưa leo, dưa hấu, tỏi tây, củ hành, củ tỏi nữa!+ 6 Còn bây giờ thì chúng ta đang chết dần chết mòn, chẳng thấy gì khác ngoài thứ ma-na này”.+
7 Ma-na+ giống như hạt nhỏ màu trắng+ và trông như nhựa thơm. 8 Dân chúng tản ra để nhặt lấy rồi nghiền trong cối xay hoặc giã trong cối. Sau đó, họ luộc chúng trong nồi hoặc làm thành những cái bánh tròn,+ vị của nó giống như bánh ngọt có dầu. 9 Khi sương xuống trên trại vào ban đêm thì ma-na cũng rơi xuống.+
10 Môi-se nghe tiếng dân chúng than khóc, gia đình nào cũng vậy, mỗi người đều khóc tại lối ra vào của lều mình. Đức Giê-hô-va rất giận dữ+ và Môi-se cũng rất phiền lòng. 11 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va: “Sao ngài lại hành hại tôi tớ ngài? Sao con không được ơn trước mặt ngài, để rồi bị ngài chất trên mình gánh nặng của cả dân này?+ 12 Con đã mang thai cả dân này sao? Con có sinh ra họ đâu mà ngài nói với con rằng: ‘Hãy bế họ trong lòng, như người giúp việc bế trẻ còn bú’ đến xứ ngài đã thề ban cho tổ phụ họ?+ 13 Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này? Vì họ cứ than khóc trước mặt con rằng: ‘Hãy cho chúng tôi ăn thịt!’. 14 Một mình con không thể gánh cả dân này; điều đó quá sức con.+ 15 Nếu đó quả là cách ngài sẽ đối xử với con thì xin hãy giết con ngay đi.+ Còn nếu con được ơn trước mặt ngài thì xin đừng để con thấy tai vạ nào nữa”.
16 Đức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se: “Hãy tập hợp cho ta 70 người từ các trưởng lão của dân Y-sơ-ra-ên, tức những người mà con biết là trưởng lão và người có chức vụ trong dân chúng,+ dẫn họ đến lều hội họp rồi để họ đứng tại đó với con. 17 Ta sẽ ngự xuống+ và phán với con tại đó;+ ta sẽ lấy một phần thần khí+ trên con và ban cho họ, rồi họ sẽ giúp con mang gánh nặng của dân chúng để con không phải gánh một mình.+ 18 Hãy nói với dân chúng rằng: ‘Ngày mai hãy biệt riêng mình ra thánh,+ vì chắc chắn anh em sẽ ăn thịt, bởi lời than khóc của anh em đã đến tai Đức Giê-hô-va+ mà rằng: “Ai sẽ cho chúng ta thịt để ăn? Chúng ta thật sung sướng khi ở Ai Cập”.+ Chắc chắn Đức Giê-hô-va sẽ ban thịt cho anh em, và anh em sẽ ăn.+ 19 Anh em sẽ ăn, không phải trong một ngày, 2 ngày, 5 ngày, 10 ngày hay 20 ngày 20 mà là cả tháng, cho đến khi thịt trào ra lỗ mũi và trở nên kinh tởm đối với anh em,+ vì anh em đã từ bỏ đấng ngự giữa anh em là Đức Giê-hô-va và cứ than khóc trước mặt ngài rằng: “Sao chúng ta lại ra khỏi Ai Cập?”’”.+
21 Sau đó, Môi-se thưa: “Con đang ở giữa một dân có 600.000 chiến binh,+ vậy mà ngài lại bảo rằng: ‘Ta sẽ ban thịt cho họ, rồi họ sẽ ăn đủ cho cả tháng’! 22 Nếu giết tất cả bầy đàn thì có đủ cho họ không? Hoặc nếu bắt hết cá trong biển thì có đủ cho họ không?”.
23 Đức Giê-hô-va đáp lời Môi-se: “Tay của Đức Giê-hô-va quá ngắn hay sao?+ Bây giờ con sẽ thấy điều ta phán có xảy ra hay không”.
24 Vậy, Môi-se ra ngoài và thuật lại lời của Đức Giê-hô-va cho dân chúng. Rồi ông tập hợp 70 người từ các trưởng lão của dân chúng và để họ đứng quanh lều hội họp.+ 25 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong một đám mây,+ ngài phán với Môi-se+ và lấy một phần thần khí+ trên ông rồi ban cho mỗi người trong 70 trưởng lão. Ngay khi thần khí đến trên họ, họ bắt đầu hành xử như nhà tiên tri,*+ nhưng chỉ trong lúc ấy.
26 Có hai người nam thuộc số đó vẫn còn ở trong trại. Tên của họ là Ên-đát và Mê-đát. Thần khí bắt đầu đến trên họ, vì họ nằm trong số những người có tên trong danh sách nhưng lại không đến lều hội họp. Vậy, họ hành xử như nhà tiên tri trong trại của dân chúng. 27 Một chàng trai chạy đến báo với Môi-se: “Ên-đát và Mê-đát đang hành xử như nhà tiên tri trong trại!”. 28 Con trai của Nun là Giô-suê,+ người đã phục vụ Môi-se từ lúc còn trẻ, liền nói: “Ôi Môi-se chúa tôi, xin cản họ lại!”.+ 29 Tuy nhiên, Môi-se đáp: “Anh ghen tị cho tôi sao? Trái lại, tôi mong rằng mọi người trong dân tộc của Đức Giê-hô-va đều làm tiên tri, vì Đức Giê-hô-va ban thần khí trên họ!”. 30 Rồi Môi-se trở về trại cùng các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên.
31 Một ngọn gió từ Đức Giê-hô-va nổi lên, lùa chim cút từ biển và khiến chúng rơi xuống quanh trại của dân chúng,+ trải dài khoảng một ngày đường phía bên này và một ngày đường phía bên kia, bao quanh trại và phủ dày trên mặt đất khoảng hai cu-bít.* 32 Suốt ngày lẫn đêm hôm đó và cả ngày kế tiếp, dân chúng thức trắng để lượm chim cút. Không ai lượm ít hơn mười hô-me* và họ cứ trải chúng ra khắp trại. 33 Nhưng khi thịt vẫn còn nơi răng họ, chưa kịp nhai, thì cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi phừng lên nghịch cùng họ, và Đức Giê-hô-va giết rất nhiều người trong dân chúng.+
34 Vậy, nơi đó được đặt tên là Kíp-rốt-ha-tha-va,*+ vì tại đó họ đã chôn những người tỏ lòng tham.+ 35 Từ Kíp-rốt-ha-tha-va, dân Y-sơ-ra-ên đi đến Hát-xê-rốt và ở tại đó.+
12 Bấy giờ, Mi-ri-am và A-rôn bắt đầu nói nghịch lại Môi-se vì ông đã lấy một người Cút-sơ làm vợ.+ 2 Họ nói: “Đức Giê-hô-va chỉ phán qua Môi-se thôi sao? Chẳng phải ngài cũng phán qua chúng ta đó sao?”.+ Và Đức Giê-hô-va nghe họ nói.+ 3 Môi-se là người khiêm hòa nhất trong tất cả những người sống trên đất.+
4 Đức Giê-hô-va bất ngờ phán cùng Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am rằng: “Cả ba hãy đi ra ngoài, đến lều hội họp”. Vậy, họ đi ra. 5 Đức Giê-hô-va ngự xuống trong trụ mây+ và đứng trước lối ra vào lều hội họp, ngài gọi A-rôn và Mi-ri-am. Cả hai bước lên phía trước. 6 Rồi ngài nói: “Hai con hãy nghe* lời ta phán. Nếu có một nhà tiên tri của Đức Giê-hô-va ở giữa các con thì ta sẽ cho người biết về ta trong khải tượng+ và nói chuyện với người trong giấc chiêm bao.+ 7 Nhưng đối với tôi tớ của ta là Môi-se thì không như vậy! Ta giao phó cho người cả nhà của ta.*+ 8 Ta nói chuyện với người mặt đối mặt,+ một cách rõ ràng chứ không bí ẩn; và người nhìn thấy hình dạng của Đức Giê-hô-va. Vậy sao các con dám nói nghịch lại tôi tớ của ta là Môi-se?”.
9 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi phừng lên cùng họ và ngài rời khỏi họ. 10 Đám mây lìa khỏi lều hội họp, và kìa, Mi-ri-am bị giáng bệnh phong cùi trắng như tuyết. A-rôn+ quay về phía Mi-ri-am và thấy bà đã bị giáng bệnh phong cùi.+ 11 A-rôn liền nói với Môi-se: “Ôi chúa tôi, tôi cầu xin ngài! Xin đừng để chúng tôi phải chịu phạt vì tội lỗi này! Những gì chúng tôi đã làm thật ngu dại. 12 Xin đừng để chị ấy giống như đứa bé chết trong bụng mẹ, đã bị hư hết phân nửa thịt khi sinh ra!”. 13 Môi-se kêu cầu Đức Giê-hô-va: “Đức Chúa Trời ôi, xin hãy chữa lành chị ấy! Con xin ngài!”.+
14 Đức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se: “Nếu bị cha mình nhổ vào mặt, chẳng phải Mi-ri-am sẽ bị nhục nhã trong bảy ngày sao? Hãy cách ly người bên ngoài trại bảy ngày,+ sau đó người có thể được nhận vào lại”. 15 Vậy, Mi-ri-am bị cách ly bên ngoài trại trong bảy ngày,+ và dân chúng không nhổ trại cho đến khi Mi-ri-am được nhận vào lại. 16 Sau đó, dân chúng rời Hát-xê-rốt+ và bắt đầu hạ trại trong hoang mạc Pha-ran.+
13 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 “Hãy phái người đi do thám xứ Ca-na-an, là xứ mà ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Từ mỗi chi phái của tổ tiên, con hãy sai một trong những thủ lĩnh+ của chi phái đó”.+
3 Vậy, Môi-se phái họ đi từ hoang mạc Pha-ran+ theo lệnh của Đức Giê-hô-va. Tất cả họ đều là những người đứng đầu của dân Y-sơ-ra-ên. 4 Đây là tên của những người đó: Sa-mua con trai Xa-cu-rơ, thuộc chi phái Ru-bên; 5 Sa-phát con trai Hô-ri, thuộc chi phái Si-mê-ôn; 6 Ca-lép+ con trai Giê-phu-nê, thuộc chi phái Giu-đa; 7 Di-ganh con trai Giô-sép, thuộc chi phái Y-sa-ca; 8 Hô-sê+ con trai Nun, thuộc chi phái Ép-ra-im; 9 Phan-thi con trai Ra-phu, thuộc chi phái Bên-gia-min; 10 Gát-đi-ên con trai Sô-đi, thuộc chi phái Xê-bu-lôn; 11 Gát-đi con trai Su-si, về chi phái Ma-na-se,+ thuộc chi phái Giô-sép;+ 12 A-mi-ên con trai Ghê-ma-li, thuộc chi phái Đan; 13 Sê-thu con trai Mi-ca-ên, thuộc chi phái A-se; 14 Nách-bi con trai Vấp-si, thuộc chi phái Nép-ta-li; 15 Gu-ên con trai Ma-ki, thuộc chi phái Gát. 16 Đó là tên của những người mà Môi-se phái đi do thám xứ. Môi-se đặt tên cho Hô-sê con trai Nun là Giô-suê.*+
17 Khi phái những người đó đi do thám xứ Ca-na-an, Môi-se nói với họ: “Hãy đến vùng Nê-ghép, rồi đi lên vùng núi.+ 18 Các anh phải xem vùng đất đó thế nào,+ dân sống ở đó mạnh hay yếu, ít hay nhiều; 19 đất ở đó tốt hay xấu, các thành họ sinh sống là thành không có tường hay kiên cố. 20 Hãy xem đất ở đó màu mỡ hay khô cằn,+ có cây cối hay không. Các anh phải can đảm+ và mang về một số hoa quả của xứ”. Bấy giờ là thời điểm nho chín đầu mùa.+
21 Vậy, họ đi do thám xứ, từ hoang mạc Xin+ đến Rê-hốp,+ gần Lê-bô-ha-mát.*+ 22 Khi lên đến vùng Nê-ghép, họ đến Hếp-rôn,+ là nơi sinh sống của A-hi-man, Sê-sai và Tan-mai,+ tức con cháu A-nác.+ Thành Hếp-rôn được xây dựng trước thành Xô-an của Ai Cập bảy năm. 23 Khi đến thung lũng Ếch-côn,+ họ cắt một nhành cây có một chùm nho cần đến hai người dùng đòn để khiêng, họ cũng lấy vài trái lựu và trái vả.+ 24 Họ gọi nơi đó là thung lũng Ếch-côn,*+ vì cớ chùm nho mà dân Y-sơ-ra-ên đã cắt tại đó.
25 Cuối cùng, họ trở về sau 40 ngày+ do thám xứ. 26 Họ trở về với Môi-se, A-rôn cùng toàn thể dân Y-sơ-ra-ên ở hoang mạc Pha-ran, tại Ca-đe.+ Họ mang báo cáo về cho cả cộng đồng và cho xem hoa quả của xứ. 27 Đây là điều mà họ báo cáo với Môi-se: “Chúng tôi đã vào xứ mà ông phái chúng tôi đến, nó đúng là vùng đất tràn đầy sữa và mật,+ còn đây là hoa quả của xứ.+ 28 Tuy nhiên, dân sống tại đó rất mạnh và thành trì của họ thật vĩ đại. Chúng tôi cũng thấy người A-nác ở đó.+ 29 Dân A-ma-léc+ sống ở vùng Nê-ghép,+ dân Hếch, dân Giê-bu+ và dân A-mô-rít+ sống ở vùng núi, còn dân Ca-na-an+ thì sống gần biển+ và dọc theo sông Giô-đanh”.
30 Ca-lép cố gắng trấn an dân chúng đang đứng trước mặt Môi-se rằng: “Hãy đi lên ngay, chúng ta hẳn sẽ chiếm được nó vì chúng ta chắc chắn có thể chinh phục nó”.+ 31 Nhưng những người đã đi cùng Ca-lép nói: “Chúng ta không đi lên chống lại dân ấy được, vì họ mạnh hơn chúng ta”.+ 32 Những người đó cứ báo cáo tiêu cực+ về xứ họ đã do thám rằng: “Xứ mà chúng tôi đã đi qua để do thám là một vùng đất nuốt chửng cư dân ở đó, và tất cả những người mà chúng tôi thấy đều to lớn khác thường.+ 33 Tại đó, chúng tôi thấy những người khổng lồ,* con cháu của A-nác,+ dòng dõi Nê-phi-lim; khi so với họ, chúng tôi như những con cào cào, và họ cũng thấy như vậy”.
14 Toàn thể dân chúng cất tiếng lên và họ tiếp tục than khóc suốt đêm.+ 2 Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu cằn nhằn Môi-se và A-rôn,+ cả cộng đồng đều nói nghịch lại họ rằng: “Thà chúng ta bỏ mạng tại Ai Cập hoặc chết trong hoang mạc cho rồi! 3 Sao Đức Giê-hô-va lại đưa chúng ta đến xứ này để chết bởi gươm?+ Vợ con chúng ta sẽ trở thành chiến lợi phẩm.+ Trở lại Ai Cập chẳng phải là tốt hơn sao?”.+ 4 Họ còn nói với nhau: “Chúng ta hãy chọn ra một nhà lãnh đạo và trở về Ai Cập!”.+
5 Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống đất trước toàn thể dân Y-sơ-ra-ên. 6 Hai trong số những người đã đi do thám xứ là Giô-suê+ con trai Nun và Ca-lép+ con trai Giê-phu-nê thì xé áo mình. 7 Họ nói với toàn thể dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Xứ mà chúng tôi đã đi qua để do thám là một xứ vô cùng tốt đẹp.+ 8 Nếu Đức Giê-hô-va hài lòng về chúng ta, ngài chắc chắn sẽ đưa chúng ta vào xứ ấy và ban nó cho chúng ta, đó là một vùng đất tràn đầy sữa và mật.+ 9 Nhưng anh em không được phản nghịch Đức Giê-hô-va và đừng sợ dân ở đó,+ vì chúng ta sẽ nuốt chửng chúng.* Sự che chở đã lìa khỏi chúng và Đức Giê-hô-va đang ở cùng chúng ta.+ Đừng sợ chúng”.
10 Tuy nhiên, hết thảy dân chúng bàn với nhau để ném đá họ.+ Nhưng sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra trên lều hội họp, trước mặt toàn thể dân Y-sơ-ra-ên.+
11 Rồi Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Dân này còn bất kính với ta cho đến chừng nào?+ Chúng còn không đặt đức tin nơi ta, bất kể mọi dấu lạ mà ta đã làm giữa chúng, cho đến chừng nào?+ 12 Hãy để ta giáng dịch bệnh trên chúng và tiêu diệt chúng, rồi ta sẽ khiến con trở thành một dân tộc lớn và hùng mạnh hơn chúng”.+
13 Nhưng Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va: “Rồi người Ai Cập, là dân mà ngài đã dùng quyền năng để đưa dân này ra khỏi, sẽ nghe về điều đó+ 14 và sẽ kể cho cư dân xứ này. Cư dân xứ này cũng đã nghe rằng ngài, là Đức Giê-hô-va, đang ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên+ và hiện ra với họ mặt đối mặt.+ Ngài là Đức Giê-hô-va, đám mây của ngài đang ở trên họ; ngài đi trước họ trong trụ mây vào ban ngày và trong trụ lửa vào ban đêm.+ 15 Nếu ngài diệt hết dân này cùng một lúc thì các dân tộc đã nghe về danh tiếng ngài sẽ nói rằng: 16 ‘Đức Giê-hô-va không đủ khả năng đưa dân này vào xứ đã thề ban cho họ nên đã giết họ trong hoang mạc’.+ 17 Ôi Đức Giê-hô-va, nguyện quyền năng ngài nên mạnh mẽ như ngài đã hứa khi nói rằng: 18 ‘Đức Giê-hô-va chậm nóng giận, giàu tình yêu thương thành tín,+ thứ tha lỗi lầm và sự phạm pháp, nhưng chẳng bao giờ ngài để kẻ phạm tội thoát khỏi hình phạt, và vì lỗi lầm cha ông, ngài trừng phạt con cháu đến ba, bốn đời’.+ 19 Xin tha thứ lỗi lầm của dân này theo lòng yêu thương thành tín bao la của ngài, như ngài đã tha thứ cho họ từ lúc còn ở Ai Cập tới nay”.+
20 Đức Giê-hô-va phán: “Ta tha thứ cho chúng theo lời con nói.+ 21 Nhưng thật như ta hằng sống, khắp đất sẽ tràn đầy sự vinh quang của Đức Giê-hô-va.+ 22 Tuy nhiên, tất cả những ai đã thấy sự vinh quang cùng các dấu lạ+ ta làm tại Ai Cập và trong hoang mạc mà vẫn mười lần thử ta+ và không nghe theo lời phán ta+ 23 thì sẽ không bao giờ thấy xứ mà ta đã thề với cha ông chúng. Thật thế, không một ai bất kính với ta mà được thấy xứ ấy.+ 24 Nhưng vì tôi tớ ta là Ca-lép+ có tinh thần khác và luôn hết lòng theo ta nên chắc chắn ta sẽ đưa người vào xứ mà người đã đến, và con cháu người sẽ nhận được xứ để làm sản nghiệp.+ 25 Vì dân A-ma-léc và dân Ca-na-an+ đang sống trong thung lũng nên ngày mai các ngươi hãy quay ngược lại và đi đến hoang mạc theo đường Biển Đỏ”.+
26 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn: 27 “Dân gian ác này cứ cằn nhằn ta cho đến bao giờ?+ Ta đã nghe điều dân Y-sơ-ra-ên đang cằn nhằn ta.+ 28 Hãy nói với chúng rằng: ‘Đức Giê-hô-va tuyên bố: “Thật như ta hằng sống, ta sẽ làm với các ngươi y như những điều ta đã nghe các ngươi nói!+ 29 Thây các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này,+ tất cả những người từ 20 tuổi trở lên đã được đăng ký, tức hết thảy những kẻ đã cằn nhằn ta.+ 30 Không ai trong các ngươi sẽ được vào xứ mà ta thề sẽ cho các ngươi ngụ tại đó,+ ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê và Giô-suê con trai Nun.+
31 Ta sẽ đưa con cái của các ngươi vào xứ, là những người mà các ngươi nói rằng sẽ trở thành chiến lợi phẩm,+ rồi chúng sẽ biết đến vùng đất mà các ngươi đã từ bỏ.+ 32 Nhưng thây của các ngươi sẽ ngã xuống trong hoang mạc này. 33 Con cái của các ngươi sẽ chăn bầy trong hoang mạc 40 năm,+ chúng phải trả giá cho sự bất trung* của các ngươi, cho đến khi nào cái thây cuối cùng trong các ngươi ngã xuống trong hoang mạc.+ 34 Theo số ngày mà các ngươi đi do thám xứ là 40 ngày,+ một ngày bù cho một năm, các ngươi sẽ trả giá cho lỗi lầm mình trong 40 năm,+ một ngày bù cho một năm, để các ngươi biết rằng chống lại ta thì sẽ ra sao.
35 Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán. Đây là điều ta sẽ làm với dân gian ác này, là những kẻ đã tập hợp lại để chống ta: Tại hoang mạc này, đời của chúng sẽ chấm dứt, và chúng sẽ chết tại đây.+ 36 Còn những kẻ mà Môi-se đã phái đi do thám xứ và khiến hết thảy dân chúng cằn nhằn Môi-se khi trở lại với báo cáo tiêu cực về xứ đó,+ 37 thật vậy, những kẻ đã mang về báo cáo tiêu cực sẽ bị giết chết trước mặt Đức Giê-hô-va.+ 38 Nhưng hai trong số những người đã đi do thám xứ là Giô-suê con trai Nun và Ca-lép con trai Giê-phu-nê thì sẽ tiếp tục sống”’”.+
39 Khi Môi-se nói những lời đó cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên thì dân chúng bắt đầu than khóc rất nhiều. 40 Sáng hôm sau, họ dậy sớm và cố gắng lên đỉnh núi mà nói rằng: “Chúng ta đã phạm tội. Nhưng bây giờ chúng ta sẵn sàng đi đến nơi mà Đức Giê-hô-va đã phán”.+ 41 Tuy nhiên, Môi-se nói: “Sao anh em lại cãi lệnh Đức Giê-hô-va? Việc này sẽ chẳng thành công đâu. 42 Đừng đi lên, vì Đức Giê-hô-va không ở cùng anh em; và anh em sẽ bị kẻ thù đánh bại.+ 43 Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an đang ở đó để đối đầu với anh em,+ và anh em sẽ ngã xuống bởi gươm. Vì anh em đã quay lưng với Đức Giê-hô-va nên Đức Giê-hô-va sẽ không ở với anh em”.+
44 Dù vậy, họ tự phụ* mà đi lên đỉnh núi,+ trong khi Môi-se và hòm của giao ước Đức Giê-hô-va vẫn ở giữa trại, không di chuyển.+ 45 Dân A-ma-léc và dân Ca-na-an sinh sống trên núi tràn xuống đánh họ, làm họ chạy tán loạn đến tận Họt-ma.+
15 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: 2 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Khi các ngươi vào xứ mà ta sẽ ban cho các ngươi làm nơi sinh sống,+ 3 và các ngươi dâng một lễ vật hỏa tế từ bầy đàn cho Đức Giê-hô-va—dù đó là lễ vật thiêu,+ vật tế lễ để thực hiện một lời hứa nguyện đặc biệt, lễ vật tự nguyện+ hay lễ vật cho các kỳ lễ được ấn định,+ để làm một hương thơm dễ chịu dâng cho Đức Giê-hô-va+— 4 thì người dâng lễ vật cũng phải dâng cho Đức Giê-hô-va một lễ vật ngũ cốc làm từ một phần mười ê-pha* bột mịn+ trộn với một phần tư hin* dầu. 5 Ngươi cũng phải dâng một phần tư hin rượu nho làm rượu tế lễ khi dâng lễ vật thiêu+ hoặc dâng vật tế lễ là một con cừu đực con. 6 Hoặc nếu dâng một con cừu đực thì phải dâng nó chung với lễ vật ngũ cốc làm từ hai phần mười ê-pha bột mịn trộn với một phần ba hin dầu. 7 Ngươi cũng phải dâng một phần ba hin rượu nho làm rượu tế lễ, như một hương thơm dễ chịu dâng cho Đức Giê-hô-va.
8 Nhưng nếu ngươi dâng một con bò đực làm lễ vật thiêu+ hoặc làm vật tế lễ để thực hiện một lời hứa nguyện đặc biệt+ hoặc làm vật tế lễ hòa thuận cho Đức Giê-hô-va+ 9 thì phải dâng nó chung với lễ vật ngũ cốc+ làm từ ba phần mười ê-pha bột mịn trộn với nửa hin dầu. 10 Cũng phải dâng nửa hin rượu nho làm rượu tế lễ,+ như một lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu dâng cho Đức Giê-hô-va. 11 Đó là điều phải làm đối với mỗi con bò đực, cừu đực, cừu đực con hoặc dê. 12 Dù dâng bao nhiêu con đi nữa, đó là điều các ngươi phải làm cho mỗi con, tùy theo số lượng. 13 Ấy là cách mà mỗi người Y-sơ-ra-ên bản xứ phải dâng lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu cho Đức Giê-hô-va.
14 Nếu một ngoại kiều sống với các ngươi hoặc đã sống giữa các ngươi qua nhiều thế hệ cũng dâng một lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu cho Đức Giê-hô-va thì người đó phải làm giống như các ngươi.+ 15 Những người thuộc hội chúng cũng như ngoại kiều sống giữa các ngươi sẽ có cùng một luật lệ. Đó là một luật lệ vững bền cho mọi thế hệ của các ngươi. Trước mặt Đức Giê-hô-va, ngoại kiều và các ngươi đều giống như nhau.+ 16 Chỉ có một luật và một phán quyết dành cho các ngươi và ngoại kiều sống giữa các ngươi’”.
17 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se rằng: 18 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: ‘Khi các ngươi vào xứ mà ta đang đưa các ngươi đến 19 và ăn bánh của xứ+ thì phải dâng một phần đóng góp cho Đức Giê-hô-va. 20 Các ngươi phải dâng phần đóng góp là những cái bánh vòng làm từ mẻ bột thô đầu tiên của mình.+ Các ngươi phải dâng phần đóng góp đó giống như cách dâng phần đóng góp của sân đạp lúa. 21 Trải qua các thế hệ, các ngươi phải dâng cho Đức Giê-hô-va phần đóng góp làm từ mẻ bột thô đầu tiên của mình.
22 Nếu các ngươi phạm lỗi và không vâng theo mọi điều răn mà Đức Giê-hô-va đã phán qua Môi-se, 23 tức là mọi điều mà Đức Giê-hô-va đã truyền dặn các ngươi thông qua Môi-se, kể từ ngày Đức Giê-hô-va truyền dặn cho đến các thế hệ sau này của các ngươi, 24 và nếu dân chúng vô tình phạm lỗi mà không biết thì hết thảy dân chúng phải dâng một con bò đực tơ để làm lễ vật thiêu có hương thơm dễ chịu cho Đức Giê-hô-va, cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó theo thông lệ,+ và một con dê con làm lễ vật chuộc tội.+ 25 Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và họ sẽ được tha,+ bởi đó là một lỗi lầm và họ đã mang đến lễ vật hỏa tế dâng cho Đức Giê-hô-va và lễ vật chuộc tội trước mặt Đức Giê-hô-va, vì lỗi lầm mình đã phạm. 26 Toàn thể dân Y-sơ-ra-ên lẫn ngoại kiều sống giữa họ đều sẽ được tha tội, vì hết thảy dân chúng đã vô tình phạm lỗi.
27 Nếu bất cứ người nào vô tình phạm tội thì phải dâng một con dê cái dưới một năm tuổi làm lễ vật chuộc tội.+ 28 Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người đã vô tình phạm tội trước mặt Đức Giê-hô-va, như thế tội sẽ được chuộc và người sẽ được tha.+ 29 Đối với người Y-sơ-ra-ên bản xứ và ngoại kiều sống giữa họ thì chỉ có một luật cho các ngươi liên quan đến những tội vô tình phạm.+
30 Nhưng nếu một người, dù là bản xứ hay ngoại kiều, cố ý phạm tội+ thì hắn đang xúc phạm Đức Giê-hô-va và phải bị diệt trừ khỏi dân chúng. 31 Vì đã khinh thường lời Đức Giê-hô-va và vi phạm điều răn của ngài, hắn chắc chắn phải bị diệt trừ.+ Lỗi lầm hắn sẽ đổ trên hắn’”.+
32 Khi dân Y-sơ-ra-ên ở hoang mạc thì phát hiện một người đàn ông đang nhặt củi vào ngày Sa-bát.+ 33 Những người phát hiện đưa ông ta đến trước mặt Môi-se, A-rôn và hết thảy dân chúng. 34 Họ giam ông ta lại+ vì không biết phải làm gì trong trường hợp này.
35 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hắn phải bị xử tử+ và hết thảy dân chúng phải ném đá hắn bên ngoài trại”.+ 36 Vậy, hết thảy dân chúng đem ông ta ra ngoài trại và ném đá, rồi ông ta chết, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
37 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy: 38 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng trải qua các thế hệ, họ phải làm một đường viền có tua trên mép dưới của áo, và phải đặt trên đường viền đó một sợi dây màu xanh dương.+ 39 ‘Các ngươi phải làm đường viền có tua để khi thấy nó, các ngươi sẽ nhớ lại mọi điều răn của Đức Giê-hô-va và làm theo.+ Đừng theo lòng và mắt của mình, vì chúng sẽ khiến các ngươi bất trung với ta.*+ 40 Mệnh lệnh này sẽ giúp các ngươi ghi nhớ, các ngươi sẽ làm theo mọi điều răn của ta và được nên thánh trước mặt Đức Chúa Trời.+ 41 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là đấng đã đưa các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập để chứng tỏ ta là Đức Chúa Trời của các ngươi.+ Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi’”.+
16 Sau đó, Cô-rê,+ con trai Dít-xê-ha,+ cháu Kê-hát,+ chắt Lê-vi,+ nhóm lại cùng Đa-than và A-bi-ram, tức các con trai của Ê-li-áp,+ và Ôn con trai Bê-lết thuộc dòng dõi Ru-bên.+ 2 Chúng cùng 250 người Y-sơ-ra-ên, tức những thủ lĩnh của dân chúng, là những người được chọn trong dân chúng và có thế lực, nổi lên chống lại Môi-se. 3 Chúng tập hợp nhau để chống lại+ Môi-se và A-rôn, chúng nói với hai người rằng: “Chúng tôi chịu đựng các ông đủ rồi! Hết thảy dân chúng là thánh,+ tất cả họ đều là thánh, và Đức Giê-hô-va ở giữa họ.+ Vậy sao các ông tôn mình lên trên dân của Đức Giê-hô-va?”.
4 Khi nghe điều đó, Môi-se liền sấp mặt xuống đất. 5 Rồi ông nói với Cô-rê và những kẻ ủng hộ hắn rằng: “Vào buổi sáng, Đức Giê-hô-va sẽ cho biết ai thuộc về ngài,+ ai là thánh và ai sẽ đến gần ngài;+ ngài chọn+ ai thì người đó sẽ đến gần ngài. 6 Hãy làm như sau: Ông và những kẻ ủng hộ ông+ hãy lấy đồ đựng hương,+ 7 đặt lửa vào và để hương lên trên trước mặt Đức Giê-hô-va vào ngày mai, người nào Đức Giê-hô-va chọn+ thì người đó là thánh. Hỡi con cháu Lê-vi,+ các ông đã đi quá xa rồi!”.
8 Sau đó, Môi-se nói với Cô-rê: “Hỡi con cháu Lê-vi, xin hãy nghe tôi. 9 Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ông khỏi dân Y-sơ-ra-ên,+ cho phép các ông đến gần ngài để làm công việc phục vụ trong lều thánh của Đức Giê-hô-va và đứng trước mặt dân chúng nhằm phục vụ họ, đó là việc tầm thường đối với các ông sao?+ 10 Ngài còn đưa ông và các anh em thuộc dòng Lê-vi của ông đến gần ngài, đó cũng là việc tầm thường sao? Các ông còn muốn đòi chức tế lễ nữa ư?+ 11 Bởi thế, ông và những kẻ ủng hộ ông đang nhóm lại, tất cả đều chống nghịch Đức Giê-hô-va. Còn A-rôn là ai mà các ông cằn nhằn người?”.+
12 Sau đó, Môi-se cho gọi hai con trai của Ê-li-áp là Đa-than và A-bi-ram+ đến, nhưng chúng nói: “Chúng tôi không đến! 13 Chuyện ông đưa chúng tôi ra khỏi một vùng đất tràn đầy sữa và mật để bỏ mạng trong hoang mạc này là nhỏ nhặt ư?+ Giờ ông còn muốn làm vua làm chúa trên chúng tôi nữa sao? 14 Đúng như vậy, ông không hề đưa chúng tôi vào vùng đất tràn đầy sữa và mật+ hay cho chúng tôi đồng ruộng và vườn nho làm phần thừa kế. Ông muốn móc mắt những người đó sao? Chúng tôi không đến!”.
15 Môi-se rất tức giận và thưa với Đức Giê-hô-va rằng: “Xin ngài đừng ngó đến lễ vật ngũ cốc của chúng. Con chẳng hề lấy một con lừa nào của chúng, cũng chưa hề hại một ai trong bọn chúng”.+
16 Kế đến, Môi-se nói với Cô-rê: “Ngày mai, ông và tất cả những kẻ ủng hộ ông hãy trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va, các ông và A-rôn hãy trình diện trước mặt ngài. 17 Mỗi một người sẽ lấy đồ đựng hương của mình và đặt hương vào đó, rồi dâng trước mặt Đức Giê-hô-va, tức là 250 đồ đựng hương. Ông và A-rôn sẽ dâng chung với chúng, mỗi người hãy cầm đồ đựng hương của mình”. 18 Vậy, mỗi người trong chúng lấy đồ đựng hương của mình, đặt lửa và hương vào đó, rồi đứng tại lối ra vào lều hội họp cùng Môi-se và A-rôn. 19 Sau khi Cô-rê nhóm những kẻ ủng hộ mình+ tại lối ra vào lều hội họp để chống lại hai người ấy thì sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng hết thảy dân chúng.+
20 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn: 21 “Hãy tách khỏi đám người này để ta có thể tận diệt chúng trong giây lát”.+ 22 Hai người sấp mặt xuống đất và nói rằng: “Ôi Đức Chúa Trời, là Chúa ban sự sống cho mọi loài xác thịt,+ ngài sẽ vì tội lỗi của một người mà nổi cơn thịnh nộ cùng toàn thể dân chúng sao?”.+
23 Đức Giê-hô-va đáp lời Môi-se: 24 “Hãy nói với dân chúng rằng: ‘Hãy tránh xa khu lều của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram!’”.+
25 Sau đó, Môi-se đi đến chỗ của Đa-than và A-bi-ram, các trưởng lão+ Y-sơ-ra-ên cùng đi với ông. 26 Ông nói với dân chúng: “Xin hãy tránh xa lều của những kẻ gian ác này và đừng đụng đến bất cứ thứ gì thuộc về chúng, để anh em không bị hủy diệt vì tội lỗi của chúng”. 27 Ngay lập tức, họ tránh xa lều của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram bước ra, cứ đứng trước lối ra vào lều cùng với vợ, các con trai và con nhỏ.
28 Môi-se nói: “Bằng cách này, anh em sẽ biết rằng Đức Giê-hô-va đã sai tôi làm mọi điều ấy, chứ không phải tôi tự ý làm: 29 Nếu những kẻ này chết theo cách tự nhiên như mọi người khác và nếu hình phạt dành cho chúng giống như hình phạt của cả loài người thì Đức Giê-hô-va đã không sai tôi.+ 30 Nhưng nếu Đức Giê-hô-va làm một điều lạ thường với chúng, đất nứt ra nuốt chửng chúng cùng mọi vật thuộc về chúng và chúng xuống mồ mả* đang khi còn sống thì anh em sẽ biết chắc rằng những kẻ này đã bất kính với Đức Giê-hô-va”.
31 Ngay khi ông vừa nói xong thì đất dưới chân chúng nứt ra.+ 32 Đất nứt ra và nuốt chửng chúng, cả nhà chúng, tất cả những kẻ thuộc về Cô-rê+ cùng đồ đạc của chúng. 33 Chúng và mọi kẻ thuộc về chúng đều xuống mồ mả* đang khi còn sống, rồi đất lấp chúng lại. Vậy, chúng bị diệt khỏi hội chúng.+ 34 Hết thảy dân Y-sơ-ra-ên ở xung quanh chúng đều la hét bỏ chạy, mà rằng: “Coi chừng đất nuốt luôn chúng ta!”. 35 Sau đó, một ngọn lửa từ Đức Giê-hô-va+ thiêu đốt 250 kẻ dâng hương.+
36 Bấy giờ, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 37 “Hãy bảo Ê-lê-a-xa, con trai thầy tế lễ A-rôn, lấy những đồ đựng hương+ ra khỏi đám cháy, vì chúng là thánh. Cũng hãy bảo người rải tro ở một nơi xa. 38 Còn đồ đựng hương của những kẻ đã phạm tội để rồi mất mạng thì phải được dát thành những tấm kim loại mỏng để bọc bàn thờ,+ vì chúng đã được dâng trước mặt Đức Giê-hô-va, và chúng trở thành những vật thánh. Chúng sẽ là một dấu hiệu cho dân Y-sơ-ra-ên”.+ 39 Vậy, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa lấy những đồ đựng hương bằng đồng của những kẻ đã bị thiêu rụi khi dâng chúng, rồi đập mỏng để bọc bàn thờ, 40 đúng như những gì Đức Giê-hô-va phán với ông thông qua Môi-se. Đó là một sự nhắc nhở dành cho dân Y-sơ-ra-ên rằng những người không có phận sự,* không thuộc dòng dõi của A-rôn thì không được đến gần để đốt hương trước mặt Đức Giê-hô-va,+ và không ai được trở nên như Cô-rê và những kẻ theo phe hắn.+
41 Ngay ngày hôm sau, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên cằn nhằn Môi-se và A-rôn+ rằng: “Hai ông đã hại chết dân của Đức Giê-hô-va”. 42 Khi dân chúng tập hợp lại để chống nghịch Môi-se và A-rôn, họ quay về phía lều hội họp; và kìa, đám mây bao phủ lều rồi sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra.+
43 Môi-se và A-rôn đi đến trước lều hội họp,+ 44 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 45 “Hai con hãy ra khỏi dân này để ta có thể tận diệt chúng trong giây lát”.+ Nghe vậy, họ sấp mặt xuống đất.+ 46 Rồi Môi-se nói với A-rôn: “Hãy lấy đồ đựng hương, bỏ lửa từ bàn thờ+ vào đó, đặt hương lên trên, rồi mau mau đi đến chỗ của dân chúng và chuộc tội cho họ,+ vì cơn phẫn nộ của Đức Giê-hô-va đã nổi lên. Tai vạ đã bắt đầu rồi!”. 47 A-rôn liền lấy đồ đựng hương như Môi-se nói và chạy vào giữa dân chúng; kìa, tai họa đã bắt đầu trong vòng dân chúng. Ông đặt hương vào đồ đựng và chuộc tội cho dân chúng. 48 A-rôn tiếp tục đứng giữa người chết và người sống, tai họa dần dần ngừng lại. 49 Có 14.700 người chết vì tai họa này, chưa kể số người chết vì Cô-rê. 50 Khi A-rôn trở về với Môi-se tại lối ra vào lều hội họp, tai họa đã ngừng lại.
17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 2 “Con hãy nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên và lấy từ mỗi dòng tộc một cây gậy, tức là lấy từ mỗi thủ lĩnh của mỗi dòng tộc,+ tổng cộng là 12 cây gậy. Hãy viết tên của mỗi thủ lĩnh trên mỗi gậy. 3 Con hãy viết tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi, vì sẽ có một gậy cho mỗi người đứng đầu của mỗi dòng tộc. 4 Hãy đặt các cây gậy vào lều hội họp trước Hòm Chứng Tích,+ là nơi ta thường hiện đến cùng các con.+ 5 Cây gậy của người mà ta chọn+ sẽ kết nụ và ta sẽ làm im tiếng những lời cằn nhằn của dân Y-sơ-ra-ên nghịch lại ta,+ tức những lời mà chúng đã cằn nhằn các con”.+
6 Vậy, Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên, và tất cả những thủ lĩnh của họ đều đưa gậy cho ông, mỗi thủ lĩnh của dòng tộc đưa một cây gậy, tức là 12 gậy, và cây gậy của A-rôn cũng ở đó. 7 Sau đó, Môi-se đặt các cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va trong lều chứa Chứng Tích.
8 Vào ngày hôm sau, khi Môi-se đi vào lều chứa Chứng Tích, kìa, cây gậy của A-rôn thuộc nhà Lê-vi đã đâm chồi, đang kết nụ, trổ hoa và sinh những quả hạnh đào chín. 9 Rồi Môi-se đem tất cả những cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va đến với toàn thể dân Y-sơ-ra-ên. Họ nhìn chúng và mỗi thủ lĩnh lấy gậy của mình.
10 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: “Con hãy đặt gậy của A-rôn+ trở lại trước Hòm Chứng Tích để làm một dấu hiệu+ cho các con cháu phản nghịch,+ hầu cho chúng không còn cằn nhằn ta và không phải chết”. 11 Môi-se liền làm đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình. Ông làm y như vậy.
12 Dân Y-sơ-ra-ên nói cùng Môi-se rằng: “Này, chúng tôi sẽ chết, chúng tôi chắc chắn sẽ bị diệt, tất cả chúng tôi đều sẽ chết hết! 13 Thậm chí đến gần lều thánh của Đức Giê-hô-va thì cũng chết!+ Chẳng lẽ chúng tôi phải kết thúc đời mình như vậy sao?”.+
18 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn rằng: “Con, các con trai và dòng tộc của con sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ lỗi lầm nào liên quan đến nơi thánh,+ và con cùng các con trai sẽ chịu trách nhiệm về bất cứ tội nào liên quan đến chức tế lễ của các con.+ 2 Cũng hãy dẫn đến các anh em của con thuộc chi phái Lê-vi, tức chi phái của tổ tiên, để họ có thể kết hợp với con, phục vụ con+ và các con trai con trước lều chứa Chứng Tích.+ 3 Họ phải hoàn thành các trách nhiệm đối với con và toàn bộ lều.+ Tuy nhiên, họ không được đến gần các vật dụng của nơi thánh và bàn thờ, để họ cũng như các con không chết.+ 4 Họ sẽ kết hợp với con và thi hành các trách nhiệm liên quan đến lều hội họp cùng tất cả các công việc của lều. Người nào không có phận sự* thì không được đến gần các con.+ 5 Các con phải thi hành nhiệm vụ của mình liên quan đến nơi thánh+ và bàn thờ,+ để không có cơn phẫn nộ nào+ nổi lên nghịch cùng dân Y-sơ-ra-ên nữa. 6 Chính ta đã lấy anh em của các con, tức người Lê-vi, từ giữa dân Y-sơ-ra-ên để làm một món quà cho các con.+ Họ được trao cho Đức Giê-hô-va để coi sóc các công việc của lều hội họp.+ 7 Con và các con trai phải chịu trách nhiệm về công việc tế lễ của mình liên quan đến bàn thờ cùng những gì bên trong bức màn,+ và các con phải hầu việc tại đó.+ Ta đã ban chức tế lễ như một món quà cho các con, người nào không có phận sự* mà đến gần thì phải bị xử tử”.+
8 Đức Giê-hô-va lại phán cùng A-rôn rằng: “Chính ta giao cho con trách nhiệm coi sóc các phần đóng góp được dâng cho ta.+ Ta đã ban cho con và các con trai một phần từ những vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên đóng góp như một sự cung cấp lâu bền.+ 9 Từ các lễ vật rất thánh được dâng bằng lửa, đây là những vật thuộc về con: mọi lễ vật mà dân Y-sơ-ra-ên dâng, gồm lễ vật ngũ cốc,+ lễ vật chuộc tội+ và lễ vật chuộc lỗi lầm+ mà họ mang đến cho ta. Đó là vật rất thánh dành cho con và các con trai con. 10 Con phải ăn chúng tại một nơi rất thánh.+ Mọi người nam đều có thể ăn. Đó sẽ là điều thánh đối với con.+ 11 Những vật sau đây cũng thuộc về con: các lễ vật được dâng+ chung với mọi lễ vật đưa qua đưa lại+ của dân Y-sơ-ra-ên. Ta đã ban chúng cho con, các con trai và con gái của con như một sự cung cấp lâu bền.+ Trong nhà con, những ai tinh sạch thì có thể ăn chúng.+
12 Ta ban cho con mọi phần dầu tốt nhất, mọi phần rượu mới và ngũ cốc tốt nhất, là những sản vật đầu mùa+ mà dân chúng dâng cho Đức Giê-hô-va.+ 13 Mọi loại thổ sản chín đầu mùa từ mảnh đất của họ, tức những thứ mà họ sẽ mang đến cho Đức Giê-hô-va, đều thuộc về con.+ Trong nhà con, những ai tinh sạch thì có thể ăn chúng.
14 Trong xứ Y-sơ-ra-ên, mọi vật được dâng hiến* đều sẽ thuộc về con.+
15 Tất cả con đầu lòng của mọi vật sống+ được dâng cho Đức Giê-hô-va, dù là người hay thú vật, đều sẽ thuộc về con. Tuy nhiên, con phải chuộc lại con đầu lòng của loài người+ và con đầu lòng của các loài vật ô uế.+ 16 Hãy chuộc lại với giá đã được ấn định khi nó được một tháng tuổi trở lên, với giá trị ước tính là năm siếc-lơ* bạc+ theo siếc-lơ chuẩn của nơi thánh.* Ấy là 20 ghê-ra.* 17 Riêng bò đực đầu lòng, cừu đực đầu lòng hoặc dê đầu lòng thì không được chuộc lại.+ Chúng là những vật thánh. Con hãy rảy máu chúng trên bàn thờ+ và thiêu mỡ của chúng bốc khói như một lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu dâng cho Đức Giê-hô-va.+ 18 Thịt của chúng sẽ thuộc về con. Giống như cái ức của lễ vật đưa qua đưa lại và cái chân phải, thịt của chúng sẽ thuộc về con.+ 19 Ta đã ban mọi phần đóng góp thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va+ như một sự cung cấp lâu bền cho con, các con trai và con gái của con.+ Đó là giao ước muối* trước mặt Đức Giê-hô-va dành cho con và dòng dõi con”.
20 Đức Giê-hô-va lại phán cùng A-rôn: “Con sẽ không có phần thừa kế trong xứ Y-sơ-ra-ên và không phần đất nào trong xứ ấy sẽ thuộc về con.+ Ta là phần của con và là phần thừa kế của con giữa dân Y-sơ-ra-ên.+
21 Hãy xem, ta đã ban cho con cháu Lê-vi một phần mười của mọi thứ+ trong xứ Y-sơ-ra-ên để làm phần thừa kế vì công việc mà họ đang làm, tức là công việc phục vụ liên quan đến lều hội họp. 22 Dân Y-sơ-ra-ên sẽ không được đến gần lều hội họp nữa, nếu đến gần, họ sẽ mắc tội và chết. 23 Chính người Lê-vi sẽ làm các công việc của lều hội họp, họ là những người chịu trách nhiệm về lỗi lầm của dân chúng.+ Đây là một luật lệ vững bền trải qua các thế hệ của các con: Họ không được nhận một phần thừa kế nào giữa dân Y-sơ-ra-ên.+ 24 Ta đã ban phần thừa kế cho người Lê-vi là một phần mười mà dân Y-sơ-ra-ên đóng góp để dâng cho Đức Giê-hô-va. Bởi thế, ta phán cùng họ rằng: ‘Họ không được nhận một phần thừa kế nào giữa dân Y-sơ-ra-ên’”.+
25 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 26 “Con phải nói với người Lê-vi: ‘Các ngươi sẽ nhận từ dân Y-sơ-ra-ên một phần mười mà ta đã lấy từ họ để ban cho các ngươi làm phần thừa kế,+ và các ngươi phải dâng một phần mười của một phần mười để làm phần đóng góp cho Đức Giê-hô-va.+ 27 Phần đóng góp của các ngươi sẽ được xem như ngũ cốc từ sân đạp lúa+ hoặc sản lượng đầy tràn từ bồn ép rượu hay dầu. 28 Như thế, các ngươi cũng sẽ dâng phần đóng góp cho Đức Giê-hô-va từ tất cả một phần mười mà các ngươi nhận từ dân Y-sơ-ra-ên, và các ngươi sẽ đưa cho thầy tế lễ A-rôn phần đóng góp thuộc về Đức Giê-hô-va. 29 Các ngươi sẽ dâng mọi loại đóng góp cho Đức Giê-hô-va lấy từ những lễ vật tốt nhất được trao cho các ngươi,+ đó là một điều thánh’.
30 Con phải nói với họ: ‘Khi các ngươi dâng những vật tốt nhất từ các lễ vật ấy thì chúng sẽ được xem như sản vật từ sân đạp lúa, như sản lượng từ bồn ép rượu hay dầu của người Lê-vi. 31 Các ngươi cùng những người trong nhà mình có thể ăn chúng ở bất kỳ nơi nào, vì đó là thù lao dành cho công việc phục vụ của các ngươi tại lều hội họp.+ 32 Chừng nào các ngươi còn dâng những vật tốt nhất từ các lễ vật ấy thì các ngươi sẽ không mắc tội; các ngươi không được xúc phạm các vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên, bằng không, các ngươi sẽ chết’”.+
19 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 2 “Đây là luật pháp mà Đức Giê-hô-va đã truyền dặn: ‘Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên mang đến một con bò cái màu hung đỏ khỏe mạnh, không có khiếm khuyết+ và chưa mang ách. 3 Các con phải đưa nó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-xa, người sẽ dẫn nó ra ngoài trại và nó sẽ bị giết trước mặt người. 4 Kế đến, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa sẽ dùng ngón tay lấy một ít máu của nó và rảy bảy lần hướng về phía trước lều hội họp.+ 5 Con bò sẽ bị thiêu trước mặt người. Da, thịt, máu và phân của nó sẽ bị thiêu.+ 6 Thầy tế lễ sẽ lấy gỗ tuyết tùng, cây kinh giới+ và vải đỏ tươi rồi ném chúng vào lửa, là chỗ thiêu con bò. 7 Thầy tế lễ sẽ giặt quần áo mình và tắm trong nước, sau đó người có thể vào trại; nhưng người sẽ bị ô uế đến chiều tối.
8 Người nào thiêu con bò thì phải giặt quần áo mình, tắm trong nước và sẽ bị ô uế đến chiều tối.
9 Một người tinh sạch sẽ hốt tro của con bò+ và đặt vào một nơi tinh sạch bên ngoài trại; dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ tro đó lại để chuẩn bị nước tẩy uế.+ Đó là lễ vật chuộc tội. 10 Người hốt tro phải giặt quần áo mình và bị ô uế đến chiều tối.
Đây là một luật lệ vững bền dành cho dân Y-sơ-ra-ên và ngoại kiều sống giữa họ:+ 11 Ai chạm vào người chết sẽ bị ô uế trong bảy ngày.+ 12 Vào ngày thứ ba, người đó phải tẩy sạch mình bằng nước tẩy uế, rồi đến ngày thứ bảy người sẽ được tinh sạch. Nhưng nếu người không tẩy sạch mình vào ngày thứ ba thì đến ngày thứ bảy sẽ không được tinh sạch. 13 Ai chạm vào xác người chết mà không tẩy sạch mình là khiến lều thánh của Đức Giê-hô-va bị ô uế.+ Người đó phải bị diệt trừ khỏi dân Y-sơ-ra-ên.+ Vì nước tẩy uế+ không được rảy trên người nên người sẽ tiếp tục bị ô uế. Sự ô uế của người vẫn ở trên người.
14 Đây là luật pháp được áp dụng khi một người chết trong lều: Tất cả những ai vào trong lều và tất cả những ai đã ở trong lều đều sẽ bị ô uế trong bảy ngày. 15 Mọi đồ đựng không có nắp đậy* đều bị ô uế.+ 16 Khi ở ngoài đồng, ai chạm vào một người bị giết bởi gươm hoặc một xác chết hoặc xương người hoặc một cái mộ thì sẽ bị ô uế trong bảy ngày.+ 17 Người ta phải đem đến cho người bị ô uế một ít tro của lễ vật chuộc tội đã bị thiêu, để trong một đồ đựng rồi đổ nước tinh khiết vào. 18 Kế đến, một người tinh sạch+ sẽ lấy cây kinh giới+ nhúng vào trong nước tẩy uế và rảy trên lều, mọi đồ đựng và những người đã ở đó, cũng phải rảy trên người nào đã chạm vào xương người hoặc người bị giết hoặc xác chết hoặc mộ. 19 Người tinh sạch sẽ rảy nước tẩy uế trên người bị ô uế vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và tẩy sạch người đó khỏi tội lỗi vào ngày thứ bảy.+ Sau đó, người bị ô uế phải giặt quần áo mình, tắm trong nước, rồi sẽ được tinh sạch vào lúc chiều tối.
20 Nhưng nếu bị ô uế mà vẫn không chịu tẩy sạch mình thì người đó phải bị diệt trừ khỏi dân chúng,+ vì đã làm ô uế nơi thánh của Đức Giê-hô-va. Nước tẩy uế chưa được rảy trên người nên người vẫn bị ô uế.
21 Đây là một luật lệ vững bền dành cho họ: Người rảy nước tẩy uế+ phải giặt quần áo mình, ai chạm vào nước tẩy uế sẽ bị ô uế đến chiều tối. 22 Bất cứ vật gì người ô uế chạm vào đều sẽ bị ô uế, người nào chạm vào những vật đó sẽ bị ô uế đến chiều tối’”.+
20 Vào tháng thứ nhất, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đi vào hoang mạc Xin, và dân chúng bắt đầu sinh sống tại Ca-đe.+ Đó là nơi Mi-ri-am+ đã qua đời và được chôn cất.
2 Lúc bấy giờ, không có nước cho dân chúng+ nên họ tập hợp nhau chống lại Môi-se và A-rôn. 3 Họ gây sự với Môi-se+ mà rằng: “Thà chúng tôi cùng anh em mình chết trước mặt Đức Giê-hô-va cho rồi! 4 Sao các ông đưa dân của Đức Giê-hô-va vào hoang mạc này để chúng tôi và súc vật của chúng tôi phải chết?+ 5 Sao các ông dẫn chúng tôi ra khỏi Ai Cập để vào nơi độc địa này?+ Đây không phải là nơi để gieo hạt, trồng cây vả, cây nho, cây lựu, cũng chẳng có nước để uống”.+ 6 Môi-se và A-rôn rời khỏi dân chúng, đi đến lối ra vào lều hội họp rồi sấp mặt xuống đất, và sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng họ.+
7 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 8 “Hãy lấy cây gậy, rồi con cùng anh trai mình là A-rôn hãy triệu tập hết thảy dân chúng và nói với vách đá trước mắt họ để nước chảy ra; con sẽ khiến nước từ vách đá chảy ra cho dân chúng và súc vật của họ uống”.+
9 Vậy, Môi-se lấy cây gậy trước mặt Đức Giê-hô-va,+ đúng như ngài đã phán dặn ông. 10 Sau đó, Môi-se và A-rôn tập hợp dân chúng trước vách đá rồi nói với họ rằng: “Hãy nghe, hỡi những kẻ phản nghịch! Các người đòi chúng tôi khiến nước từ vách đá này chảy ra cho các người sao?”.+ 11 Rồi Môi-se giơ tay đập hai lần vào vách đá bằng gậy của ông, và nước chảy ra rất nhiều, dân chúng và súc vật của họ bắt đầu uống nước.+
12 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn: “Vì các con không thể hiện đức tin nơi ta và không tôn ta là thánh trước mắt dân Y-sơ-ra-ên, nên các con sẽ không đưa dân này vào xứ mà ta sẽ ban cho họ”.+ 13 Đó là dòng nước tại Mê-ri-ba,*+ nơi dân Y-sơ-ra-ên đã gây sự với Đức Giê-hô-va, bởi vậy mà ngài đã được nên thánh ở giữa họ.
14 Sau đó, Môi-se gửi sứ giả từ Ca-đe đến gặp vua Ê-đôm+ và nói rằng: “Đây là điều anh em của vua là Y-sơ-ra-ên+ đã nói: ‘Vua biết rõ mọi nỗi khó khăn chúng tôi đã trải qua. 15 Cha ông chúng tôi đã đến Ai Cập,+ và chúng tôi sinh sống tại đó trong nhiều năm;+ người Ai Cập đã bạc đãi chúng tôi và cha ông chúng tôi.+ 16 Cuối cùng, chúng tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va,+ ngài nghe chúng tôi, rồi sai một thiên sứ của ngài+ và đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập. Hiện nay chúng tôi đang ở Ca-đe, một thành nằm sát biên giới lãnh thổ của vua. 17 Xin cho chúng tôi đi qua xứ của vua. Chúng tôi sẽ không đi qua bất cứ mảnh ruộng hay vườn nho nào, cũng không uống nước của bất kỳ cái giếng nào. Chúng tôi sẽ tiến thẳng trên Đường Vua, không rẽ phải hay rẽ trái cho đến khi ra khỏi lãnh thổ của vua’”.+
18 Tuy nhiên, vua Ê-đôm nói: “Ngươi không được đi qua lãnh thổ của bọn ta, bằng không ta sẽ cầm gươm ra đón ngươi”. 19 Người Y-sơ-ra-ên đáp: “Chúng tôi sẽ đi trên đường cái, nếu chúng tôi và súc vật của chúng tôi uống nước của vua thì chúng tôi sẽ trả tiền.+ Chúng tôi chỉ muốn đi bộ ngang qua xứ thôi”.+ 20 Nhưng vua Ê-đôm vẫn nói rằng: “Ngươi không được đi qua”.+ Rồi vua đem một đạo quân đông đảo và hùng mạnh ra nghênh chiến với họ. 21 Vậy, vua Ê-đôm không cho phép dân Y-sơ-ra-ên đi qua lãnh thổ của mình; vì thế, dân Y-sơ-ra-ên tránh khỏi người.+
22 Toàn thể dân Y-sơ-ra-ên rời Ca-đe và đi đến núi Hô-rơ.+ 23 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn trên núi Hô-rơ, gần biên giới của xứ Ê-đôm rằng: 24 “A-rôn sẽ an giấc cùng tổ phụ.*+ Người sẽ không vào xứ mà ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên, vì hai con đã chống lại mệnh lệnh của ta liên quan đến dòng nước tại Mê-ri-ba.+ 25 Hãy dẫn A-rôn và con trai người là Ê-lê-a-xa lên núi Hô-rơ. 26 Hãy cởi bộ y phục của A-rôn+ rồi mặc cho con trai người là Ê-lê-a-xa;+ A-rôn sẽ qua đời tại đó”.
27 Môi-se làm y như điều Đức Giê-hô-va phán dặn, và họ đi lên núi Hô-rơ trước mắt hết thảy dân chúng. 28 Rồi Môi-se cởi bộ y phục của A-rôn và mặc cho con trai người là Ê-lê-a-xa. Sau đó, A-rôn qua đời trên đỉnh núi.+ Môi-se và Ê-lê-a-xa đi xuống núi. 29 Khi hết thảy dân chúng biết A-rôn qua đời, cả nhà Y-sơ-ra-ên khóc thương A-rôn trong 30 ngày.+
21 Khi vua người Ca-na-an của thành A-rát,+ sống tại vùng Nê-ghép, hay rằng dân Y-sơ-ra-ên đã đến bằng đường A-tha-rim thì tấn công dân Y-sơ-ra-ên và bắt đi một số người. 2 Do đó, dân Y-sơ-ra-ên lập một lời thề với Đức Giê-hô-va: “Nếu ngài phó dân này vào tay chúng con thì chúng con sẽ hủy diệt các thành của chúng”. 3 Vậy, Đức Giê-hô-va nghe dân Y-sơ-ra-ên và phó dân Ca-na-an cho họ; họ hủy diệt chúng và các thành của chúng. Vì thế, họ đặt tên nơi đó là Họt-ma.*+
4 Khi họ tiếp tục chuyến hành trình từ núi Hô-rơ+ theo đường Biển Đỏ để vòng qua xứ Ê-đôm+ thì dân chúng trở nên mệt mỏi. 5 Họ cứ nói nghịch lại Đức Chúa Trời và Môi-se+ mà rằng: “Sao lại đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để chết trong hoang mạc này? Chẳng có thức ăn nước uống,+ và chúng tôi đã chán ghét thứ bánh đáng khinh này”.+ 6 Đức Giê-hô-va sai rắn độc đến giữa dân chúng và chúng cắn họ, thế nên nhiều người Y-sơ-ra-ên chết.+
7 Dân chúng đến với Môi-se và nói: “Chúng tôi đã phạm tội vì nói nghịch lại Đức Giê-hô-va và ông.+ Xin hãy nói giùm với Đức Giê-hô-va để ngài đuổi rắn ra khỏi chúng tôi”. Vậy, Môi-se nói giùm dân chúng.+ 8 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: “Con hãy làm một con rắn độc và treo nó lên cây cột. Bất cứ ai bị rắn cắn thì phải nhìn nó mới được sống”. 9 Môi-se liền làm một con rắn bằng đồng+ treo lên cây cột;+ khi một người bị rắn cắn và nhìn con rắn bằng đồng thì được sống sót.+
10 Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên lên đường và đóng trại tại Ô-bốt.+ 11 Rồi họ rời Ô-bốt và đóng trại tại Y-giê-a-ba-rim,+ trong hoang mạc đối diện xứ Mô-áp, về hướng đông. 12 Từ nơi đó, họ lên đường và đóng trại gần thung lũng Xê-rê.+ 13 Từ đó, họ rời đi và đóng trại tại vùng thung lũng Ạt-nôn+ trong hoang mạc trải dài từ ranh giới lãnh thổ của dân A-mô-rít, vì Ạt-nôn là biên giới của Mô-áp, nằm giữa Mô-áp và dân A-mô-rít. 14 Đó là lý do mà sách Chiến trận của Đức Giê-hô-va có nói đến “Va-hép tại Su-pha, các thung lũng của Ạt-nôn 15 và lối vào các thung lũng ấy, trải dài về hướng thành A-rơ và giáp với biên giới Mô-áp”.
16 Tiếp theo, họ đi đến Bê-e. Đó là cái giếng mà Đức Giê-hô-va bảo Môi-se rằng: “Hãy nhóm dân chúng lại và ta sẽ ban cho họ nước uống”.
17 Lúc bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca này:
“Hỡi giếng nước, hãy dâng trào! Hãy đáp lại!*
18 Giếng nước mà các quan trưởng đã đào, người quyền quý trong dân chúng đã khơi,
Bằng quyền trượng và cây trượng của họ”.
Sau đó, họ đi từ hoang mạc đến Ma-tha-na, 19 từ Ma-tha-na đến Na-ha-li-ên và từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt.+ 20 Họ đi từ Ba-mốt đến thung lũng thuộc lãnh thổ của Mô-áp,+ trên đỉnh Phích-ga,+ là nơi có thể nhìn thấy Giê-si-môn.*+
21 Dân Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến gặp vua A-mô-rít là Si-hôn mà nói rằng:+ 22 “Xin cho chúng tôi đi qua xứ của vua. Chúng tôi sẽ không rẽ vào một mảnh ruộng hay một vườn nho nào. Chúng tôi sẽ không uống nước từ bất kỳ cái giếng nào. Chúng tôi sẽ tiến thẳng trên Đường Vua cho đến khi đi qua lãnh thổ của vua”.+ 23 Nhưng Si-hôn không cho dân Y-sơ-ra-ên đi qua lãnh thổ. Thay vì thế, Si-hôn tập hợp tất cả người của mình và đi đánh dân Y-sơ-ra-ên tại hoang mạc. Chúng đến Gia-hác và chiến đấu với dân Y-sơ-ra-ên.+ 24 Dân Y-sơ-ra-ên dùng gươm đánh bại Si-hôn+ và chiếm lấy đất của hắn+ từ Ạt-nôn+ đến Gia-bốc,+ gần dân Am-môn; nhưng không đi qua thành Gia-ê-xe+ vì thành đó giáp ranh với lãnh thổ của dân Am-môn.+
25 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên chiếm tất cả những thành đó và bắt đầu sinh sống trong các thành của dân A-mô-rít,+ gồm thành Hết-bôn cùng những thành phụ cận.* 26 Hết-bôn là thành của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, là người đã tranh chiến với vua Mô-áp và chiếm tất cả đất đai của vua ấy cho đến tận thung lũng Ạt-nôn. 27 Bởi đó mới có bài thơ châm chọc rằng:
“Hãy đến Hết-bôn.
Hãy để thành của Si-hôn được xây cất và vững bền.
28 Vì một ngọn lửa ra từ Hết-bôn, ngọn lửa từ thành của Si-hôn.
Thiêu đốt A-rơ của Mô-áp, các lãnh chúa tại những nơi cao của Ạt-nôn.
29 Hỡi Mô-áp, khốn thay cho ngươi! Ôi dân thờ Kê-móc,+ ngươi sẽ bị hủy diệt!
Kê-móc khiến con trai mình thành kẻ chạy trốn và con gái mình thành kẻ lưu đày trong tay Si-hôn, vua dân A-mô-rít.
30 Chúng ta hãy tấn công chúng;
Hết-bôn sẽ bị hủy diệt đến tận Đi-bôn;+
Chúng ta hãy làm nó ra hoang vu đến tận Nô-phách;
Lửa sẽ lan đến tận Mê-đê-ba”.+
31 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu sinh sống tại xứ của dân A-mô-rít. 32 Sau đó, Môi-se sai vài người nam đi do thám thành Gia-ê-xe.+ Dân Y-sơ-ra-ên chiếm các thành phụ cận* của nó và đuổi dân A-mô-rít đang sống tại đó. 33 Rồi họ đổi hướng và đi theo Đường Của Ba-san. Óc,+ vua Ba-san, cùng tất cả người của hắn ra tranh chiến cùng họ tại Ết-rê-i.+ 34 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Đừng sợ hắn,+ vì ta sẽ phó hắn, cả dân và đất đai của hắn vào tay con.+ Con sẽ làm cho hắn y như đã làm với Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống tại Hết-bôn”.+ 35 Vậy, họ đánh bại Óc cùng các con trai và cả dân của vua ấy, cho đến khi không còn ai sống sót,+ rồi họ chiếm lấy đất của vua ấy.+
22 Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên rời đi và đóng trại trong hoang mạc Mô-áp, về phía bên kia sông Giô-đanh, đối diện thành Giê-ri-cô.+ 2 Bấy giờ, Ba-lác+ con trai Xíp-bô biết được mọi điều dân Y-sơ-ra-ên đã làm với dân A-mô-rít. 3 Dân Mô-áp rất sợ dân Y-sơ-ra-ên vì họ quá đông; thật thế, dân Mô-áp khiếp sợ dân Y-sơ-ra-ên.+ 4 Vậy, dân Mô-áp nói với các trưởng lão của dân Ma-đi-an:+ “Dân ấy sẽ ăn nuốt mọi vật xung quanh chúng ta như bò đực ăn nuốt cỏ trên đồng”.
Vào thời đó, Ba-lác con trai Xíp-bô làm vua dân Mô-áp. 5 Ông sai sứ giả đến gặp Ba-la-am con trai Bê-ô tại Phê-thô-rơ,+ là nơi gần sông Ơ-phơ-rát ở quê hương Ba-la-am. Ba-lác cho người đến mời Ba-la-am rằng: “Này! Một dân đã ra khỏi Ai Cập. Và kìa! Chúng đã bao phủ khắp đất+ và đang sinh sống ngay trước mắt ta. 6 Xin ông đến nguyền rủa dân ấy cho ta,+ vì chúng mạnh hơn ta. Biết đâu ta có thể đánh bại chúng và đuổi chúng ra khỏi xứ, vì ta biết rằng hễ ai mà ông chúc phước thì sẽ được phước, còn ai mà ông nguyền rủa thì sẽ bị nguyền rủa”.
7 Vậy, các trưởng lão của dân Mô-áp và dân Ma-đi-an lên đường, cầm theo tiền thù lao cho việc xem bói,* rồi họ đi gặp Ba-la-am+ và thuật lại cho ông lời của Ba-lác. 8 Ba-la-am nói với họ: “Hãy nghỉ qua đêm tại đây và tôi sẽ nói lại cho các ông những lời mà Đức Giê-hô-va phán với tôi”. Thế nên, các quan của Mô-áp ở lại với Ba-la-am.
9 Sau đó, Đức Chúa Trời hiện đến với Ba-la-am và nói:+ “Những người đang ở cùng ngươi là ai?”. 10 Ba-la-am thưa với Đức Chúa Trời: “Ba-lác con trai Xíp-bô, vua dân Mô-áp, đã sai người nói với con rằng: 11 ‘Này! Dân ra khỏi xứ Ai Cập đang bao phủ khắp đất. Hãy đến nguyền rủa chúng cho ta,+ biết đâu ta có thể chiến đấu với chúng và đuổi chúng đi’”. 12 Nhưng Đức Chúa Trời phán cùng Ba-la-am: “Ngươi không được đi với chúng. Ngươi không được nguyền rủa dân ấy vì họ là dân được ban phước”.+
13 Sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy và nói với các quan của Ba-lác: “Hãy trở về xứ của các ông, vì Đức Giê-hô-va không cho tôi đi với các ông”. 14 Vậy, các quan của Mô-áp lên đường trở về cùng Ba-lác và nói: “Ba-la-am từ chối đi với chúng tôi”.
15 Tuy nhiên, Ba-lác lại phái các quan đi, nhóm được phái đi lần này đông hơn và cao trọng hơn nhóm trước. 16 Họ đến gặp Ba-la-am và nói: “Ba-lác con trai Xíp-bô đã nói rằng: ‘Xin đừng để bất cứ điều gì ngăn cản ông đến cùng ta, 17 vì ta sẽ tôn ông lên rất cao và làm bất cứ điều gì ông bảo. Vậy, xin ông hãy đến nguyền rủa dân ấy cho ta’”. 18 Nhưng Ba-la-am đáp với tôi tớ của Ba-lác: “Dù vua Ba-lác có cho tôi ngôi nhà đầy bạc và vàng của ông ta, tôi cũng không thể làm bất cứ điều gì trái với mệnh lệnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi, cho dù đó là việc nhỏ hay lớn.+ 19 Nhưng xin các ông hãy ở lại đây đêm nay, để tôi xem Đức Giê-hô-va có phán thêm điều gì không”.+
20 Ban đêm, Đức Chúa Trời hiện đến với Ba-la-am và phán: “Nếu những kẻ đó đến để mời ngươi đi thì cứ đi với chúng. Nhưng chỉ được nói những lời ta bảo ngươi phải nói”.+ 21 Vào buổi sáng, Ba-la-am thức dậy, thắng yên lừa và đi với các quan của Mô-áp.+
22 Nhưng Đức Chúa Trời nổi giận phừng phừng vì Ba-la-am đã lên đường, và thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường để cản ông. Bấy giờ, Ba-la-am đang cưỡi con lừa của mình và có hai người hầu đi cùng. 23 Khi con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên đường với gươm trần trong tay thì cố rẽ khỏi con đường để đi vào cánh đồng. Nhưng Ba-la-am đánh con lừa để bắt nó trở lại đường. 24 Sau đó, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng trên một con đường hẹp giữa hai vườn nho, với tường đá ở hai bên. 25 Khi con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va, nó nép mình vào tường khiến chân của Ba-la-am kẹt vào tường, và ông đánh nó lần nữa.
26 Bấy giờ, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đi xa hơn và đứng tại một nơi chật hẹp, không thể rẽ phải hay rẽ trái. 27 Khi con lừa thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va, nó nằm xuống trong khi Ba-la-am đang cưỡi trên mình, cho nên ông nổi giận và cứ dùng gậy mà đánh nó. 28 Cuối cùng, Đức Giê-hô-va khiến con lừa nói được,+ và nó nói với Ba-la-am: “Tôi đã làm gì ông mà ông đánh tôi tới ba lần?”.+ 29 Ba-la-am trả lời: “Vì mày làm mất mặt tao. Giá mà có gươm trong tay thì tao sẽ giết mày!”. 30 Con lừa hỏi Ba-la-am: “Chẳng phải tôi là con lừa mà ông đã cưỡi suốt đời mình từ trước đến giờ sao? Tôi đã từng cư xử với ông như thế này chưa?”. Ba-la-am đáp: “Chưa!”. 31 Đức Giê-hô-va mở mắt Ba-la-am+ và ông thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng trên đường với gươm trần trong tay. Ông liền quỳ sấp mặt xuống đất.
32 Thiên sứ của Đức Giê-hô-va phán cùng ông: “Sao ngươi lại đánh lừa của mình ba lần? Này! Ta đến để cản ngươi, vì đường lối của ngươi ngược với ý muốn của ta.+ 33 Con lừa đã thấy ta và cố tránh ta ba lần.+ Hãy thử nghĩ xem chuyện gì đã xảy ra nếu nó không tránh ta? Hẳn ta đã giết ngươi và tha mạng cho nó”. 34 Ba-la-am thưa với thiên sứ của Đức Giê-hô-va: “Con đã phạm tội vì không biết ngài đang đứng trên đường để gặp con. Bây giờ, nếu đó là điều xấu trong mắt ngài thì con sẽ quay về”. 35 Tuy nhiên, thiên sứ của Đức Giê-hô-va đáp: “Hãy đi với những người đó, nhưng chỉ được nói những lời ta bảo ngươi”. Vậy, Ba-la-am tiếp tục lên đường với các quan của Ba-lác.
36 Khi Ba-lác nghe Ba-la-am đã đến thì liền ra đón tại thành Mô-áp, là nơi nằm trên bờ sông Ạt-nôn, ở biên giới lãnh thổ của xứ. 37 Ba-lác nói với Ba-la-am: “Chẳng phải ta đã mời ông đến sao? Sao ông không đến gặp ta? Phải chăng ông nghĩ ta không thể tôn ông lên rất cao?”.+ 38 Ba-la-am đáp rằng: “Dù sao tôi cũng đã đến với vua rồi. Nhưng tôi có được phép nói gì không? Tôi chỉ có thể nói những lời Đức Chúa Trời đặt trong miệng mình mà thôi”.+
39 Ba-la-am đi cùng Ba-lác và họ đến Ki-ri-át-hút-xốt. 40 Ba-lác dâng bò và cừu làm vật tế lễ, rồi ông đưa một ít cho Ba-la-am và các quan đang đi cùng. 41 Sáng hôm sau, Ba-lác dẫn Ba-la-am lên Ba-mốt-ba-anh; Ba-la-am có thể thấy toàn dân Y-sơ-ra-ên từ nơi đó.+
23 Ba-la-am nói với Ba-lác: “Hãy xây tại nơi này bảy cái bàn thờ+ và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực cùng bảy con cừu đực”. 2 Ba-lác liền làm đúng như Ba-la-am đã nói. Rồi Ba-lác và Ba-la-am dâng một con bò đực và một con cừu đực trên mỗi bàn thờ.+ 3 Ba-la-am nói với Ba-lác: “Vua hãy ở bên lễ vật thiêu của mình, còn tôi sẽ đi. Có lẽ Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra với tôi. Bất cứ điều gì ngài tỏ cho tôi thì tôi sẽ cho vua biết”. Vậy, Ba-la-am đi đến một ngọn đồi trọc.
4 Đức Chúa Trời hiện ra với Ba-la-am,+ ông bèn nói với ngài: “Con đã sắp xếp bảy cái bàn thờ và dâng một con bò đực cùng một con cừu đực trên mỗi bàn thờ”. 5 Đức Giê-hô-va đặt những lời này vào miệng của Ba-la-am:+ “Hãy quay về với Ba-lác, và đây là điều ngươi phải nói”. 6 Vậy, Ba-la-am quay về và thấy Ba-lác cùng tất cả các quan của Mô-áp đang đứng gần lễ vật thiêu. 7 Ba-la-am nói bài thơ này:+
“Ba-lác, vua của Mô-áp, dẫn tôi đến từ A-ram,+
Từ những ngọn núi phía đông, mà rằng:
‘Hãy đến nguyền rủa Gia-cốp cho ta.
Phải, hãy đến lên án Y-sơ-ra-ên’.+
8 Làm sao tôi có thể nguyền rủa những người mà Đức Chúa Trời chẳng nguyền rủa?
Làm sao tôi có thể lên án những người mà Đức Giê-hô-va chẳng lên án?+
9 Tôi trông thấy họ từ trên chóp đá,
Tôi trông thấy họ từ những ngọn đồi.
Hãy để tôi chết như người ngay thẳng,
Và để đời tôi kết thúc như họ”.
11 Bấy giờ, Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông đã làm gì cho ta vậy? Ta mời ông đến để nguyền rủa kẻ thù mà ông lại chúc phước cho chúng!”.+ 12 Ba-la-am đáp: “Tôi có thể không nói những điều Đức Giê-hô-va đặt trong miệng mình sao?”.+
13 Ba-lác nói với ông: “Hãy cùng ta đến một nơi khác mà ông có thể nhìn thấy chúng. Ông sẽ chỉ nhìn thấy một phần của dân ấy chứ không thấy hết. Từ nơi đó, hãy nguyền rủa chúng cho ta”.+ 14 Vậy, Ba-lác dẫn Ba-la-am đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh Phích-ga+ rồi xây bảy cái bàn thờ và dâng một con bò đực, một con cừu đực trên mỗi bàn thờ.+ 15 Ba-la-am nói với Ba-lác rằng: “Vua hãy ở bên lễ vật thiêu của mình trong khi tôi đến đằng kia để thưa chuyện với Đức Chúa Trời”. 16 Rồi Đức Giê-hô-va hiện ra với Ba-la-am và đặt những lời này vào miệng ông:+ “Hãy quay về với Ba-lác và đây là điều ngươi phải nói”. 17 Vậy, ông trở về với Ba-lác và thấy vua đang chờ bên lễ vật thiêu của vua, các quan của Mô-áp cũng ở đó. Ba-lác hỏi: “Đức Giê-hô-va đã phán gì?”. 18 Ba-la-am nói bài thơ này:+
“Hỡi Ba-lác, hãy trỗi dậy và lắng tai.
Hỡi con trai Xíp-bô, hãy nghe tôi.
Điều ngài nói, ngài sẽ chẳng làm ư?
Điều ngài phán, ngài sẽ chẳng thi hành sao?+
21 Ngài không dung thứ bất cứ loại phép thuật nào chống lại Gia-cốp,
Cũng không cho phép bất cứ khó khăn nào xảy đến với Y-sơ-ra-ên.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ở cùng họ,+
Ngài được tung hô lớn tiếng là vua ở giữa họ.
22 Đức Chúa Trời đưa họ ra khỏi Ai Cập.+
Đối với chúng, ngài như sừng của bò rừng đực.+
Giờ có thể nói về Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên rằng:
‘Hãy xem điều Đức Chúa Trời đã làm!’.
Không nằm xuống cho đến khi ăn mồi
Và uống máu của những con bị giết”.
25 Ba-lác nói với Ba-la-am: “Nếu ông không thể nguyền rủa chúng thì cũng không được chúc phước cho chúng”. 26 Ba-la-am đáp: “Chẳng phải tôi đã nói với vua: ‘Tôi sẽ làm mọi điều Đức Giê-hô-va phán’,+ hay sao?”.
27 Ba-lác nói với Ba-la-am: “Xin hãy đi cùng ta để ta dẫn ông tới nơi khác. Có lẽ việc ông nguyền rủa dân ấy từ nơi đó sẽ là điều đúng trong mắt Đức Chúa Trời”.+ 28 Thế rồi, Ba-lác dẫn Ba-la-am đến đỉnh Phê-ô, là nơi nhìn về phía Giê-si-môn.*+ 29 Ba-la-am nói với Ba-lác: “Hãy xây tại nơi này bảy cái bàn thờ và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực cùng bảy con cừu đực”.+ 30 Vậy, Ba-lác làm đúng như Ba-la-am nói và dâng một con bò đực cùng một con cừu đực trên mỗi bàn thờ.
24 Ba-la-am thấy Đức Giê-hô-va hài lòng khi ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên nên ông không đi tìm những điềm dữ nữa+ mà quay mặt về phía hoang mạc. 2 Ba-la-am nhìn lên và thấy dân Y-sơ-ra-ên đang đóng trại theo các chi phái,+ rồi thần khí Đức Chúa Trời đến trên ông.+ 3 Ông nói bài thơ này:+
“Lời của Ba-la-am con trai Bê-ô,
Lời của một người đã được mở mắt,
4 Lời của người được nghe lời phán Đức Chúa Trời,
Người đã thấy khải tượng của Đấng Toàn Năng,
Người đã sấp mình với đôi mắt mở ra:+
6 Chúng như thung lũng trải dài,+
Như khu vườn gần dòng sông,
Như cây kỳ nam Đức Giê-hô-va trồng,
Như cây tuyết tùng gần nguồn nước.
8 Đức Chúa Trời đang mang người ra khỏi Ai Cập;
Đối với chúng, ngài như sừng của bò rừng đực.
Người sẽ ăn nuốt các nước, là những kẻ đàn áp,+
Người sẽ gặm xương chúng, đánh tan chúng bằng mũi tên.
9 Người nằm xuống, nằm như sư tử;
Tựa như sư tử, ai dám bắt người đứng dậy?
Ai chúc phước người sẽ được ban phước,
Ai nguyền rủa người sẽ bị nguyền rủa”.+
10 Ba-lác nổi giận cùng Ba-la-am. Ba-lác vỗ tay khinh bỉ và nói với Ba-la-am: “Ta gọi ngươi đến để nguyền rủa kẻ thù của ta+ mà ngươi lại chúc phước chúng đến ba lần. 11 Về nhà ngay đi! Ta định tôn ngươi lên rất cao,+ nhưng kìa, Đức Giê-hô-va đã tước điều đó khỏi ngươi”.
12 Ba-la-am đáp với Ba-lác: “Chẳng phải tôi đã nói với các sứ giả của vua rằng: 13 ‘Dù vua Ba-lác có cho tôi ngôi nhà đầy bạc và vàng của ông ta, tôi cũng không tự mình làm bất cứ điều gì trái với mệnh lệnh của Đức Giê-hô-va, cho dù đó là việc tốt hay xấu. Tôi chỉ nói những gì Đức Giê-hô-va bảo tôi nói’+ hay sao? 14 Giờ tôi sẽ trở về với dân mình. Hãy đến để tôi cho vua biết về điều mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ làm với dân của vua trong tương lai”. 15 Vậy, ông nói bài thơ này:+
“Lời của Ba-la-am con trai Bê-ô,
Lời của một người đã được mở mắt,+
16 Lời của người được nghe lời phán Đức Chúa Trời,
Người có kiến thức từ Đấng Tối Cao,
Người thấy một khải tượng của Đấng Toàn Năng
Khi đang sấp mình với đôi mắt mở ra:
17 Tôi sẽ thấy người, nhưng không phải bây giờ;
Tôi sẽ thấy người, nhưng không phải sắp thấy.
Người chắc sẽ đập vỡ trán Mô-áp+
Và sọ mọi con cái của sự hiếu chiến.
18 Ê-đôm sẽ trở thành một sản nghiệp,+
Phải, Sê-i-rơ+ sẽ trở thành sản nghiệp của kẻ thù,+
Trong khi Y-sơ-ra-ên thể hiện lòng can đảm.
20 Khi thấy A-ma-léc, ông nói tiếp bài thơ như sau:
21 Khi thấy dân Kê-nít,+ ông nói tiếp bài thơ như sau:
“Nơi ngươi sinh sống thật an toàn, chỗ ngươi ở được đặt trên vách đá.
22 Nhưng có người sẽ đốt cháy Ka-in.
Bao lâu nữa thì A-si-ri bắt các ngươi đi lưu đày?”.
23 Ông nói tiếp bài thơ như sau:
“Khốn thay! Ai sẽ sống nổi khi Đức Chúa Trời làm điều này?
24 Những con tàu từ ven biển Kít-tim+ sẽ đến,
Chúng sẽ gây khốn khổ cho A-si-ri,+
Chúng sẽ gây khốn khổ cho Ê-be.
Nhưng chính chúng* cũng sẽ bị tuyệt diệt”.
25 Rồi Ba-la-am+ đứng dậy và lên đường trở về. Ba-lác cũng đi đường của mình.
25 Khi dân Y-sơ-ra-ên đang ở Si-tim+ thì dân chúng bắt đầu gian dâm với các con gái Mô-áp.+ 2 Những cô gái ấy mời dân chúng dự lễ cúng tế các thần của họ,+ dân chúng bắt đầu ăn vật tế lễ và quỳ lạy các thần đó.+ 3 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên tham gia thờ phượng* Ba-anh Phê-ô,+ và Đức Giê-hô-va nổi giận cùng họ. 4 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy bắt tất cả nhà lãnh đạo của những kẻ đó và treo chúng trước mặt Đức Giê-hô-va giữa ban ngày,* để cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va lìa khỏi dân Y-sơ-ra-ên”. 5 Sau đó, Môi-se nói với các quan xét của Y-sơ-ra-ên:+ “Mỗi người trong anh em hãy giết những người thuộc về mình* mà đã tham gia thờ phượng* Ba-anh Phê-ô”.+
6 Nhưng ngay lúc đó, có một người Y-sơ-ra-ên dẫn một phụ nữ Ma-đi-an+ đến gần anh em mình, trước mắt Môi-se và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên, trong khi dân chúng đang than khóc tại lối ra vào lều hội họp. 7 Khi Phi-nê-a,+ con trai Ê-lê-a-xa, cháu thầy tế lễ A-rôn, thấy điều đó thì liền trỗi dậy giữa dân chúng và cầm lấy một cây giáo. 8 Ông đi theo người nam Y-sơ-ra-ên kia vào lều và đâm xuyên qua chúng, xuyên qua người nam Y-sơ-ra-ên và chỗ kín của người nữ Ma-đi-an. Lúc đó, tai họa giáng trên dân Y-sơ-ra-ên mới ngừng lại.+ 9 Số người chết vì tai họa đó là 24.000 người.+
10 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 11 “Phi-nê-a,+ con trai Ê-lê-a-xa, cháu thầy tế lễ A-rôn, đã xây cơn thịnh nộ của ta khỏi dân Y-sơ-ra-ên vì người không dung túng sự kình địch đối với ta trong dân chúng.+ Thế nên ta không tận diệt dân Y-sơ-ra-ên, dù ta đòi hỏi lòng sùng kính chuyên độc.+ 12 Vậy, hãy nói rằng: ‘Ta sẽ lập giao ước bình an với người. 13 Đó sẽ là một giao ước chức tế lễ vững bền dành cho người và dòng dõi người,+ vì người không dung túng sự kình địch đối với Đức Chúa Trời mình+ và người chuộc tội dân Y-sơ-ra-ên’”.
14 Tên của người nam Y-sơ-ra-ên bị giết cùng người nữ Ma-đi-an là Xim-ri con trai Sanh-lu, một thủ lĩnh của dòng tộc Si-mê-ôn. 15 Tên của người nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi con gái Xu-rơ;+ ông là người lãnh đạo các thị tộc thuộc một dòng tộc trong dân Ma-đi-an.+
16 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 17 “Hãy tấn công dân Ma-đi-an và đánh bại chúng,+ 18 vì chúng đã quấy rối các ngươi bằng những mưu kế xảo quyệt liên quan đến Phê-ô+ và con gái của một thủ lĩnh Ma-đi-an là Cốt-bi, tức người chị em của chúng đã bị giết+ trong ngày có tai họa liên quan đến Phê-ô”.+
26 Sau tai họa đó,+ Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và Ê-lê-a-xa, con trai thầy tế lễ A-rôn, rằng: 2 “Hãy thống kê dân số của toàn thể dân Y-sơ-ra-ên từ 20 tuổi trở lên theo dòng tộc, tức là đếm tất cả những người có thể phục vụ trong quân đội Y-sơ-ra-ên”.+ 3 Vậy, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-xa+ nói với dân chúng trong hoang mạc Mô-áp+ gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô+ rằng: 4 “Hãy thống kê dân số của những người từ 20 tuổi trở lên, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se”.+
Con cháu của Y-sơ-ra-ên đã ra khỏi xứ Ai Cập là: 5 chi phái Ru-bên,+ tức con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên; đây là các con trai của Ru-bên:+ Ha-nóc sinh ra gia tộc Ha-nóc; Pha-lu sinh ra gia tộc Pha-lu; 6 Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn; Cạt-mi sinh ra gia tộc Cạt-mi. 7 Đó là những gia tộc của chi phái Ru-bên và số người đã đăng ký là 43.730 người.+
8 Con trai của Pha-lu là Ê-li-áp. 9 Các con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram chính là những người được chọn từ dân chúng, họ đã cùng nhóm của Cô-rê+ chống lại Môi-se+ và A-rôn khi chống lại Đức Giê-hô-va.+
10 Đất đã nứt ra và nuốt chửng họ. Còn Cô-rê thì chết chung với những kẻ ủng hộ mình khi ngọn lửa thiêu đốt 250 người.+ Họ đã trở thành một gương cảnh báo.+ 11 Tuy nhiên, các con trai của Cô-rê thì không chết.+
12 Các con trai của Si-mê-ôn+ theo gia tộc là: Nê-mu-ên sinh ra gia tộc Nê-mu-ên; Gia-min sinh ra gia tộc Gia-min; Gia-kin sinh ra gia tộc Gia-kin; 13 Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách; Sa-un sinh ra gia tộc Sa-un. 14 Đó là các gia tộc của chi phái Si-mê-ôn, tổng số người đã đăng ký là 22.200 người.+
15 Các con trai của Gát+ theo gia tộc là: Xê-phôn sinh ra gia tộc Xê-phôn; Ha-ghi sinh ra gia tộc Ha-ghi; Su-ni sinh ra gia tộc Su-ni; 16 Óc-ni sinh ra gia tộc Óc-ni; Ê-ri sinh ra gia tộc Ê-ri; 17 A-rốt sinh ra gia tộc A-rốt; A-rê-li sinh ra gia tộc A-rê-li. 18 Đó là các gia tộc của con cháu Gát và số người đã đăng ký là 40.500 người.+
19 Các con trai của Giu-đa+ là Ê-rơ và Ô-nan+ nhưng Ê-rơ và Ô-nan đã chết tại xứ Ca-na-an.+ 20 Các con trai của Giu-đa theo gia tộc là: Sê-lách+ sinh ra gia tộc Sê-lách; Phê-rết+ sinh ra gia tộc Phê-rết; Xê-rách+ sinh ra gia tộc Xê-rách. 21 Đây là các con trai của Phê-rết: Hết-rôn+ sinh ra gia tộc Hết-rôn; Ha-mun+ sinh ra gia tộc Ha-mun. 22 Đó là các gia tộc của chi phái Giu-đa và số người đã đăng ký là 76.500 người.+
23 Các con trai của Y-sa-ca+ theo gia tộc là: Thô-la sinh ra gia tộc Thô-la;+ Phu-va sinh ra gia tộc Phu-va; 24 Gia-súp sinh ra gia tộc Gia-súp; Sim-rôn sinh ra gia tộc Sim-rôn. 25 Đó là các gia tộc của chi phái Y-sa-ca và số người đã đăng ký là 64.300 người.+
26 Các con trai của Xê-bu-lôn+ theo gia tộc là: Sê-rết sinh ra gia tộc Sê-rết; Ê-lôn sinh ra gia tộc Ê-lôn; Gia-lê-ên sinh ra gia tộc Gia-lê-ên. 27 Đó là các gia tộc của chi phái Xê-bu-lôn và số người đã đăng ký là 60.500 người.+
28 Các con trai của Giô-sép+ theo gia tộc là Ma-na-se và Ép-ra-im.+ 29 Đây là các con trai của Ma-na-se:+ Ma-ki-rơ+ sinh ra gia tộc Ma-ki-rơ. Ma-ki-rơ là cha của Ga-la-át.+ Ga-la-át sinh ra gia tộc Ga-la-át. 30 Đây là các con trai của Ga-la-át: Giê-xe sinh ra gia tộc Giê-xe; Hê-léc sinh ra gia tộc Hê-léc; 31 Ách-ri-ên sinh ra gia tộc Ách-ri-ên; Si-chem sinh ra gia tộc Si-chem; 32 Sê-mi-đa sinh ra gia tộc Sê-mi-đa; Hê-phe sinh ra gia tộc Hê-phe. 33 Con trai của Hê-phe là Xê-lô-phát không có con trai, chỉ có con gái+ và tên của các con gái Xê-lô-phát+ là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Tiệt-xa. 34 Đó là các gia tộc của chi phái Ma-na-se và số người đã đăng ký là 52.700 người.+
35 Đây là các con trai của Ép-ra-im+ theo gia tộc: Su-thê-lách+ sinh ra gia tộc Su-thê-lách; Bê-ke sinh ra gia tộc Bê-ke; Tha-chan sinh ra gia tộc Tha-chan. 36 Đây là con trai của Su-thê-lách: Ê-ran sinh ra gia tộc Ê-ran. 37 Đó là các gia tộc của chi phái Ép-ra-im và số người đã đăng ký là 32.500 người.+ Ấy là con cháu của Giô-sép theo gia tộc.
38 Các con trai của Bên-gia-min+ theo gia tộc là: Bê-la+ sinh ra gia tộc Bê-la; Ách-bên sinh ra gia tộc Ách-bên; A-hi-ram sinh ra gia tộc A-hi-ram; 39 Sê-phu-pham sinh ra gia tộc Sê-phu-pham; Hu-pham sinh ra gia tộc Hu-pham. 40 Các con trai của Bê-la là A-rết và Na-a-man.+ A-rết sinh ra gia tộc A-rết; Na-a-man sinh ra gia tộc Na-a-man. 41 Đó là con cháu của Bên-gia-min theo gia tộc và số người đã đăng ký là 45.600 người.+
42 Đây là con cháu của Đan+ theo gia tộc: Su-cham sinh ra gia tộc Su-cham. Đó là gia tộc của Đan. 43 Tất cả gia tộc của Su-cham đã đăng ký là 64.400 người.+
44 Các con trai của A-se+ theo gia tộc là: Di-ma sinh ra gia tộc Di-ma; Dích-vi sinh ra gia tộc Dích-vi; Bê-ri-a sinh ra gia tộc Bê-ri-a; 45 các con trai của Bê-ri-a là: Hê-be sinh ra gia tộc Hê-be; Manh-ki-ên sinh ra gia tộc Manh-ki-ên. 46 Con gái của A-se tên là Sê-rách. 47 Đó là các gia tộc của con cháu A-se và số người đã đăng ký là 53.400 người.+
48 Các con trai của Nép-ta-li+ theo gia tộc là: Giát-xê-ên sinh ra gia tộc Giát-xê-ên; Gu-ni sinh ra gia tộc Gu-ni; 49 Dít-xe sinh ra gia tộc Dít-xe; Si-lem sinh ra gia tộc Si-lem. 50 Đó là các gia tộc của Nép-ta-li được liệt kê theo gia tộc và số người đã đăng ký là 45.400 người.+
51 Tổng số người Y-sơ-ra-ên đã đăng ký là 601.730 người.+
52 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 53 “Đất phải được phân chia cho những người đó theo danh sách các tên* để làm phần thừa kế.+ 54 Đối với những nhóm lớn thì con hãy tăng phần thừa kế, còn đối với những nhóm nhỏ hơn thì con hãy giảm phần thừa kế.+ Phần thừa kế của mỗi nhóm phải được chia tương ứng với số người đã đăng ký. 55 Tuy nhiên, đất sẽ được chia bằng cách bắt thăm.+ Họ sẽ nhận phần thừa kế theo tên chi phái của cha ông mình. 56 Mỗi phần thừa kế sẽ được định đoạt bằng cách bắt thăm, rồi chia cho các nhóm lớn và nhóm nhỏ”.
57 Đây là những người thuộc chi phái Lê-vi+ đã được đăng ký theo gia tộc: Ghẹt-sôn sinh ra gia tộc Ghẹt-sôn; Kê-hát+ sinh ra gia tộc Kê-hát; Mê-ra-ri sinh ra gia tộc Mê-ra-ri. 58 Đây là các gia tộc của chi phái Lê-vi: gia tộc Líp-ni,+ gia tộc Hếp-rôn,+ gia tộc Mách-li,+ gia tộc Mu-si,+ gia tộc Cô-rê.+
Kê-hát sinh Am-ram.+ 59 Vợ của Am-ram tên là Giô-kê-bết,+ con gái của Lê-vi, được sinh tại Ai Cập. Giô-kê-bết sinh cho Am-ram những người con là A-rôn, Môi-se và chị của họ là Mi-ri-am.+ 60 A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa và Y-tha-ma.+ 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết vì dâng một thứ lửa trái phép trước mặt Đức Giê-hô-va.+
62 Tổng số người nam từ một tháng tuổi trở lên đã đăng ký là 23.000 người.+ Người Lê-vi không được ghi chung trong danh sách của dân Y-sơ-ra-ên+ vì không có phần thừa kế nào được ban cho họ giữa dân Y-sơ-ra-ên.+
63 Đó là những người được Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-xa đăng ký khi hai người đăng ký cho dân Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc Mô-áp gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô. 64 Nhưng không ai trong số họ được Môi-se và thầy tế lễ A-rôn lập danh sách trong lần thống kê dân số Y-sơ-ra-ên tại hoang mạc Si-nai.+ 65 Vì Đức Giê-hô-va có nói về họ rằng: “Chúng chắc chắn sẽ chết trong hoang mạc”.+ Vậy, không có một người nam nào trong số họ còn sống, ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê và Giô-suê con trai Nun.+
27 Sau đó, các con gái Xê-lô-phát+ đến. Xê-lô-phát là con trai Hê-phe, Hê-phe con trai Ga-la-át, Ga-la-át con trai Ma-ki-rơ, Ma-ki-rơ con trai Ma-na-se, thuộc gia tộc Ma-na-se, là con trai Giô-sép. Tên của các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Tiệt-xa. 2 Họ đứng trước mặt Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa, các thủ lĩnh+ và toàn thể dân chúng tại lối ra vào lều hội họp mà nói rằng: 3 “Cha chúng tôi đã chết trong hoang mạc nhưng ông không nằm trong số những người hiệp lại chống nghịch Đức Giê-hô-va, tức những người ủng hộ Cô-rê.+ Ông đã chết vì chính tội lỗi mình và không có con trai. 4 Tại sao tên của cha chúng tôi không còn trong gia tộc chỉ vì ông không có con trai? Hãy cho chúng tôi phần sản nghiệp giữa anh em của cha mình”. 5 Môi-se bèn trình vụ việc của họ trước mặt Đức Giê-hô-va.+
6 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 7 “Các con gái của Xê-lô-phát nói đúng. Con phải giao cho họ sản nghiệp đó như phần thừa kế giữa anh em của cha họ và chuyển phần thừa kế của Xê-lô-phát cho họ.+ 8 Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Nếu một người nam chết mà không có con trai thì phải giao phần thừa kế cho con gái người. 9 Nếu người không có con gái thì phải giao phần thừa kế cho anh em người. 10 Nếu người không có anh em thì phải giao phần thừa kế cho anh em của cha người. 11 Nếu cha người không có anh em thì phải giao phần thừa kế cho người thân có quan hệ huyết thống gần nhất trong gia đình, và người đó sẽ sở hữu nó. Phán quyết này sẽ trở thành một luật lệ cho dân Y-sơ-ra-ên, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se’”.
12 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy lên ngọn núi tại vùng A-ba-rim+ và nhìn xem xứ mà ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên.+ 13 Sau khi nhìn thấy xứ thì con sẽ an giấc cùng tổ phụ,*+ giống như anh trai con là A-rôn,+ 14 vì khi dân chúng gây sự với ta trong hoang mạc Xin, hai con đã chống lại mệnh lệnh của ta và không tôn ta là thánh trước mặt dân chúng lúc ta ban nước.+ Đó là dòng nước tại Mê-ri-ba+ ở Ca-đe,+ trong hoang mạc Xin”.+
15 Môi-se thưa với Đức Giê-hô-va: 16 “Xin Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ban sự sống cho mọi người, hãy bổ nhiệm trên dân chúng một người 17 sẽ đi ra đi vào trước mặt họ, người đó sẽ dẫn họ vào và dẫn họ ra, hầu cho dân của Đức Giê-hô-va không trở thành như chiên không có người chăn”. 18 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: “Hãy chọn và đặt tay trên Giô-suê con trai Nun, đó là một người có năng lực.+ 19 Sau đó, hãy để người đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-xa và toàn thể dân chúng, rồi bổ nhiệm người trước mắt họ.+ 20 Con sẽ trao cho người một phần quyền hành của mình,+ để toàn thể dân Y-sơ-ra-ên nghe lời người.+ 21 Người sẽ đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-xa, thầy tế lễ sẽ thay mặt Giô-suê cầu hỏi phán quyết của Đức Giê-hô-va qua U-rim.+ Giô-suê, dân Y-sơ-ra-ên và toàn thể dân chúng sẽ đi ra đi vào theo mệnh lệnh ấy”.
22 Vậy, Môi-se làm y như điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn. Ông dẫn Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-xa và toàn thể dân chúng, 23 rồi đặt tay trên Giô-suê và bổ nhiệm người,+ đúng như Đức Giê-hô-va đã phán qua Môi-se.+
28 Tiếp theo, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: 2 “Hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Các ngươi phải cẩn thận trong việc dâng cho ta các lễ vật, tức là bánh của ta. Các ngươi phải dâng cho ta các lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu vào thời điểm được ấn định’.+
3 Hãy nói với họ rằng: ‘Đây là lễ vật hỏa tế mà các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va: mỗi ngày hai con cừu đực con khỏe mạnh một năm tuổi để làm lễ vật thiêu hằng dâng.+ 4 Một con sẽ được dâng vào buổi sáng và con kia sẽ được dâng vào lúc chạng vạng tối,*+ 5 chung với một phần mười ê-pha* bột mịn trộn với một phần tư hin* dầu làm từ ô-liu được giã để làm lễ vật ngũ cốc.+ 6 Đó là lễ vật thiêu hằng dâng+ đã được lập ra tại núi Si-nai để làm hương thơm dễ chịu, một lễ vật hỏa tế dâng cho Đức Giê-hô-va. 7 Lễ vật thiêu sẽ được dâng chung với rượu tế lễ, tức một phần tư hin rượu cho mỗi con cừu đực con.+ Hãy đổ rượu trong nơi thánh để làm rượu tế lễ dâng cho Đức Giê-hô-va. 8 Ngươi sẽ dâng con cừu đực kia vào lúc chạng vạng tối.* Hãy dâng nó chung với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ như đã dâng vào buổi sáng, để làm lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu dâng cho Đức Giê-hô-va.+
9 Tuy nhiên, vào ngày Sa-bát+ thì lễ vật sẽ là hai con cừu đực con khỏe mạnh một năm tuổi và hai phần mười ê-pha bột mịn trộn dầu để làm lễ vật ngũ cốc, cùng với rượu tế lễ của lễ vật. 10 Đó là lễ vật thiêu cho ngày Sa-bát, ngoài lễ vật thiêu hằng dâng và rượu tế lễ của nó.+
11 Mỗi đầu tháng, các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va một lễ vật thiêu là hai con bò đực tơ, một con cừu đực và bảy con cừu đực con khỏe mạnh một năm tuổi,+ 12 cùng với ba phần mười ê-pha bột mịn trộn dầu để làm lễ vật ngũ cốc+ cho mỗi con bò đực, hai phần mười ê-pha bột mịn trộn dầu để làm lễ vật ngũ cốc cho con cừu đực+ 13 và một phần mười ê-pha bột mịn trộn dầu làm lễ vật ngũ cốc cho mỗi con cừu đực con. Các ngươi hãy dâng chúng để làm lễ vật thiêu, một hương thơm dễ chịu,+ một lễ vật hỏa tế dâng cho Đức Giê-hô-va. 14 Rượu tế lễ của chúng sẽ là nửa hin rượu cho một con bò đực,+ một phần ba hin cho con cừu đực+ và một phần tư hin cho một con cừu đực con.+ Đó là lễ vật thiêu được dâng mỗi tháng một lần trong suốt năm. 15 Ngoài lễ vật thiêu hằng dâng cùng rượu tế lễ của nó, các ngươi cũng phải dâng cho Đức Giê-hô-va một con dê con làm lễ vật chuộc tội.
16 Vào tháng thứ nhất, ngày 14 của tháng sẽ là Lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va.+ 17 Ngày 15 của tháng sẽ có một kỳ lễ. Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày.+ 18 Ngày đầu tiên sẽ có một cuộc hội họp thánh. Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào. 19 Các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va lễ vật hỏa tế là hai con bò đực tơ, một con cừu đực và bảy con cừu đực con một năm tuổi. Các ngươi phải dâng những con vật khỏe mạnh.+ 20 Hãy dâng chúng cùng với lễ vật ngũ cốc của chúng là bột mịn trộn dầu,+ ba phần mười ê-pha cho một con bò đực và hai phần mười ê-pha cho con cừu đực. 21 Đối với bảy con cừu đực con, hãy dâng một phần mười ê-pha bột mịn trộn dầu cho mỗi con; 22 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội cho các ngươi. 23 Ngoài lễ vật thiêu được dâng vào buổi sáng thuộc về lễ vật thiêu hằng dâng, các ngươi sẽ dâng những con vật ấy. 24 Mỗi ngày trong bảy ngày, các ngươi phải dâng thức ăn, tức lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu cho Đức Giê-hô-va. Nó phải được dâng cùng với lễ vật thiêu hằng dâng và rượu tế lễ. 25 Vào ngày thứ bảy, các ngươi phải giữ một cuộc hội họp thánh.+ Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào.+
26 Vào ngày dâng thổ sản chín đầu mùa,+ khi các ngươi dâng lễ vật ngũ cốc mới cho Đức Giê-hô-va+ thì phải giữ một cuộc hội họp thánh trong Lễ Các Tuần.+ Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào.+ 27 Các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va một lễ vật thiêu có hương thơm dễ chịu là hai con bò đực tơ, một con cừu đực cùng bảy con cừu đực con một năm tuổi,+ 28 và lễ vật ngũ cốc của chúng là bột mịn trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho mỗi con bò đực, hai phần mười ê-pha cho con cừu đực 29 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số bảy con cừu đực con; 30 cũng hãy dâng một con dê con để chuộc tội cho các ngươi.+ 31 Các ngươi sẽ dâng những con vật ấy ngoài lễ vật thiêu hằng dâng và lễ vật ngũ cốc của nó. Đó phải là những con vật khỏe mạnh+ và phải được dâng cùng với rượu tế lễ của chúng.
29 Vào tháng thứ bảy, nhằm ngày mùng một, các ngươi phải giữ một cuộc hội họp thánh. Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào.+ Đó là ngày mà các ngươi phải thổi kèn.+ 2 Các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va một lễ vật thiêu có hương thơm dễ chịu là một con bò đực tơ, một con cừu đực và bảy con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh, 3 cùng lễ vật ngũ cốc của chúng là bột mịn trộn dầu, ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho con cừu đực 4 và một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số bảy con cừu đực con. 5 Cũng hãy dâng một con dê đực con làm lễ vật chuộc tội cho các ngươi. 6 Đó là những vật phải dâng ngoài lễ vật thiêu mỗi tháng và lễ vật ngũ cốc của nó,+ lễ vật thiêu hằng dâng và lễ vật ngũ cốc của nó,+ cùng với rượu tế lễ của chúng+ theo thông lệ, để làm một hương thơm dễ chịu, một lễ vật hỏa tế dâng cho Đức Giê-hô-va.
7 Vào ngày mùng mười của tháng thứ bảy, các ngươi phải giữ một cuộc hội họp thánh+ và tỏ ra hối lỗi.* Các ngươi không được làm bất cứ công việc nào.+ 8 Các ngươi sẽ dâng một con bò đực tơ, một con cừu đực và bảy con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ để làm một lễ vật thiêu có hương thơm dễ chịu cho Đức Giê-hô-va. 9 Lễ vật ngũ cốc làm từ bột mịn trộn dầu của chúng là ba phần mười ê-pha cho con bò đực, hai phần mười ê-pha cho con cừu đực, 10 một phần mười ê-pha cho mỗi con trong số bảy con cừu đực con; 11 cũng hãy dâng một con dê con làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật dành cho ngày chuộc tội,+ lễ vật thiêu hằng dâng và lễ vật ngũ cốc của nó cùng với rượu tế lễ của chúng.
12 Vào ngày 15 của tháng thứ bảy, các ngươi phải giữ một cuộc hội họp thánh. Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào, và phải cử hành một kỳ lễ cho Đức Giê-hô-va trong bảy ngày.+ 13 Các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va lễ vật thiêu,+ tức lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu là 13 con bò đực tơ, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh.+ 14 Lễ vật ngũ cốc làm từ bột mịn trộn dầu của chúng là ba phần mười ê-pha cho mỗi con trong 13 con bò đực, hai phần mười ê-pha cho mỗi con trong 2 con cừu đực, 15 một phần mười ê-pha cho mỗi con trong 14 con cừu đực con; 16 cũng hãy dâng một con dê con làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
17 Vào ngày thứ hai, hãy dâng 12 con bò đực tơ, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 18 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 19 cũng hãy dâng một con dê con làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc cùng với rượu tế lễ của chúng.+
20 Vào ngày thứ ba, hãy dâng 11 con bò đực, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 21 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 22 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
23 Vào ngày thứ tư, hãy dâng 10 con bò đực, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 24 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 25 cũng hãy dâng một con dê con làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
26 Vào ngày thứ năm, hãy dâng 9 con bò đực, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 27 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 28 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
29 Vào ngày thứ sáu, hãy dâng 8 con bò đực, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 30 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 31 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
32 Vào ngày thứ bảy, hãy dâng 7 con bò đực, 2 con cừu đực và 14 con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 33 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho những con bò đực, cừu đực và cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 34 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
35 Vào ngày thứ tám, các ngươi phải giữ một kỳ nhóm họp trọng thể. Các ngươi không được làm bất cứ công việc khó nhọc nào.+ 36 Các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va lễ vật thiêu, tức lễ vật hỏa tế có hương thơm dễ chịu là một con bò đực, một con cừu đực và bảy con cừu đực con một năm tuổi, tất cả đều phải khỏe mạnh,+ 37 cùng với lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ dành cho con bò đực, cừu đực và các con cừu đực con theo số lượng và thông lệ; 38 cũng hãy dâng một con dê làm lễ vật chuộc tội. Các ngươi phải dâng những lễ vật đó ngoài lễ vật thiêu hằng dâng, lễ vật ngũ cốc và rượu tế lễ của nó.+
39 Đó là những điều các ngươi sẽ dâng cho Đức Giê-hô-va vào những kỳ lễ được ấn định,+ ngoài những lễ vật hứa nguyện+ và tự nguyện+ dùng làm lễ vật thiêu,+ lễ vật ngũ cốc,+ rượu tế lễ+ và vật tế lễ hòa thuận’”.+ 40 Rồi Môi-se thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình.
30 Sau đó, Môi-se nói với những người đứng đầu+ các chi phái Y-sơ-ra-ên rằng: “Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền dặn: 2 Nếu một người nam hứa nguyện+ với Đức Giê-hô-va hoặc thề+ sẽ buộc mình vào một lời hứa nguyện kiêng cữ thì người đó không được vi phạm lời mình đã hứa.+ Người phải làm mọi điều đã hứa.+
3 Trong trường hợp một người nữ còn trẻ, đang sống tại nhà cha mình mà hứa nguyện với Đức Giê-hô-va hoặc buộc mình vào một lời hứa nguyện kiêng cữ, 4 nếu cha cô nghe những lời hứa nguyện mà cô đã buộc mình và ông không phản đối thì mọi lời hứa nguyện của cô vẫn có hiệu lực, mọi lời hứa nguyện kiêng cữ mà cô đã buộc mình vẫn có hiệu lực. 5 Nhưng nếu người cha cấm khi nghe rằng cô đã buộc mình vào những lời hứa nguyện thì chúng sẽ không còn hiệu lực nữa. Đức Giê-hô-va sẽ tha thứ cho cô vì cha cô đã cấm cô.+
6 Nếu một người nữ lấy chồng trong khi vẫn còn buộc mình vào lời hứa nguyện hoặc lời hứa hấp tấp, 7 và chồng cô nghe điều đó nhưng không phản đối vào ngày mà ông nghe, thì những lời hứa nguyện mà cô đã buộc mình vẫn có hiệu lực. 8 Nhưng nếu người chồng cấm cô vào ngày ông nghe về lời hứa đó thì ông có thể hủy bỏ lời hứa nguyện hoặc lời hứa hấp tấp mà cô đã buộc mình,+ và Đức Giê-hô-va sẽ tha thứ cho cô.
9 Nhưng nếu một người đàn bà góa chồng hoặc đã ly dị lập lời hứa nguyện thì mọi điều người đã buộc mình sẽ luôn theo người.
10 Nếu một người nữ buộc mình vào lời hứa nguyện hoặc lời hứa nguyện kiêng cữ trong khi vẫn còn ở nhà chồng, 11 và chồng cô biết điều đó nhưng không phản đối hay bác bỏ thì mọi lời hứa nguyện mà cô đã buộc mình vẫn có hiệu lực. 12 Nhưng nếu vào ngày người chồng nghe điều đó, ông hủy bỏ hoàn toàn mọi lời hứa nguyện hoặc lời hứa nguyện kiêng cữ mà vợ đã thề thì chúng sẽ không còn hiệu lực.+ Vì người chồng đã hủy bỏ chúng nên Đức Giê-hô-va sẽ tha thứ cho người nữ đó. 13 Về bất cứ lời hứa nguyện hoặc lời thề có liên quan đến lời hứa nguyện kiêng cữ hay thực hành khổ hạnh thì người chồng phải chấp thuận hoặc hủy bỏ nó. 14 Nhưng nếu từ ngày này sang ngày khác mà người chồng không hề đưa ra lời phản đối nào thì ông đã chấp thuận mọi lời hứa nguyện hoặc lời hứa nguyện kiêng cữ của vợ. Vì không phản đối khi nghe vợ lập những lời hứa nguyện ấy nên ông đã chấp thuận chúng. 15 Nhưng nếu sau đó người chồng hủy bỏ chúng, tức là một thời gian sau khi đã nghe những lời hứa nguyện ấy, thì ông sẽ gánh chịu hậu quả từ tội lỗi của vợ”.+
16 Đó là những điều lệ mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se liên quan đến người chồng và người vợ, cha và con gái còn trẻ đang sống trong nhà.
31 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 “Hãy vì dân Y-sơ-ra-ên mà báo thù+ dân Ma-đi-an.+ Sau việc này, con sẽ an giấc cùng tổ phụ”.*+
3 Vậy, Môi-se nói với dân chúng rằng: “Hãy trang bị cho những người nam trong vòng anh em để tranh chiến với dân Ma-đi-an và thi hành sự báo thù của Đức Giê-hô-va trên dân Ma-đi-an. 4 Trong tất cả các chi phái Y-sơ-ra-ên, mỗi chi phái hãy cử ra 1.000 người vào quân đội”. 5 Từ hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên,+ 1.000 người từ mỗi chi phái đã được cử đi, tổng cộng có 12.000 người được trang bị cho chiến trận.
6 Sau đó, Môi-se gửi họ vào quân đội, tức là 1.000 người từ mỗi chi phái, cùng với thầy tế lễ của quân đội là Phi-nê-a+ con trai Ê-lê-a-xa. Phi-nê-a cầm trong tay các vật dụng thánh và kèn hiệu lệnh.+ 7 Họ tiến hành cuộc chiến chống lại dân Ma-đi-an, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, và giết mọi người nam. 8 Trong số những kẻ bị giết có năm vua của Ma-đi-an là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Họ cũng dùng gươm giết Ba-la-am+ con trai Bê-ô. 9 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bắt giữ phụ nữ và trẻ em Ma-đi-an. Họ cũng cướp lấy tất cả súc vật, cùng mọi vật thuộc về dân ấy. 10 Họ đốt tất cả thành mà dân Ma-đi-an sinh sống và các trại của chúng. 11 Dân Y-sơ-ra-ên lấy mọi chiến lợi phẩm và mọi của cướp, cả người lẫn thú vật. 12 Rồi họ mang những người bắt được, của cướp và chiến lợi phẩm đến cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa cùng dân Y-sơ-ra-ên đang đóng trại trong hoang mạc Mô-áp,+ gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô.
13 Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa cùng tất cả thủ lĩnh của dân chúng đi ra ngoài trại để gặp họ. 14 Nhưng Môi-se nổi giận với những người được bổ nhiệm trong lực lượng chiến đấu, tức là những người dẫn đầu của ngàn người và của trăm người, là những người trở về từ chiến trận. 15 Môi-se nói với họ: “Anh em tha mạng cho tất cả phụ nữ sao? 16 Kìa! Chúng là những kẻ đã làm theo lời Ba-la-am, xui dân Y-sơ-ra-ên phạm tội bất trung+ với Đức Giê-hô-va trong vụ việc liên quan đến Phê-ô,+ để rồi tai họa giáng trên dân của Đức Giê-hô-va.+ 17 Bây giờ, hãy giết hết những đứa con trai trong vòng bọn trẻ và mọi người nữ đã quan hệ với đàn ông. 18 Nhưng anh em có thể giữ lại những cô gái trẻ chưa quan hệ với đàn ông.+ 19 Anh em phải đóng trại bên ngoài trại của dân chúng trong bảy ngày. Những ai trong vòng anh em đã giết người và những ai đã chạm vào người bị giết+ thì phải tẩy uế mình+ vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, cả những người mà anh em bắt cũng vậy. 20 Hãy tẩy sạch quần áo mình cùng mọi thứ bằng da, mọi thứ bằng lông dê và mọi thứ bằng gỗ”.
21 Sau đó, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa nói với những người nam trong quân đội đã ra trận rằng: “Đây là luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se: 22 ‘Chỉ có vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc và chì, 23 tức những thứ có thể chịu được lửa, thì các ngươi phải đưa qua lửa, và chúng sẽ được tinh sạch. Tuy nhiên, cũng phải dùng nước tẩy uế để tẩy sạch chúng.+ Những thứ không chịu được lửa thì các ngươi phải đưa qua nước tẩy uế. 24 Các ngươi phải giặt quần áo mình vào ngày thứ bảy và sẽ được tinh sạch, rồi các ngươi mới có thể vào trại’”.+
25 Đức Giê-hô-va phán điều này với Môi-se: 26 “Hãy kiểm kê chiến lợi phẩm và đếm số người lẫn thú vật đã bắt được; con hãy làm điều đó cùng thầy tế lễ Ê-lê-a-xa và những người đứng đầu các dòng tộc trong dân chúng. 27 Hãy chia chiến lợi phẩm thành hai phần, một phần cho những người đã ra trận và một phần cho dân chúng.+ 28 Từ phần dành cho quân lính đã ra trận, con hãy lấy một phần để làm thuế dâng cho Đức Giê-hô-va: một người* trong 500 người bắt được, một con trong 500 con bò, lừa và cừu. 29 Hãy lấy chúng từ phần của họ và đưa cho thầy tế lễ Ê-lê-a-xa để làm phần đóng góp thuộc về Đức Giê-hô-va.+ 30 Hãy lấy từ phần dành cho dân Y-sơ-ra-ên một người trong 50 người, một con trong 50 con bò, lừa, cừu cùng mọi loại súc vật bắt được, rồi đưa chúng cho người Lê-vi,+ là những người chăm lo các công việc liên quan đến lều thánh của Đức Giê-hô-va”.+
31 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-xa làm đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 32 Phần còn lại của chiến lợi phẩm mà dân chúng đoạt được từ cuộc chiến là 675.000 con cừu và dê, 33 72.000 con bò 34 và 61.000 con lừa. 35 Số người nữ chưa quan hệ với đàn ông+ là 32.000 người. 36 Phần được chia cho những người ra trận là 337.500 con cừu và dê. 37 Số cừu và dê dùng làm thuế dâng cho Đức Giê-hô-va là 675 con. 38 Có 36.000 con bò, 72 con trong số đó được dùng làm thuế dâng cho Đức Giê-hô-va. 39 Có 30.500 con lừa, 61 con trong số đó được dùng làm thuế dâng cho Đức Giê-hô-va. 40 Có 16.000 người, 32 người trong số đó được dùng làm thuế dâng cho Đức Giê-hô-va. 41 Sau đó, Môi-se giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-xa phần thuế làm phần đóng góp thuộc về Đức Giê-hô-va,+ đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
42 Một nửa thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là phần mà Môi-se đã tách khỏi phần dành cho những người đã ra trận, là: 43 337.500 con cừu và dê, 44 36.000 con bò, 45 30.500 con lừa 46 và 16.000 người. 47 Kế đến, Môi-se lấy từ phần thuộc về dân Y-sơ-ra-ên một người trong 50 người và một con trong 50 con vật, rồi giao chúng cho người Lê-vi,+ là những người chăm lo các công việc tại lều thánh+ của Đức Giê-hô-va, đúng như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
48 Sau đó, những người được bổ nhiệm trên ngàn người trong quân đội,+ tức là những người dẫn đầu của ngàn người và của trăm người, đến gặp Môi-se 49 mà nói rằng: “Chúng tôi, là tôi tớ của ông, đã đếm những chiến binh ở dưới quyền mình, không một ai bị báo cáo là mất tích.+ 50 Hãy để mỗi người trong chúng tôi dâng những vật mình tìm thấy để làm lễ vật cho Đức Giê-hô-va, tức là những đồ bằng vàng, lắc đeo chân, vòng đeo tay, nhẫn đóng dấu, bông tai và những đồ trang sức khác, để chuộc tội cho chúng tôi trước mặt Đức Giê-hô-va”.
51 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-xa nhận từ họ vàng, tức mọi thứ trang sức. 52 Tổng số vàng mà những người dẫn đầu của ngàn người và của trăm người đóng góp cho Đức Giê-hô-va là 16.750 siếc-lơ.* 53 Mỗi người nam trong quân đội đều đã lấy chiến lợi phẩm cho mình. 54 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-xa nhận lấy vàng từ những người dẫn đầu của ngàn người và của trăm người, rồi mang vào lều hội họp để làm một sự nhắc nhở cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Giê-hô-va.
32 Con cháu Ru-bên+ và con cháu Gát+ có bầy súc vật rất đông. Họ thấy vùng Gia-ê-xe+ và Ga-la-át là những vùng đất tốt cho bầy súc vật. 2 Vậy, con cháu Gát và con cháu Ru-bên đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-xa cùng các thủ lĩnh của dân chúng và nói rằng: 3 “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn,+ Ê-lê-a-lê, Sê-bam, Nê-bô+ và Bê-ôn+ 4 thuộc vùng đất mà Đức Giê-hô-va đã đánh bại trước mặt dân Y-sơ-ra-ên,+ ấy là một vùng đất tốt cho bầy súc vật, và chúng tôi là tôi tớ của ông lại có rất nhiều súc vật”.+ 5 Họ nói tiếp: “Nếu chúng tôi được ơn trước mặt ông, xin giao vùng đất ấy cho chúng tôi làm sản nghiệp. Đừng bắt chúng tôi băng qua sông Giô-đanh”.
6 Môi-se nói với con cháu Gát và con cháu Ru-bên: “Các anh sẽ sinh sống tại đây trong khi anh em mình ra trận ư? 7 Sao các anh làm dân Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn vào vùng đất mà Đức Giê-hô-va chắc chắn sẽ ban cho họ? 8 Đó là điều cha ông các anh đã làm khi tôi phái họ từ Ca-đe-ba-nê-a đi xem vùng đất ấy.+ 9 Khi lên thung lũng Ếch-côn+ và nhìn thấy vùng đất ấy thì họ đã làm dân Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà Đức Giê-hô-va sẽ ban cho họ.+ 10 Cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi phừng lên vào ngày hôm đó và ngài thề+ rằng: 11 ‘Những người nam đã ra khỏi Ai Cập từ 20 tuổi trở lên sẽ không thấy xứ+ mà ta thề với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp,+ vì chúng không hết lòng theo ta, 12 ngoại trừ Ca-lép+ con trai Giê-phu-nê người Kê-nê-xít và Giô-suê+ con trai Nun, vì họ đã hết lòng theo Đức Giê-hô-va’.+ 13 Vậy, cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi phừng lên cùng dân Y-sơ-ra-ên và ngài bắt họ lang thang trong hoang mạc 40 năm,+ cho đến khi mọi kẻ thuộc thế hệ làm điều ác trong mắt Đức Giê-hô-va chết hết.+ 14 Bây giờ các anh lại trỗi dậy thế chỗ cha ông mình làm một đám người tội lỗi, khiến cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va đối với dân Y-sơ-ra-ên càng tăng thêm. 15 Nếu các anh quay lưng với ngài, chắc chắn ngài sẽ lại bỏ họ trong hoang mạc và các anh sẽ khiến tai vạ giáng trên cả dân tộc này”.
16 Sau đó, họ đến gần Môi-se và nói: “Hãy để chúng tôi xây tại nơi này những cái chuồng bằng đá cho bầy súc vật và những cái thành cho bọn trẻ. 17 Nhưng chúng tôi vẫn sẵn sàng ra trận+ và sẽ đi trước dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi đưa họ vào xứ của họ. Trong lúc đó, con cháu của chúng tôi sẽ sinh sống trong những thành kiên cố, tránh khỏi dân của xứ. 18 Chúng tôi sẽ không trở về nhà mình cho đến khi mỗi người Y-sơ-ra-ên nhận được đất làm phần thừa kế.+ 19 Chúng tôi sẽ không nhận phần thừa kế cùng với họ ở bên kia sông Giô-đanh và cả những vùng xa hơn nữa, vì chúng tôi đã nhận phần thừa kế của mình ở bên này, tức là phía đông của sông Giô-đanh”.+
20 Môi-se đáp cùng họ: “Nếu các anh làm điều này: cầm vũ khí sẵn sàng ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va,+ 21 mỗi người trong các anh cầm vũ khí và băng qua sông Giô-đanh trước mặt Đức Giê-hô-va, trong lúc ngài đuổi kẻ thù khỏi trước mặt mình+ 22 cho đến khi xứ bị chinh phục trước mặt Đức Giê-hô-va+ thì sau đó các anh có thể trở về+ và không mắc tội trước mặt Đức Giê-hô-va cùng dân Y-sơ-ra-ên. Vùng đất này sẽ trở thành sản nghiệp của các anh trước mặt Đức Giê-hô-va.+ 23 Nhưng nếu các anh không làm điều đó thì các anh sẽ phạm tội nghịch lại Đức Giê-hô-va. Hãy biết rằng tội lỗi các anh sẽ theo các anh. 24 Vậy, các anh có thể xây thành cho con cháu mình và chuồng cho bầy súc vật,+ nhưng phải làm điều các anh đã hứa”.
25 Con cháu Gát và con cháu Ru-bên trả lời Môi-se: “Các tôi tớ ông sẽ làm đúng như lời ông, là chúa chúng tôi, đã truyền dặn. 26 Con cháu, vợ và bầy súc vật của chúng tôi sẽ ở trong các thành thuộc vùng Ga-la-át,+ 27 nhưng các tôi tớ ông sẽ băng qua sông, mọi người nam đều được trang bị để sẵn sàng ra trận trước mặt Đức Giê-hô-va,+ đúng như lời ông, là chúa chúng tôi, đã nói”.
28 Vậy, Môi-se truyền một mệnh lệnh liên quan đến họ cho thầy tế lễ Ê-lê-a-xa, Giô-suê con trai Nun, cùng những người đứng đầu dòng tộc trong các chi phái Y-sơ-ra-ên. 29 Môi-se nói với họ: “Nếu con cháu Gát và con cháu Ru-bên băng qua sông Giô-đanh cùng anh em, tức hết thảy những người nam được trang bị cho chiến trận trước mặt Đức Giê-hô-va, và xứ bị chinh phục trước mặt anh em thì anh em sẽ cho họ vùng Ga-la-át làm sản nghiệp.+ 30 Nhưng nếu họ không cầm vũ khí và không qua sông với anh em thì họ sẽ sinh sống với anh em trong xứ Ca-na-an”.
31 Con cháu Gát và con cháu Ru-bên đáp: “Những gì Đức Giê-hô-va truyền dặn tôi tớ ông thì tôi tớ ông sẽ làm. 32 Chúng tôi sẽ cầm vũ khí và qua sông trước mặt Đức Giê-hô-va để đến xứ Ca-na-an,+ nhưng sản nghiệp mà chúng tôi thừa kế sẽ ở bên này sông Giô-đanh”. 33 Vậy, Môi-se giao vương quốc của Si-hôn+ vua dân A-mô-rít, và vương quốc của Óc+ vua Ba-san, cùng vùng đất thuộc về các thành trong lãnh thổ của hai vua ấy và các thành thuộc vùng xung quanh cho con cháu Gát, con cháu Ru-bên+ và một nửa chi phái Ma-na-se,+ là con trai Giô-sép.
34 Con cháu Gát xây thành Đi-bôn,+ A-ta-rốt,+ A-rô-e,+ 35 Ạt-rốt-sô-phan, Gia-ê-xe,+ Giô-bê-ha,+ 36 Bết-nim-ra+ và Bết-ha-ran,+ là những thành kiên cố. Họ cũng xây các chuồng có hàng rào bằng đá cho bầy súc vật. 37 Con cháu Ru-bên xây thành Hết-bôn,+ Ê-lê-a-lê,+ Ki-ri-át-a-im,+ 38 Nê-bô,+ Ba-anh-mê-ôn+—tên các thành đã được thay đổi—và Síp-ma; họ bắt đầu đổi tên cho những thành đã xây lại.
39 Con cháu Ma-ki-rơ,+ con của Ma-na-se, tiến quân đến vùng Ga-la-át, chiếm lấy nó và đuổi dân A-mô-rít ở đó đi. 40 Vậy, Môi-se giao vùng Ga-la-át cho con cháu Ma-ki-rơ, con của Ma-na-se, và họ bắt đầu sinh sống tại đó.+ 41 Giai-rơ, thuộc chi phái Ma-na-se, tiến quân và chiếm những khu trại trong vùng Ga-la-át, ông gọi chúng là Ha-vô-giai-rơ.*+ 42 Nô-bách tiến quân và chiếm Kê-nát cùng các thành phụ cận;* ông gọi nó là Nô-bách theo tên của mình.
33 Sau đây là những chặng đường trong cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, kể từ khi họ ra khỏi Ai Cập+ theo từng đoàn+ dưới sự hướng dẫn của Môi-se và A-rôn.+ 2 Trong chuyến hành trình, Môi-se ghi lại những nơi họ đã nhổ trại theo lệnh của Đức Giê-hô-va, và đây là những chặng đường từ nơi nhổ trại này đến nơi nhổ trại khác:+ 3 Vào tháng đầu tiên,+ nhằm ngày 15, họ rời Ram-se.+ Ngay sau ngày Lễ Vượt Qua,+ dân Y-sơ-ra-ên ra đi cách hiên ngang trước mắt toàn thể dân Ai Cập. 4 Trong lúc đó, dân Ai Cập đang chôn mọi con đầu lòng mà Đức Giê-hô-va đã giết ở giữa họ,+ vì Đức Giê-hô-va đã thi hành án phạt trên các thần của họ.+
5 Dân Y-sơ-ra-ên rời Ram-se và đóng trại ở Su-cốt.+ 6 Sau đó, họ rời Su-cốt và đóng trại ở Ê-tham,+ cạnh ranh giới của hoang mạc. 7 Kế đến, họ rời Ê-tham, quay về hướng Phi-ha-hi-rốt, là nơi đối diện Ba-anh-xê-phôn,+ rồi đóng trại trước Mít-đôn.+ 8 Tiếp theo, họ rời Phi-ha-hi-rốt, băng qua biển+ đến hoang mạc+ và đi một chuyến hành trình ba ngày đường trong hoang mạc Ê-tham,+ rồi hạ trại ở Ma-ra.+
9 Sau đó, họ rời Ma-ra và đi đến Ê-lim. Ê-lim là nơi có 12 dòng suối và 70 cây chà là, vậy nên họ hạ trại tại đó.+ 10 Kế đến, họ rời Ê-lim và đóng trại gần Biển Đỏ. 11 Tiếp theo, họ rời Biển Đỏ và đóng trại trong hoang mạc Sin.+ 12 Từ hoang mạc Sin, họ rời đi và đóng trại ở Đáp-ca. 13 Sau đó, họ rời Đáp-ca và đóng trại ở A-lúc. 14 Rồi họ rời A-lúc và đóng trại ở Rê-phi-đim,+ là nơi không có nước cho dân chúng uống. 15 Kế đến, họ rời Rê-phi-đim và đóng trại trong hoang mạc Si-nai.+
16 Họ rời hoang mạc Si-nai và đóng trại ở Kíp-rốt-ha-tha-va.+ 17 Từ Kíp-rốt-ha-tha-va, họ rời đi và đóng trại ở Hát-xê-rốt.+ 18 Kế đến, họ rời Hát-xê-rốt và đóng trại ở Rít-ma. 19 Rồi họ rời Rít-ma và đóng trại ở Rim-môn-phê-rết. 20 Từ Rim-môn-phê-rết, họ rời đi và đóng trại ở Líp-na. 21 Họ rời Líp-na và đóng trại ở Ri-sa. 22 Tiếp theo, họ rời Ri-sa và đóng trại ở Kê-hê-la-tha. 23 Từ Kê-hê-la-tha, họ rời đi và đóng trại ở núi Sê-phe.
24 Sau đó, họ rời núi Sê-phe và đóng trại ở Ha-ra-đa. 25 Kế đến, họ rời Ha-ra-đa và đóng trại ở Mác-hê-lốt. 26 Từ Mác-hê-lốt, họ rời đi+ và đóng trại ở Ta-hát. 27 Tiếp theo, họ rời Ta-hát và đóng trại ở Tha-rê. 28 Rồi từ Tha-rê, họ rời đi và đóng trại ở Mít-ga. 29 Sau đó, họ rời Mít-ga và đóng trại ở Hách-mô-na. 30 Từ Hách-mô-na, họ rời đi và đóng trại ở Mô-sê-rốt. 31 Kế đến, họ rời Mô-sê-rốt và đóng trại ở Bên-gia-can.+ 32 Từ Bên-gia-can, họ rời đi và đóng trại ở Hô-ghi-gát. 33 Rồi từ Hô-ghi-gát, họ rời đi và đóng trại ở Giô-ba-tha.+ 34 Tiếp theo, họ rời Giô-ba-tha và đóng trại ở Áp-rô-na. 35 Từ Áp-rô-na, họ rời đi và đóng trại ở Ê-xi-ôn-ghê-be.+ 36 Kế đến, họ rời Ê-xi-ôn-ghê-be và đóng trại trong hoang mạc Xin,+ tức là tại Ca-đe.
37 Sau đó, họ rời Ca-đe và đóng trại tại núi Hô-rơ,+ trên vùng ranh giới của xứ Ê-đôm. 38 Năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, vào tháng thứ năm, nhằm ngày mùng một, thầy tế lễ A-rôn đã lên núi Hô-rơ theo lệnh Đức Giê-hô-va và ông qua đời tại đó.+ 39 A-rôn được 123 tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ.
40 Bấy giờ, vua người Ca-na-an của thành A-rát,+ đang sống tại vùng Nê-ghép thuộc xứ Ca-na-an, hay tin dân Y-sơ-ra-ên đã đến.
41 Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên rời núi Hô-rơ+ và đóng trại ở Xa-mô-na. 42 Tiếp theo, họ rời Xa-mô-na và đóng trại ở Phu-nôn. 43 Rồi từ Phu-nôn, họ rời đi và đóng trại ở Ô-bốt.+ 44 Kế đến, họ rời Ô-bốt và đóng trại ở Y-giê-a-ba-rim, cạnh biên giới của xứ Mô-áp.+ 45 Sau đó, họ rời Y-giê và đóng trại ở Đi-bôn-gát.+ 46 Từ Đi-bôn-gát, họ rời đi và đóng trại ở Anh-môn-đíp-la-tha-im. 47 Rồi họ rời Anh-môn-đíp-la-tha-im và đóng trại đối diện Nê-bô,+ tại vùng núi A-ba-rim.+ 48 Cuối cùng, họ rời vùng núi A-ba-rim và đóng trại trong hoang mạc Mô-áp, gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô.+ 49 Rồi họ tiếp tục đóng trại cạnh sông Giô-đanh, từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên-si-tim+ trong hoang mạc Mô-áp.
50 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trong hoang mạc Mô-áp, gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô: 51 “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Các ngươi sẽ băng qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an.+ 52 Các ngươi phải đuổi hết dân ở đó khỏi trước mặt mình, hãy phá hủy các tượng đá+ cùng tượng đúc+ và phá đổ các nơi thánh trên cao của chúng.+ 53 Các ngươi sẽ chiếm lấy xứ và sinh sống tại đó, vì ta chắc chắn sẽ ban xứ ấy cho các ngươi làm sản nghiệp.+ 54 Đất sẽ được chia bằng cách bắt thăm+ để làm phần sản nghiệp cho các gia tộc của các ngươi. Đối với nhóm lớn thì các ngươi phải tăng phần thừa kế, còn đối với nhóm nhỏ hơn thì hãy giảm phần thừa kế.+ Mọi người sẽ nhận phần thừa kế theo thăm bắt được. Các ngươi sẽ nhận tài sản để làm phần thừa kế theo chi phái của cha ông mình.+
55 Tuy nhiên, nếu các ngươi không đuổi dân ở đó khỏi trước mặt mình+ thì những kẻ mà các ngươi chừa lại sẽ trở thành gai trong mắt và vật nhọn xóc vào hông các ngươi, chúng sẽ quấy rối các ngươi tại xứ mà các ngươi sinh sống.+ 56 Và ta sẽ phạt các ngươi như điều ta định phạt chúng’”.+
34 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: 2 “Hãy truyền những chỉ thị này cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Khi các ngươi vào xứ Ca-na-an+ thì đây là những ranh giới của xứ mà các ngươi sẽ nhận làm phần thừa kế.+
3 Ranh giới phía nam của các ngươi sẽ trải dài từ hoang mạc Xin, dọc theo Ê-đôm. Phần phía đông của ranh giới ấy sẽ bắt đầu từ tận cùng của Biển Muối.*+ 4 Nó sẽ đổi hướng, đi qua phía nam của dốc Ạc-ráp-bim+ và tiếp tục đến Xin, điểm kết thúc là phía nam của Ca-đe-ba-nê-a,+ rồi trải dài tới Hát-xa-át-đa+ và Át-môn. 5 Ranh giới ấy sẽ chuyển hướng tại Át-môn tới suối cạn* Ai Cập và đến tận Biển Lớn.*+
6 Ranh giới phía tây của các ngươi sẽ là bờ của Biển Lớn.* Đó sẽ là ranh giới phía tây của các ngươi.+
7 Đây sẽ là ranh giới phía bắc của các ngươi: Các ngươi sẽ đánh dấu ranh giới của mình từ Biển Lớn đến núi Hô-rơ, 8 từ núi Hô-rơ đến Lê-bô-ha-mát*+ và kéo dài đến Xê-đát.+ 9 Ranh giới phía bắc sẽ trải dài đến Xíp-rôn và điểm kết thúc của nó là Hát-xa-ê-nan.+ Đó sẽ là ranh giới phía bắc của các ngươi.
10 Sau đó, các ngươi hãy đánh dấu ranh giới phía đông của mình từ Hát-xa-ê-nan đến Sê-pham. 11 Ranh giới ấy sẽ trải dài từ Sê-pham đến Ríp-la ở phía đông của A-in, rồi nó sẽ đi xuống và qua dốc phía đông của biển Ki-nê-rết.*+ 12 Ranh giới phía đông sẽ trải dài đến sông Giô-đanh và điểm kết thúc của nó là Biển Muối.+ Đó sẽ là xứ và những ranh giới của các ngươi’”.+
13 Vậy, Môi-se ra chỉ thị cho dân Y-sơ-ra-ên: “Đó là xứ mà anh em sẽ phân chia bằng cách bắt thăm để làm sản nghiệp cho mình,+ chúng sẽ được ban cho chín chi phái và một nửa chi phái, đúng như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn. 14 Đối với chi phái Ru-bên theo dòng tộc, chi phái Gát theo dòng tộc và một nửa chi phái Ma-na-se, họ đã nhận phần thừa kế của mình rồi.+ 15 Hai chi phái và một nửa chi phái đó đã nhận phần thừa kế ở phía đông vùng Giô-đanh gần thành Giê-ri-cô, tức là hướng mặt trời mọc”.+
16 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se: 17 “Đây là tên những người nam sẽ phân chia đất cho các ngươi: thầy tế lễ Ê-lê-a-xa+ và Giô-suê+ con trai Nun. 18 Một thủ lĩnh từ mỗi chi phái sẽ phân chia đất cho các ngươi làm phần thừa kế.+ 19 Đây là tên của những người đó: Ca-lép+ con trai Giê-phu-nê, thuộc chi phái Giu-đa;+ 20 Sê-mu-ên con trai A-mi-hút, thuộc chi phái của con cháu Si-mê-ôn;+ 21 Ê-li-đát con trai Kít-lon, thuộc chi phái Bên-gia-min;+ 22 Bu-ki con trai Giốc-li, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Đan;+ 23 về con cháu Giô-sép+ có Ha-ni-ên con trai Ê-phát, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Ma-na-se,+ 24 và Kê-mu-ên con trai Síp-tan, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Ép-ra-im;+ 25 Ê-li-xa-phan con trai Phác-nát, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Xê-bu-lôn;+ 26 Pha-ti-ên con trai A-xan, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Y-sa-ca;+ 27 A-hi-hút con trai Se-lu-mi, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu A-se;+ 28 Phê-đa-ên con trai A-mi-hút, một thủ lĩnh thuộc chi phái của con cháu Nép-ta-li”.+ 29 Đó là tên của những người mà Đức Giê-hô-va đã truyền dặn để phân bổ đất cho dân Y-sơ-ra-ên trong xứ Ca-na-an.+
35 Đức Giê-hô-va phán tiếp với Môi-se trong hoang mạc Mô-áp, gần sông Giô-đanh+ ở Giê-ri-cô: 2 “Hãy chỉ thị cho dân Y-sơ-ra-ên giao cho người Lê-vi các thành được lấy từ phần thừa kế để người Lê-vi ở,+ cũng phải giao cho người Lê-vi những đồng cỏ xung quanh các thành.+ 3 Người Lê-vi sẽ ở trong các thành, còn những đồng cỏ thì dành cho bầy súc vật của họ cùng mọi thú vật khác, đó cũng là nơi đặt những thứ dùng cho bầy súc vật. 4 Đồng cỏ của những thành mà các ngươi giao cho người Lê-vi sẽ trải dài 1.000 cu-bít,* tính từ tường bao quanh thành. 5 Bên ngoài thành, các ngươi phải đo 2.000 cu-bít ở mặt phía đông, 2.000 cu-bít ở mặt phía nam, 2.000 cu-bít ở mặt phía tây và 2.000 cu-bít ở mặt phía bắc, còn thành thì nằm ở giữa. Đó sẽ là những đồng cỏ của các thành thuộc về họ.
6 Các ngươi sẽ giao cho người Lê-vi 6 thành trú ẩn,+ tức là những thành mà người ngộ sát sẽ chạy đến trốn,+ cùng với 42 thành khác. 7 Các ngươi phải giao cho người Lê-vi tổng cộng 48 thành cùng đồng cỏ của các thành ấy.+ 8 Các thành mà các ngươi giao cho họ sẽ được lấy từ sản nghiệp của dân Y-sơ-ra-ên.+ Các ngươi hãy lấy nhiều từ nhóm lớn và lấy ít từ nhóm nhỏ hơn.+ Mỗi nhóm sẽ giao cho người Lê-vi một số thành tương ứng với phần thừa kế được nhận”.
9 Đức Giê-hô-va tiếp tục phán cùng Môi-se rằng: 10 “Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi sẽ băng qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an.+ 11 Hãy chọn những thành mà các ngươi thấy thuận tiện để làm thành trú ẩn. Đó là nơi người ngộ sát, tức người vô ý giết người, sẽ chạy đến trốn.+ 12 Những thành ấy sẽ là nơi trú ẩn của các ngươi, tránh khỏi người báo thù huyết,+ để người ngộ sát không chết trước khi được xét xử trước dân chúng.+ 13 Đó là mục đích của sáu thành trú ẩn mà các ngươi cung cấp. 14 Các ngươi sẽ cung cấp ba thành ở phía bên này sông Giô-đanh+ và ba thành trong xứ Ca-na-an+ để làm thành trú ẩn. 15 Sáu thành ấy sẽ là nơi trú ẩn cho dân Y-sơ-ra-ên, cho ngoại kiều+ và người trú ngụ ở giữa họ, cho bất kỳ ai chạy đến trốn vì đã vô ý giết người.+
16 Nhưng nếu một người dùng vật dụng bằng sắt đánh chết người khác thì đó là kẻ sát nhân. Kẻ đó chắc chắn phải bị xử tử.+ 17 Nếu một người cầm một cục đá có thể gây chết người và đánh chết người khác thì đó là kẻ sát nhân. Kẻ đó chắc chắn phải bị xử tử. 18 Nếu một người cầm một vật dụng bằng gỗ có thể gây chết người và đánh chết người khác thì đó là kẻ sát nhân. Kẻ đó chắc chắn phải bị xử tử.
19 Người báo thù huyết là người sẽ xử tử kẻ sát nhân. Khi gặp kẻ sát nhân thì chính người báo thù huyết sẽ xử tử hắn. 20 Nếu một người xô ngã người khác vì căm ghét, hoặc ném vật gì vào người khác với ác ý và gây ra cái chết,+ 21 hoặc vì căm ghét mà dùng tay đánh chết người khác, thì kẻ đánh chết người chắc chắn sẽ bị xử tử. Đó là kẻ sát nhân. Khi gặp kẻ đó thì người báo thù huyết sẽ xử tử hắn.
22 Nhưng nếu đó là chuyện bất ngờ và một người xô ngã người khác không phải vì căm ghét, hoặc ném vật gì vào người khác không phải với ác ý,+ 23 hoặc vì không thấy mà khiến một cục đá rơi trúng một người khác, và nếu người đó không phải là kẻ thù của nạn nhân hoặc không cố ý làm hại nạn nhân, trong trường hợp nạn nhân chết, 24 thì dân chúng phải xét xử giữa người gây ra cái chết và người báo thù huyết dựa vào những luật lệ trên.+ 25 Sau đó, dân chúng sẽ giải thoát người ngộ sát khỏi tay của người báo thù huyết và đưa người ngộ sát trở lại thành trú ẩn mà người đã chạy đến. Người ngộ sát phải ở trong thành đó cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm, là người được xức dầu bằng dầu thánh,+ qua đời.
26 Nhưng nếu người ngộ sát đi ra ngoài ranh giới của thành trú ẩn mà mình đã chạy vào 27 và người báo thù huyết tìm thấy người ngộ sát bên ngoài ranh giới của thành trú ẩn rồi giết đi thì người báo thù huyết không mắc tội đổ máu. 28 Người ngộ sát phải sống trong thành trú ẩn cho đến khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời. Sau khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời thì người ngộ sát có thể trở về mảnh đất của mình.+ 29 Trải qua các thế hệ ở bất cứ nơi nào các ngươi sống, đó sẽ là một luật lệ cho các ngươi để xét xử.
30 Hễ ai giết người thì phải bị xử tử vì là kẻ sát nhân+ theo lời của nhiều nhân chứng,+ nhưng không ai phải bị xử tử nếu chỉ dựa vào lời của một nhân chứng. 31 Các ngươi không được nhận giá chuộc mạng sống của kẻ sát nhân đáng chết. Kẻ đó chắc chắn phải bị xử tử.+ 32 Các ngươi không được nhận giá chuộc dành cho người đã chạy đến thành trú ẩn và cho phép người đó trở về sinh sống tại mảnh đất của mình trước khi thầy tế lễ thượng phẩm qua đời.
33 Các ngươi không được làm ô uế xứ mình sinh sống, vì máu làm ô uế xứ,+ và chỉ có máu của kẻ làm đổ máu mới có thể chuộc tội cho máu đã bị đổ ra trên đất.+ 34 Ngươi không được làm ô uế xứ mình sinh sống, là xứ mà ta đang ngự, vì ta, Đức Giê-hô-va, đang ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên’”.+
36 Những người đứng đầu các gia tộc của con cháu Ga-la-át, tức con trai Ma-ki-rơ,+ cháu Ma-na-se, chắt Giô-sép, đến gặp Môi-se cùng các thủ lĩnh, là những người đứng đầu các gia tộc của Y-sơ-ra-ên. 2 Họ nói: “Đức Giê-hô-va đã phán dặn chúa chúng tôi bắt thăm mà phân chia đất+ làm phần thừa kế cho dân Y-sơ-ra-ên; và Đức Giê-hô-va đã phán dặn chúa chúng tôi giao phần thừa kế của anh em chúng tôi là Xê-lô-phát cho các con gái người.+ 3 Nếu họ kết hôn với những người nam thuộc chi phái khác của dân Y-sơ-ra-ên thì phần thừa kế của những người nữ đó sẽ bị lấy khỏi phần thừa kế của cha ông chúng tôi và thêm vào phần thừa kế của chi phái mà họ sẽ thuộc về, vậy thì nó sẽ bị lấy khỏi phần thừa kế mà chúng tôi đã được phân chia bằng cách bắt thăm. 4 Khi Năm Tự Do+ đến với dân Y-sơ-ra-ên thì phần thừa kế của những người nữ đó vẫn được thêm vào phần thừa kế của chi phái mà họ sẽ thuộc về, vậy thì phần thừa kế của họ sẽ bị lấy khỏi phần thừa kế thuộc chi phái của cha ông chúng tôi”.
5 Sau đó, theo lời phán dặn của Đức Giê-hô-va, Môi-se ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chi phái của con cháu Giô-sép nói đúng. 6 Đây là lời phán dặn của Đức Giê-hô-va dành cho các con gái của Xê-lô-phát: ‘Họ có thể kết hôn với người nào mình muốn. Tuy nhiên, họ phải kết hôn với một người trong gia tộc thuộc chi phái của cha mình. 7 Không phần thừa kế nào trong dân Y-sơ-ra-ên được chuyển từ chi phái này sang chi phái khác, vì dân Y-sơ-ra-ên phải giữ phần thừa kế thuộc chi phái của tổ phụ mình. 8 Mọi người nữ có phần thừa kế giữa các chi phái của dân Y-sơ-ra-ên phải kết hôn với một người là con cháu thuộc chi phái của cha mình,+ để dân Y-sơ-ra-ên có thể giữ được phần thừa kế của tổ phụ mình. 9 Không phần thừa kế nào được chuyển từ chi phái này sang chi phái khác, vì các chi phái trong dân Y-sơ-ra-ên phải giữ phần thừa kế của mình’”.
10 Các con gái của Xê-lô-phát làm đúng như những gì Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.+ 11 Vậy, các con gái của Xê-lô-phát là Mách-la, Tiệt-xa, Hốt-la, Minh-ca và Nô-a+ kết hôn với các con trai của anh em cha mình. 12 Họ kết hôn với những người nam thuộc gia tộc Ma-na-se, là con trai Giô-sép, hầu cho phần thừa kế của họ vẫn thuộc về chi phái của cha mình.
13 Đó là những điều răn và phán quyết mà Đức Giê-hô-va ban cho dân Y-sơ-ra-ên qua Môi-se tại hoang mạc Mô-áp, gần sông Giô-đanh ở Giê-ri-cô.+
Ds: “Người lạ”, tức là người không thuộc chi phái Lê-vi.
Hay “theo từng đoàn bên cờ hiệu mình”.
Hay “canh giữ; thi hành trách nhiệm được giao tại”.
Ds: “người lạ”, tức là người nam không thuộc dòng họ A-rôn.
Ds: “Người lạ”, tức là người không thuộc chi phái Lê-vi.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Hay “theo siếc-lơ thánh”.
Một ghê-ra tương đương 0,57g. Xem Phụ lục B14.
Hay “tro thấm mỡ”, tức là tro thấm mỡ của vật tế lễ.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Một phần mười ê-pha tương đương 2,2 lít. Xem Phụ lục B14.
Ds: “để đùi bà rơi ra”.
Hay “Xin xảy ra như vậy! Xin xảy ra như vậy!”.
Hê: na·zirʹ, nghĩa là “người được chọn; người được dâng hiến; người được biệt riêng ra”.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “lễ dâng hiến”.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Hay “theo siếc-lơ thánh”.
Hay “bát nhỏ”.
Ds: “đưa qua đưa lại”.
Ds: “giữa hai buổi chiều tối”.
Ds: “giữa hai buổi chiều tối”.
Ds: “giữa hai buổi chiều tối”.
Tức là Giê-trô.
Hay “làm đôi mắt”.
Nghĩa là “cháy”, tức là một đám cháy lớn; rực cháy.
Có lẽ là những người sống giữa dân chúng mà không phải là người Y-sơ-ra-ên.
Hay “bắt đầu nói tiên tri”.
Một cu-bít tương đương 44,5cm. Xem Phụ lục B14.
Một hô-me tương đương 220 lít. Xem Phụ lục B14.
Nghĩa là “những nơi chôn sự thèm muốn”.
Động từ Hê-bơ-rơ ở dạng yêu cầu lịch sự.
Ds: “Trong cả nhà ta, người chứng tỏ mình là trung tín”.
Hay “Giê-hô-sua”, nghĩa là “Đức Giê-hô-va là sự giải cứu”.
Hay “lối vào Ha-mát”.
Nghĩa là “chùm nho”.
Ds: “những người Nê-phi-lim”.
Ds: “vì chúng là bánh đối với chúng ta”.
Ds: “sự đàng điếm”.
Một phần mười ê-pha tương đương 2,2 lít. Xem Phụ lục B14.
Một hin tương đương 3,67 lít. Xem Phụ lục B14.
Hay “đàng điếm về mặt thờ phượng”.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Hay “Sê-ôn”, tức là mồ mả chung của nhân loại. Xem Bảng chú giải thuật ngữ.
Ds: “người lạ”.
Ds: “Người lạ”, tức là người nam không thuộc dòng họ A-rôn.
Ds: “người lạ”, tức là người nam không thuộc dòng họ A-rôn.
Tức là những vật được làm nên thánh cho Đức Chúa Trời bằng cách dâng hiến vĩnh viễn cho ngài, không thể lấy lại hoặc chuộc lại.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Hay “theo siếc-lơ thánh”.
Một ghê-ra tương đương 0,57g. Xem Phụ lục B14.
Tức là giao ước vững bền và không thay đổi.
Hay “nắp buộc bằng dây”.
Nghĩa là “gây sự”.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Nghĩa là “dành cho sự hủy diệt”.
Hay “hát”.
Cũng có thể là “sa mạc; hoang mạc”.
Hay “phụ thuộc”.
Hay “phụ thuộc”.
Ba-la-am sẽ dùng thuật bói toán như một công cụ để tìm ra những điềm xui xẻo cho dân Y-sơ-ra-ên.
Cũng có thể là “sa mạc; hoang mạc”.
Ds: “hắn”.
Hay “gắn bó với”.
Ds: “phía trước mặt trời”.
Hẳn nói đến các nhà lãnh đạo trong câu 4.
Hay “gắn bó với”.
Hay “tương ứng với số tên được liệt kê”.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Ds: “giữa hai buổi chiều tối”.
Một phần mười ê-pha tương đương 2,2 lít. Xem Phụ lục B14.
Một hin tương đương 3,67 lít. Xem Phụ lục B14.
Ds: “giữa hai buổi chiều tối”.
Điều này có thể nói đến việc kiêng ăn và những sự hạn chế tương tự.
Ds: “về với dân mình”. Đây là cách nói bóng bẩy ám chỉ cái chết.
Xem mục “Nephesh; Psykhe” trong Bảng chú giải thuật ngữ.
Một siếc-lơ tương đương 11,4g. Xem Phụ lục B14.
Nghĩa là “các khu trại của Giai-rơ”.
Hay “phụ thuộc”.
Tức là Biển Chết.
Tức là Địa Trung Hải.
Tức là Địa Trung Hải.
Hay “lối vào Ha-mát”.
Tức là hồ Ghê-nê-xa-rết, hay biển Ga-li-lê.
Một cu-bít tương đương 44,5cm. Xem Phụ lục B14.