Chương 6
Giê-su Christ được Đức Chúa Trời sai đến chăng?
1, 2. a) Có bằng chứng cụ thể nào cho thấy rằng Giê-su Christ đã là một người có thật? b) Những câu hỏi nào đã được đặt ra về Giê-su?
NGÀY NAY hầu hết mọi người đều có nghe nói đến Giê-su Christ. Ngài đã ảnh hưởng lịch sử một cách sâu đậm hơn bất cứ người nào khác. Thật thế, ngay cả cuốn lịch được thông dụng ở hầu hết mọi nơi trên thế giới dựa trên cái năm mà người ta thiết tưởng là năm sinh của ngài. Cuốn Bách-khoa Tự-điển Thế-giới (The World Book Encyclopedia) có nói như sau: “Những niên-hiệu trước năm đó được gọi là trước khi đấng Christ giáng-sinh. Những niên-hiệu sau đó gọi là A.D. hoặc anno Domini (có nghĩa: trong năm của Chúa chúng ta)”.
2 Như thế thì Giê-su không phải là một nhân vật tưởng tượng. Ngài đã từng sống thật sự trên đất như một con người. Cuốn Bách-khoa Tự-điển Anh-quốc (Encyclopædia Britannica) có ghi chú như sau: “Trong thời xưa, ngay cả những kẻ chống lại đạo đấng Christ cũng đã không bao giờ hồ nghi sự (hiện hữu thật sự) của Giê-su”. Vậy thì Giê-su là ai thế? Ngài có thật sự được Đức Chúa Trời sai đến không? Tại sao ngài đã được nổi tiếng như vậy?
NGÀI ĐÃ TỪNG SỐNG TRƯỚC KHI XUỐNG THẾ
3. a) Theo lời của vị thiên sứ thì con mà Ma-ri sẽ sanh ra là con của ai? b) Làm thế nào người nữ đồng trinh Ma-ri lại có thể sanh ra Giê-su?
3 Không giống như bất cứ một người nào khác, Giê-su đã được sinh ra từ một người nữ đồng trinh. Tên của nàng là Ma-ri. Về con của nàng một thiên sứ có nói như sau: “Con trai ấy sẽ nên tôn-trọng, được xưng là Con của Đấng Rất-Cao” (Lu-ca 1:28-33; Ma-thi-ơ 1:20-25). Song làm thế nào một người đàn bà chẳng hề ăn ở với một người đàn ông lại có thể sanh con được? Ấy là bởi thánh linh của Đức Chúa Trời. Đức Giê-hô-va đã chuyển sự sống của Con Ngài, lúc đó là một thần linh đầy quyền năng, từ trên trời để vào lòng của người nữ đồng trinh tên Ma-ri. Đó là một phép lạ! Chắc chắn Đấng đã tạo ra người đàn bà đầu tiên với khả năng huyền diệu sanh ra con cái, cũng có thể làm cho một người đàn bà không chồng sanh con được. Kinh-thánh giải thích như sau: “Khi kỳ-hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra” (Ga-la-ti 4:4).
4. a) Trước khi xuống thế làm người, Giê-su đã có đời sống như thế nào? b) Giê-su đã nói điều gì để chứng tỏ rằng ngài đã từng sống trước đó ở trên trời?
4 Như thế thì Giê-su đã từng là một thần linh đầy quyền năng ở trên trời trước khi sanh ra làm người trên thế gian. Ngài đã có một cơ thể thiêng liêng không thấy được giống như Đức Chúa Trời (Giăng 4:24). Chính Giê-su cũng đã thường nhắc đến địa vị cao trọng mà ngài đã từng có ở trên trời. Có một lần ngài cầu nguyện như sau: “Cha ơi! Bây giờ xin lấy sự vinh-hiển Con vốn có nơi Cha trước khi chưa có thế-gian mà làm vinh-hiển Con nơi chính mình Cha” (Giăng 17:5). Ngài cũng đã nói với các thính giả ngài như sau: “Các ngươi bởi dưới mà có; còn ta bởi trên mà có”, “Nếu các ngươi thấy Con người lên nơi ngài vốn ở khi trước thì thể nào?”, “Trước khi chưa có Áp-ra-ham, đã có ta” (Giăng 8:23; 6:62; 8:58; 3:13; 6:51).
5. a) Tại sao Giê-su đã được gọi là “Ngôi Lời”, “Con đầu lòng” và “Con một”? b) Giê-su đã tham dự vào công việc nào với Đức Chúa Trời?
5 Trước khi xuống thế gian, Giê-su đã được gọi là Ngôi Lời của Đức Chúa Trời. Chức tước này cho thấy rằng ngài đã phụng sự ở trên trời với tư cách là phát ngôn viên của Đức Chúa Trời. Ngài cũng được gọi là “Con đầu lòng” và “Con một” của Đức Chúa Trời (Giăng 1:14; 3:16; Hê-bơ-rơ 1:6). Điều này có nghĩa là ngài đã được tạo ra trước hết thảy các con thần linh khác của Đức Chúa Trời, và là Con duy nhất đã được Đức Chúa Trời trực tiếp tạo ra. Kinh-thánh giải thích rằng chính người Con “đầu lòng” này đã phụ giúp Đức Giê-hô-va tạo ra mọi vật khác (Cô-lô-se 1:15, 16). Bởi thế, khi Đức Chúa Trời nói: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta”, Ngài đã nói chuyện cùng với Con đó của Ngài. Vâng, chính đấng mà sau này xuống thế gian và được một người nữ sanh ra, đã từng tham dự vào công việc sáng tạo muôn vật! Ngài đã từng sống ở trên trời cùng với Cha ngài hằng hà sa số năm rồi! (Sáng-thế Ký 1:26; Châm-ngôn 8:22, 30; Giăng 1:3).
ĐỜI SỐNG CỦA NGÀI Ở TRÊN ĐẤT
6. a) Trước và sau khi Giê-su ra đời ít lâu đã có những biến cố nào xảy ra? b) Giê-su đã ra đời tại đâu và lớn lên tại đâu?
6 Ma-ri đã được hứa hôn cùng Giô-sép. Song khi hay tin nàng đang mang thai, Giô-sép lại nghĩ rằng nàng đã ăn nằm với kẻ khác rồi và do đó người định không cưới nàng nữa. Tuy nhiên, khi Đức Giê-hô-va nói cho người biết rằng Ma-ri đã thọ thai bởi thánh linh của Ngài thì Giô-sép lấy Ma-ri làm vợ mình (Ma-thi-ơ 1:18-20, 24, 25). Sau đó khi họ đang viếng thành Bết-lê-hem thì Giê-su ra đời (Lu-ca 2:1-7; Mi-chê 5:1). Khi Giê-su hãy còn là con trẻ, vua Hê-rốt đã tìm cách giết ngài. Song Đức Giê-hô-va đã báo cho Giô-sép biết trước nên ông dẫn gia đình đi trốn sang xứ Ê-díp-tô. Sau khi vua Hê-rốt qua đời, Giô-sép và Ma-ri trở về thành Na-xa-rét ở miền Ga-li-lê cùng với Giê-su. Ngài đã lớn lên tại đó (Ma-thi-ơ 2:13-15, 19-23).
7. a) Khi Giê-su mười hai tuổi, điều gì đã xảy ra? b) Giê-su đã học nghề gì khi ngài lớn lên?
7 Khi Giê-su 12 tuổi, ngài đã cùng với gia đình ngài đi đến thành Giê-ru-sa-lem tham dự buổi lễ đặc biệt gọi là lễ Vượt-qua. Trong khi ngài ở đó, ngài đã ngồi nghe và đặt câu hỏi các thầy dạy đạo suốt ba ngày ròng ở trong đền thờ. Mọi người nghe ngài nói chuyện đều lấy làm ngạc nhiên về sự hiểu biết của ngài (Lu-ca 2:41-52). Khi Giê-su lớn lên ở Na-xa-rét, ngài đã học nghề thợ mộc. Chắc chắn ngài đã học nghề đó nơi cha nuôi là Giô-sép, vốn làm thợ mộc (Mác 6:3; Ma-thi-ơ 13:55).
8. Điều gì đã xảy ra khi Giê-su được 30 tuổi?
8 Lúc Giê-su được 30 tuổi, có một thay đổi lớn trong đời ngài. Ngài đi đến cùng Giăng Báp-tít và bảo người làm báp têm cho ngài, ngài hoàn toàn trầm mình dưới nước sông Giô-đanh. Kinh-thánh có ghi lại như sau: “Vừa khi chịu phép báp-têm rồi, Đức Chúa Giê-su ra khỏi nước; bỗng-chúc các từng trời mở ra, ngài thấy thánh-linh của Đức Chúa Trời ngự xuống như chim bồ-câu, đậu trên ngài. Tức thì có tiếng từ trên trời phán rằng: “Này là Con yêu-dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Ma-thi-ơ 3:16, 17). Trong tâm trí của Giăng không còn mảy may nghi ngờ nào nữa về việc Giê-su đã được Đức Chúa Trời sai đến.
9. a) Khi nào Giê-su đã thiệt thọ trở thành đấng Christ, và tại sao từ lúc đó? b) Khi làm phép báp têm, Giê-su đã tự trình diện để làm điều gì?
9 Đức Giê-hô-va đã xức dầu cho Giê-su hoặc đã phong ngài làm Vua cho nước của Ngài sẽ đến trong tương lai bằng cách đổ thánh linh của Ngài trên Giê-su. Một khi đã được xức dầu bằng thánh linh, Giê-su đã trở thành đấng “Mê-si” hoặc đấng “Christ”, cả hai chữ đó trong tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp đều có nghĩa là đấng “Được xức dầu”. Do đó ngài đã trở nên Giê-su Christ hoặc Giê-su đấng được xức dầu. Do đó sứ đồ Phi-e-rơ đã nói về ngài rằng “Đức Chúa Trời đã xức cho Đức Chúa Giê-su ở Na-xa-rét bằng thánh-linh và quyền-phép” (Công-vụ các Sứ-đồ 10:38). Ngoài ra, khi làm phép báp têm trong nước, Giê-su đã tự trình diện cùng Đức Chúa Trời để thi hành công việc mà Đức Chúa Trời đã sai ngài xuống đất để làm. Công việc quan trọng đó là gì?
TẠI SAO NGÀI ĐÃ XUỐNG TRÁI ĐẤT?
10. Giê-su đã xuống thế gian để giảng dạy những lẽ thật nào?
10 Để giải thích lý do tại sao ngài đã xuống trái đất, Giê-su nói với quan tổng đốc người La-mã là Bôn-xơ Phi-lát như sau: “Này, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng-thế: ấy là để làm chứng cho lẽ thật” (Giăng 18:37). Song Giê-su đã được sai xuống thế gian để cho biết những lẽ thật đặc biệt nào? Trước hết, những lẽ thật về Cha trên trời của ngài. Ngài đã dạy cho các môn đồ ngài cầu nguyện cho danh của Cha ngài được “thánh” (Ma-thi-ơ 6:9). Và ngài đã cầu nguyện như sau: “Con đã tỏ danh Cha ra cho những người Cha giao cho Con” (Giăng 17:6). Ngoài ra, ngài cũng có nói như sau: “Ta cũng phải rao tin mừng về nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác, vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến” (Lu-ca 4:43, NW).
11. a) Tại sao Giê-su đã xem công việc của ngài là quan trọng đến thế? b) Giê-su đã không hề ngần ngại làm điều gì? Như thế thì chúng ta phải làm gì?
11 Đối với Giê-su thì công việc rao báo danh và nước của Cha ngài là quan trọng như thế nào? Ngài có nói với các môn đồ như sau: “Đồ-ăn của ta tức là làm theo ý-muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công-việc Ngài” (Giăng 4:34). Tại sao Giê-su đã xem công việc của Đức Chúa Trời quan trọng như là thức ăn vậy? Ấy là vì Nước Trời là phương tiện mà Đức Chúa Trời dùng để thực hiện những ý định huyền diệu của Ngài đối với nhân loại. Chính Nước Trời này sẽ dẹp tan mọi sự hung ác và sẽ tẩy sạch danh của Đức Giê-hô-va khỏi mọi sỉ hổ mà người ta đã gán cho danh đó (Đa-ni-ên 2:44; Khải-huyền 21:3, 4). Vì thế Giê-su đã không bao giờ ngần ngại nói đến danh và nước của Đức Chúa Trời để mọi người được biết (Ma-thi-ơ 4:17; Lu-ca 8:1; Giăng 17:26; Hê-bơ-rơ 2:12). Ngài đã luôn luôn nói sự thật, dù có được quần chúng thích nghe hay không. Như thế ngài đã cho chúng ta một gương mẫu mà chúng ta phải noi theo nếu chúng ta muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 2:21).
12. Có lý do quan trọng nào khác để Giê-su xuống thế gian?
12 Tuy nhiên, Giê-su đã phải đổ máu của ngài và chết đi để chúng ta có thể nhận lấy sự sống đời đời dưới quyền cai trị của Nước Đức Chúa Trời. Hai sứ đồ của Giê-su đã nói như sau: “Chúng ta đã nhờ huyết ngài được xưng công-bình”, “Huyết của Đức Chúa Giê-su, Con Ngài (Đức Chúa Trời), làm sạch mọi tội chúng ta” (Rô-ma 5:9; I Giăng 1:7). Do đó có một lý do quan trọng để Giê-su xuống thế gian, ấy là để chết vì chúng ta. Ngài đã nói như sau: “Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống (hay linh hồn) mình làm giá chuộc nhiều người” (Ma-thi-ơ 20:28). Song việc đấng Christ đã phó sự sống của ngài làm “giá chuộc” có nghĩa gì? Tại sao ngài đã cần phải đổ huyết của mình ra để rồi chết đi mới cứu chuộc chúng ta được?
NGÀI ĐÃ PHÓ SỰ SỐNG MÌNH LÀM GIÁ CHUỘC
13. a) Giá chuộc là gì? b) Giê-su đã trả giá chuộc nào để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết?
13 Chữ “giá chuộc” thường được dùng khi có một vụ bắt cóc. Sau khi kẻ nào đó đã bắt cóc một người, y có lẽ tuyên bố rằng y sẽ thả người đó ra nếu được trả một số tiền nào đó gọi là tiền chuộc. Như vậy thì tiền chuộc hay giá chuộc là một phương tiện để phóng thích một người bị bắt giữ. Đó là một cái gì phải trả để người đó khỏi mất mạng sống. Mạng sống con người hoàn toàn của Giê-su đã được hiến dâng để giải thoát nhân loại khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết (I Phi-e-rơ 1:18, 19; Ê-phê-sô 1:7). Tại sao sự giải thoát ấy là cần thiết?
14. Tại sao giá chuộc do Giê-su cung cấp là điều cần thiết?
14 Ấy là vì A-đam, tổ tiên chung của tất cả chúng ta, đã phản nghịch lại Đức Chúa Trời. Hành vi trái phép của hắn đã khiến hắn trở thành người có tội, vì Kinh-thánh giải thích rằng “tội-lỗi tức là sự trái luật-pháp” (I Giăng 3:4; 5:17). Hậu quả là hắn đã không xứng đáng nhận lấy sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời (Rô-ma 6:23). Như thế thì A-đam đã tự đánh mất sự sống làm người hoàn toàn trong địa-đàng. Hắn cũng đã đánh mất viễn ảnh kỳ diệu này cho hết thảy con cháu mà hắn sẽ có sau này. Có lẽ bạn hỏi rằng: “Nhưng tại sao tất cả các con cháu của A-đam lại phải chịu chết trong khi chính A-đam đã phạm tội?”
15. Tại sao các con cháu của A-đam phải chịu khổ và chịu chết trong khi chính A-đam đã phạm tội?
15 Ấy là bởi vì A-đam sau khi phạm tội, đã truyền tội lỗi và sự chết cho các con cái của hắn, kể cả hết thảy mọi người đang sống ngày nay (Gióp 14:4; Rô-ma 5:12). Kinh-thánh có nói như sau: “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh-hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23; I Các Vua 8:46). Ngay cả Đa-vít là người kính sợ Đức Chúa Trời có nói như sau: “Tôi sanh ra trong sự gian-ác, mẹ tôi đã hoài-thai tôi trong tội-lỗi” (Thi-thiên 51:5). Do đó người ta cứ tiếp tục chết vì đã thừa hưởng tội lỗi từ nơi A-đam. Song làm thế nào sự sống của Giê-su dâng làm của-lễ lại có thể giải thoát hết thảy mọi người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết được?
16. a) Khi Ngài cung cấp giá chuộc, Đức Chúa Trời đã chứng tỏ tôn trọng luật pháp của Ngài về việc “lấy mạng thường mạng” như thế nào? b) Tại sao Giê-su là người duy nhất có thể làm giá chuộc được?
16 Một nguyên tắc trong luật pháp của Đức Chúa Trời ban cho dân tộc Y-sơ-ra-ên có liên hệ đến vấn đề này. Nguyên tắc luật pháp đó ghi rằng: “lấy mạng thường mạng” (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:23; Phục-truyền Luật-lệ Ký 19:21). Một khi đã không vâng lời Đức Chúa Trời, người đàn ông hoàn toàn A-đam đã đánh mất sự sống hoàn toàn ở địa-đàng cho chính hắn cùng hết thảy các con cháu của hắn nữa. Giê-su Christ đã phó sự sống hoàn toàn của ngài để chuộc lại điều gì mà A-đam đã đánh mất. Vâng, Giê-su “đã phó chính mình ngài làm giá chuộc tương ứng cho mọi người” (I Ti-mô-thê 2:5, 6, NW). Chính vì Giê-su đã là một người đàn ông hoàn toàn, y như A-đam khi trước, ngài đã được gọi là “A-đam sau hết” (I Cô-rinh-tô 15:45). Ngoài Giê-su ra, không có một người nào khác trong vòng nhân loại đã có thể cung cấp giá chuộc được. Lý do là vì Giê-su là người duy nhứt đã từng sống trên đất như một người con hoàn toàn của Đức Chúa Trời ngang hàng với A-đam (Thi-thiên 49:7; Lu-ca 1:32; 3:38).
17. Khi nào giá chuộc đã được trả cho Đức Chúa Trời?
17 Giê-su đã chết lúc được 33 tuổi rưỡi. Song vào ngày thứ ba sau khi ngài chết, ngài đã được sống lại. Bốn mươi ngày sau đó, ngài đã trở lên trời (Công-vụ các Sứ-đồ 1:3, 9-11). Tại đó, ngài đã hiện ra “trước mặt Đức Chúa Trời”, một lần nữa với tư cách là một thần linh, để dâng cho Đức Chúa Trời giá trị của của-lễ chuộc tội của ngài (Hê-bơ-rơ 9:12, 24). Chính lúc ấy giá chuộc đã được trả cho Đức Chúa Trời ở trên trời vậy. Bấy giờ nhân loại có cơ hội được giải cứu. Song bao giờ mới có những lợi ích do giá chuộc mang lại?
18. a) Ngay từ bây giờ giá chuộc có thể mang lại lợi ích gì cho chúng ta? b) Giá chuộc sẽ mang lại điều gì trong tương lai?
18 Chúng ta có thể hưởng lợi ích do giá chuộc của Giê-su mang lại ngay từ bây giờ. Bằng cách nào? Bằng cách thực hành đức tin nơi giá chuộc đó chúng ta có thể hưởng một địa vị trong sạch trước mắt Đức Chúa Trời và nhận lãnh sự săn sóc đầy âu yếm và yêu thương của Ngài (Khải-huyền 7:9, 10, 13-15). Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã phạm nhiều tội khủng khiếp trước khi biết đến Đức Chúa Trời. Và ngay cả bây giờ chúng ta hãy còn phạm lỗi, đôi khi hết sức là nặng. Song dựa trên giá chuộc chúng ta có thể thẳng thắn xin Đức Chúa Trời tha tội với sự tin cậy rằng Ngài sẽ nhậm lời chúng ta (I Giăng 2:1, 2; I Cô-rinh-tô 6:9-11). Ngoài ra, trong tương lai gần đây giá chuộc sẽ mở đường cho chúng ta nhận được sự ban cho của Đức Chúa Trời, là sự sống đời đời trong hệ thống mới công bình của Ngài (II Phi-e-rơ 3:13). Lúc đó hết thảy những ai tin nơi giá chuộc sẽ được hoàn toàn giải thoát khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết. Trước mặt họ sẽ có viễn ảnh được sống mãi mãi trong sự hoàn toàn!
19. a) Bạn có cảm nghĩ gì về sự cung cấp giá chuộc? b) Sứ đồ Phao-lô có nói chúng ta phải tỏ lòng biết ơn về giá chuộc như thế nào?
19 Bạn cảm thấy thế nào khi học biết về giá chuộc? Lòng bạn có cảm thấy nhiệt thành đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời khi biết rằng Ngài lưu tâm đến bạn rất nhiều đến đỗi Ngài đã phó Con yêu dấu của Ngài vì bạn không? (Giăng 3:16; I Giăng 4:9, 10). Song bạn cũng hãy nghĩ đến tình yêu thương của đấng Christ nữa. Ngài đã tự nguyện xuống thế gian để chết vì chúng ta. Liệu chúng ta lại không biết ơn ngài hay sao? Sứ đồ Phao-lô giải thích làm thế nào chúng ta phải tỏ lòng biết ơn của chúng ta bằng các lời lẽ như sau: “Ngài đã chết vì mọi người, hầu cho những kẻ còn sống không vì chính mình mà sống nữa, nhưng sống vì đấng đã chết và sống lại cho mình” (II Cô-rinh-tô 5:14, 15). Liệu bạn sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách dùng đời sống bạn để phụng sự Đức Chúa Trời và Giê-su Christ là Con của Ngài ở trên trời không?
TẠI SAO GIÊ-SU ĐÃ LÀM PHÉP LẠ?
20. Việc Giê-su đã chữa lành cho một người cùi dạy cho chúng ta điều gì?
20 Giê-su được nổi tiếng về những phép lạ mà ngài đã làm. Ngài đã cảm thấy đầy lòng thương xót đối với những người gặp cảnh khó khăn, và ngài đã hết lòng muốn dùng những quyền phép mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngài để giúp đỡ họ. Chẳng hạn như có một người mang bệnh cùi đau khủng khiếp đã đến cùng ngài và nói rằng: “Nếu Chúa khứng, có thể khiến tôi sạch được”. Giê-su “động lòng thương-xót, giơ tay rờ người, mà phán rằng: Ta khứng, hãy sạch đi”. Và người bệnh đó đã được chữa lành (Mác 1:40-42).
21. Giê-su đã giúp đỡ đám đông người như thế nào?
21 Bạn hãy xem xét một cảnh khác được ghi trong Kinh-thánh, và hãy tưởng tượng sự ân cần niềm nở của Giê-su đối với người ta được tả như sau: “Bấy giờ có đoàn dân rất đông đến gần ngài, đem theo những kẻ què, đui, câm, tàn-tật và nhiều kẻ đau khác, để dưới chơn Đức Chúa Giê-su thì ngài chữa cho họ được lành. Vậy, chúng thấy kẻ câm được nói, kẻ tàn-tật được khỏi, kẻ què được đi, kẻ đui được sáng, thì lấy làm lạ lắm, đều ngợi-khen Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên” (Ma-thi-ơ 15:30, 31).
22. Điều gì cho thấy rằng Giê-su đã thật tình chú tâm đến những người mà ngài giúp đỡ?
22 Chúng ta có thể thấy rằng Giê-su đã thật tình chú tâm đến những người đang đau khổ và thật lòng muốn giúp đỡ họ, qua những lời mà ngài đã nói cùng các môn đồ như sau: “Ta thương xót đoàn dân này; vì đã ba ngày ở cùng ta, bây giờ không có chi ăn hết. Ta không muốn để họ nhịn đói mà về, e phải mệt lủi dọc đường chăng”. Đoạn Giê-su đã làm phép lạ để biến vỏn vẹn bảy cái bánh cùng vài con cá ra nhiều thêm để cho “bốn ngàn (người), không kể đờn bà con trẻ” ăn no (Ma-thi-ơ 15:32-38).
23. Điều gì đã thúc đẩy Giê-su làm cho con trai của một người đàn bà góa sống lại?
23 Vào một dịp khác, Giê-su đi đường gặp một đám tang vừa ra khỏi thành Na-in. Kinh-thánh có tả cảnh đó như sau: “Họ vừa khiêng ra một người chết, là con trai một của mẹ góa kia...Chúa thấy, động lòng thương-xót người”. Ngài đã chia xẻ nỗi đau đớn của bà. Do đó, quay lại thây kẻ chết, ngài phán rằng: “Hỡi người trẻ kia, ta biểu ngươi chờ dậy!” Và, mầu nhiệm làm sao! “Người chết vùng ngồi dậy và khởi sự nói. Đức Chúa Giê-su giao người lại cho mẹ”. Bạn thử nghĩ xem bà mẹ này đã cảm thấy thế nào! Nếu là bạn thì bạn sẽ cảm thấy sao? Nguồn tin về biến cố phi thường đó đã được đồn ra khắp chốn. Không có lạ gì khi Giê-su được mọi người biết đến (Lu-ca 7:11-17).
24. Những phép lạ của Giê-su cho ta thấy điều gì về tương lai?
24 Tuy nhiên, những phép lạ mà Giê-su đã làm chỉ có hiệu nghiệm tạm thời thôi. Những người đã được ngài chữa lành sau đó lại gặp phải bệnh tật. Và những người đã được ngài làm cho sống lại sau đó lại chết một lần nữa. Song những phép lạ của Giê-su đã chứng tỏ rằng ngài là sứ giả được Đức Chúa Trời sai đến, và ngài thật sự là Con của Đức Chúa Trời. Và những điều đó cũng chứng tỏ rằng hết thảy những vấn đề của nhân loại có thể được giải quyết nhờ quyền phép của Đức Chúa Trời. Vâng, những phép lạ đó đã cho thấy trong một phạm vi nhỏ điều gì sẽ được thực hiện trên đất dưới sự cai trị của Nước Trời. Khi ấy những người đói sẽ được no đủ, những người bệnh sẽ được chữa lành, và ngay cả những người chết cũng sẽ được sống lại! Và không bao giờ sẽ có bệnh tật, chết chóc hay là các khó khăn nào khác để gây ra sự bất hạnh nữa. Thật là một ân phước lớn dường nào! (Khải-huyền 21:3, 4; Ma-thi-ơ 11:4, 5).
CẦM QUYỀN TRONG NƯỚC ĐỨC CHÚA TRỜI
25. Đời sống của Giê-su có thể được chia ra làm ba giai đoạn nào?
25 Đời sống của Con Đức Chúa Trời có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất gồm có hằng hà sa số năm không ai biết được khi ngài đã ở bên cạnh Cha ngài ở trên trời trước khi xuống thế làm người. Kế đến, ngài đã sống 33 năm rưỡi ở trên đất sau khi giáng sanh. Và giờ đây ngài đã trở về trời để sống như là một thần linh. Ngài đã có địa vị nào trên trời sau khi được sống lại?
26. Nhờ sự trung kiên của ngài ở trên đất, Giê-su đã chứng tỏ xứng đáng làm gì?
26 Rõ ràng là Giê-su phải được lên làm vua. Chính vị thiên sứ đã thông báo cùng Ma-ri rằng: “Ngài sẽ trị-vì đời đời..., nước ngài vô-cùng” (Lu-ca 1:33). Trong suốt thánh chức của ngài ở trên đất, ngài đã luôn luôn nói về Nước của Đức Chúa Trời. Ngài đã dạy các môn đồ ngài cầu nguyện như sau: “Nước Cha được đến. Ý Cha được nên, ở đất như trời”. Và ngài đã khuyến khích họ “trước hết hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời” (Ma-thi-ơ 6:10, 33). Nhờ sự trung kiên của ngài ở trên đất, Giê-su đã chứng tỏ rằng ngài xứng đáng được làm vua của Nước Đức Chúa Trời. Nhưng ngài có bắt đầu cai trị như một vị vua ngay khi ngài trở về trời không?
27. a) Giê-su đã làm gì khi ngài trở về trời? b) Giê-su đã có hành động nào trước hết với tư cách là vua của Nước Đức Chúa Trời?
27 Không đâu. Sứ đồ Phao-lô dẫn chiếu Thi-thiên 110:1 và giải thích như sau: “Đấng này (Giê-su) đã vì tội-lỗi dâng chỉ một của-lễ, rồi ngồi đời đời bên hữu Đức Chúa Trời, từ rày về sau đương đợi những kẻ thù-nghịch ngài bị để làm bệ dưới chân ngài” (Hê-bơ-rơ 10:12, 13). Giê-su đã đợi lệnh này của Đức Giê-hô-va: “Hãy cai-trị giữa các thù-nghịch ngươi” (Thi-thiên 110:2). Khi lúc đó đến, ngài đã ra tay tẩy sạch các từng trời, đánh đuổi Sa-tan cùng các quỉ sứ của hắn. Thành quả của cuộc chiến ở trên trời đó đã được xác định bằng những lời sau đây: “Bấy giờ sự cứu-rỗi, quyền-năng, và nước Đức Chúa Trời chúng ta đã đến cùng quyền-phép của đấng Christ Ngài nữa; vì kẻ kiện-cáo anh em chúng ta, kẻ ngày đêm kiện-cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, nay đã bị quăng xuống rồi” (Khải-huyền 12:10). Như chúng ta đã thấy ở một chương trước của sách này, những sự kiện cho thấy rằng trận chiến này đã diễn ra rồi ở trên trời và giờ đây Giê-su Christ đang cai trị giữa các thù nghịch của ngài.
28. a) Đấng Christ sẽ làm gì trong tương lai gần đây? b) Chúng ta phải làm gì để được ngài che chở?
28 Trong tương lai rất gần đây, đấng Christ cùng với các thiên sứ ở trên trời của ngài sẽ ra tay loại trừ hết thảy các chính phủ thế gian hiện tại khỏi mặt đất (Đa-ni-ên 2:44; Khải-huyền 17:14). Kinh-thánh nói rằng “có một lưỡi gươm bén ở miệng ngài ra, ngài sẽ lấy nó mà đánh các dân, và cai-trị họ bằng một cây gậy sắt” (Khải-huyền 19:11-16). Để chứng tỏ xứng đáng được che chở trong sự hủy diệt sắp tới này, chúng ta phải thực hành đức tin nơi Giê-su Christ (Giăng 3:36). Chúng ta phải trở thành môn đồ của ngài và phục tùng ngài, nhận ngài là Vua ở trên trời của chúng ta. Liệu bạn có làm điều đó không?
[Hình nơi trang 58]
Giê-su đã bỏ công việc làm thợ mộc để chịu phép báp-têm và trở nên đấng được xức dầu của Đức Giê-hô-va.
[Hình nơi trang 63]
Giê-su ngang hàng với người hoàn toàn A-đam.
[Hình nơi trang 64]
Giê-su động lòng thương xót giúp đỡ những người bệnh tật và đói khát.
[Hình nơi trang 67]
Khi Giê-su làm người chết sống lại, ngài chứng tỏ việc ngài sẽ làm trên một phạm vi rộng lớn hơn nhiều khi Nước Trời cai trị.