THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • bt chg 3 trg 20-27
  • “Được tràn đầy thần khí thánh”

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • “Được tràn đầy thần khí thánh”
  • Làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • “Họ nhóm lại một chỗ” (Công vụ 2:1-4)
  • “Mỗi người đều nghe... ngôn ngữ của họ” (Công vụ 2:5-13)
  • ‘Phi-e-rơ đứng dậy’ (Công vụ 2:14-37)
  • “Mỗi người hãy chịu phép báp-têm” (Công vụ 2:38-47)
  • Phi-e-rơ rao giảng vào ngày Lễ Ngũ tuần
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Đạo Đấng Christ lan rộng trong vòng những người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2005
  • Độc giả thắc mắc
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2003
  • “Người từ mọi thứ tiếng” được nghe tin mừng
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2005
Xem thêm
Làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời
bt chg 3 trg 20-27

CHƯƠNG 3

“Được tràn đầy thần khí thánh”

Kết quả từ việc đổ thần khí thánh vào Lễ Ngũ Tuần

Dựa trên Công vụ 2:1-47

1. Hãy miêu tả bầu không khí của Lễ Ngũ Tuần.

Đường phố Giê-ru-sa-lem nhộn nhịp trong bầu không khí háo hức.a Khói từ bàn thờ tế lễ bay lên trong lúc những người Lê-vi hát bài Hallel (Thi thiên 113 đến 118), có lẽ theo thể hát đối đáp. Các ngả đường tấp nập khách viếng thăm. Họ đến từ những nơi rất xa như Ê-lam, Mê-sô-bô-ta-mi, Cáp-ba-đô-xi-a, Bon-tu, Ai Cập và Rô-ma.b Dịp gì vậy? Là Lễ Ngũ Tuần, còn gọi là “ngày dâng thổ sản chín đầu mùa” (Dân 28:26). Lễ hội thường niên này đánh dấu sự kết thúc mùa gặt lúa mạch và khởi đầu mùa gặt lúa mì. Đó là một ngày tràn ngập niềm vui.

Bản đồ cho thấy gốc gác của những người nghe tin mừng vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN. 1. Các vùng: Li-bi, Ai Cập, Ê-thi-ô-bi, Bi-thi-ni-a, Bon-tu, Cáp-ba-đô-xi-a, Giu-đê, Mê-sô-bô-ta-mi, xứ Ba-by-lôn, Ê-lam, Mê-đi và Bạt-thê. 2. Các thành phố: Rô-ma, A-léc-xan-ri-a, Mem-phi, An-ti-ốt (xứ Sy-ri), Giê-ru-sa-lem và Ba-by-lôn. 3. Vùng biển: Địa Trung Hải, Biển Đen, Biển Đỏ, Biển Ca-xpi và Vịnh Ba Tư.

GIÊ-RU-SA-LEM​—TRUNG TÂM CỦA DO THÁI GIÁO

Phần lớn những sự kiện được ghi lại trong các chương đầu của sách Công vụ đã diễn ra ở Giê-ru-sa-lem. Thành phố này nằm giữa những ngọn đồi thuộc rặng núi miền trung xứ Giu-đê, cách Địa Trung Hải khoảng 55km về phía đông. Tại đây, vào năm 1070 TCN, vua Đa-vít đã chinh phục thành trì trên đỉnh núi Si-ôn, và thành phố phát triển xung quanh thành trì này đã trở thành thủ đô của nước Y-sơ-ra-ên xưa.

Gần núi Si-ôn là núi Mô-ri-a. Đây là nơi mà theo tục truyền của người Do Thái, Áp-ra-ham đã định dâng Y-sác làm vật tế lễ, là điều xảy ra khoảng 1.900 năm trước những sự kiện được miêu tả trong sách Công vụ. Núi Mô-ri-a trở thành một phần của thành phố khi Sa-lô-môn xây đền thờ đầu tiên cho Đức Giê-hô-va trên đỉnh núi ấy. Công trình này trở thành trung tâm của sự thờ phượng và các hoạt động hằng ngày của người Do Thái.

Đền thờ của Đức Giê-hô-va là nơi mà tất cả những người Do Thái có lòng thành kính từ khắp đất thường xuyên nhóm lại để dâng vật tế lễ, thờ phượng và tham dự các kỳ lễ. Họ làm vậy vì vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời: “Mỗi năm ba lần, tất cả người nam phải trình diện Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ở nơi ngài chọn” (Phục 16:16). Thành Giê-ru-sa-lem cũng là nơi có Tòa Tối Cao, tòa án này cũng là hội đồng hành chính quốc gia của người Do Thái.

2. Sự kiện đáng kinh ngạc nào xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN?

2 Khoảng chín giờ vào buổi sáng mùa xuân ấm áp năm 33 CN ấy, có một sự kiện xảy ra mà nhiều thế kỷ sau ai nghe cũng phải ngạc nhiên. Thình lình, từ trời “có tiếng động như tiếng gió thổi mạnh”, hay “như tiếng gió bão” (Công 2:2; Trịnh Văn Căn). Tiếng động ấy lan khắp căn nhà, nơi mà 120 môn đồ của Chúa Giê-su đang nhóm lại. Kế đến, một điều hết sức kinh ngạc xảy ra. Có gì như các lưỡi lửa hiện ra, mỗi cái đậu trên một môn đồ.c Rồi họ “được tràn đầy thần khí thánh” và bắt đầu nói những thứ tiếng khác. Khi các môn đồ ra khỏi nhà, những du khách họ gặp trên đường phố Giê-ru-sa-lem đều sửng sốt, vì các môn đồ có thể nói chuyện với họ! Thật vậy, mỗi người đều nghe “các môn đồ nói ngôn ngữ của họ”.—Công 2:1-6.

3. (a) Tại sao Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN có thể được gọi là mốc lịch sử của sự thờ phượng thật? (b) Lời giảng của Phi-e-rơ liên quan chặt chẽ với việc dùng “các chìa khóa của Nước Trời” như thế nào?

3 Lời tường thuật đầy hào hứng này miêu tả một mốc lịch sử của sự thờ phượng thật, đó là sự thành lập dân Y-sơ-ra-ên thiêng liêng, tức hội thánh gồm các tín đồ được xức dầu (Ga 6:16). Nhưng không chỉ có thế. Khi nói với đoàn dân đông ngày hôm đó, Phi-e-rơ đã dùng chìa khóa thứ nhất trong ba “chìa khóa của Nước Trời”, mỗi chìa mở ra những đặc ân cho một nhóm người khác nhau (Mat 16:18, 19). Chìa khóa thứ nhất mở cho người Do Thái cũng như người cải đạo Do Thái cơ hội chấp nhận tin mừng và được xức dầu bằng thần khí thánh Đức Chúa Trời.d Vì vậy họ trở thành một phần của dân Y-sơ-ra-ên thiêng liêng, nhờ thế có hy vọng làm vua và thầy tế lễ trong Nước của Đấng Mê-si (Khải 5:9, 10). Với thời gian, đặc ân này cũng được mở rộng cho người Sa-ma-ri và sau đó là dân ngoại. Tín đồ đạo Đấng Ki-tô ngày nay có thể học được gì từ những sự kiện quan trọng vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN?

“Họ nhóm lại một chỗ” (Công vụ 2:1-4)

4. Tại sao có thể nói hội thánh đạo Đấng Ki-tô thời nay chính là sự nới rộng của hội thánh được hình thành năm 33 CN?

4 Hội thánh đạo Đấng Ki-tô khởi đầu với khoảng 120 môn đồ “nhóm lại một chỗ” là căn phòng trên lầu, và được xức dầu bằng thần khí thánh (Công 2:1). Cuối ngày hôm đó, tổng số thành viên đã báp-têm của hội thánh ấy lên đến hàng ngàn. Đó chỉ là khởi đầu trong sự phát triển của một tổ chức vẫn tiếp tục nới rộng vào thời nay! Thật vậy, đoàn thể những người nam và nữ kính sợ Đức Chúa Trời, tức hội thánh đạo Đấng Ki-tô thời nay, chính là phương tiện để ‘tin mừng về Nước Trời được rao truyền khắp đất để làm chứng cho muôn dân’, trước khi đến thời điểm kết thúc của thế gian này.—Mat 24:14.

5. Vào thế kỷ thứ nhất lẫn ngày nay, việc kết hợp với hội thánh đạo Đấng Ki-tô mang lại ân phước nào?

5 Hội thánh đạo Đấng Ki-tô cũng là nguồn sức mạnh về mặt thiêng liêng cho mỗi thành viên, cả những người được xức dầu lẫn “chiên khác” sau này (Giăng 10:16). Trong thư gửi cho các tín đồ ở Rô-ma, Phao-lô bày tỏ lòng quý trọng việc các thành viên trong hội thánh hỗ trợ lẫn nhau. Ông viết: “Tôi mong mỏi được gặp anh em để chia sẻ món quà thiêng liêng giúp anh em vững mạnh; hay để chúng ta khích lệ lẫn nhau bằng đức tin của mỗi người, tức là của anh em và của tôi”.—Rô 1:11, 12.

RÔ-MA—THỦ ĐÔ CỦA MỘT ĐẾ QUỐC

Suốt giai đoạn được miêu tả trong sách Công vụ, Rô-ma là thành phố lớn nhất và quan trọng nhất về mặt chính trị trong thế giới thời bấy giờ. Đó là thủ đô của một đế quốc mà thời cực thịnh đã thống trị vùng lãnh thổ trải dài từ Anh Quốc đến Bắc Phi, từ Đại Tây Dương đến Vịnh Ba Tư.

Rô-ma là nơi hội tụ của các nền văn hóa, chủng tộc, ngôn ngữ và mê tín dị đoan. Mạng lưới đường sá được bảo trì tốt đã đưa lữ khách và hàng hóa từ khắp mọi nơi của đế quốc này đến đây. Ở cảng Ostia gần đó, những chiếc thuyền qua lại trên các tuyến đường giao thương tấp nập thì bốc dỡ thực phẩm và hàng hóa xa xỉ cho thành phố.

Đến thế kỷ thứ nhất CN, có hơn một triệu người sống ở Rô-ma. Có lẽ phân nửa dân số là nô lệ, gồm tội nhân bị kết án, trẻ con bị cha mẹ bán hoặc bỏ rơi và tù binh từ những chiến dịch của các quân đoàn La Mã. Trong số những người bị giải về Rô-ma làm nô lệ thì có cả người Do Thái từ thành Giê-ru-sa-lem, sau khi thành này bị tướng La Mã Pompey chinh phục vào năm 63 TCN.

Phần lớn người dân tự do là người nghèo khổ, sống chen chúc trong những ngôi nhà nhiều tầng và phụ thuộc vào nguồn trợ cấp của chính phủ. Tuy nhiên, các hoàng đế đã trang hoàng cho thủ đô của mình bằng một số công trình công cộng nguy nga tráng lệ chưa từng thấy. Trong đó có các nhà hát và sân vận động lớn dành cho những buổi trình diễn như các tiết mục sân khấu, trận đấu giữa các đấu sĩ và đua xe ngựa, tất cả đều phục vụ miễn phí cho quần chúng giải trí.

6, 7. Làm thế nào hội thánh đạo Đấng Ki-tô thời nay thực hiện sứ mạng được giao là rao giảng cho muôn dân?

6 Ngày nay, hội thánh đạo Đấng Ki-tô cũng có những mục tiêu giống như thời thế kỷ thứ nhất. Chúa Giê-su đã giao cho môn đồ ngài một công việc đầy thách đố nhưng rất hào hứng. Ngài bảo họ: “Hãy đi đào tạo người từ muôn dân trở thành môn đồ tôi, làm phép báp-têm cho họ nhân danh Cha, Con và thần khí thánh, dạy họ giữ mọi điều mà tôi đã truyền cho anh em”.—Mat 28:19, 20.

7 Hội thánh Nhân Chứng Giê-hô-va chính là công cụ để thực hiện công việc ấy vào thời nay. Dĩ nhiên, tiếp cận với những người thuộc các ngôn ngữ khác nhau là cả một thách đố. Dù vậy, Nhân Chứng Giê-hô-va đã xuất bản tài liệu dựa trên Kinh Thánh trong hơn 1.000 ngôn ngữ. Nếu đang tích cực kết hợp với hội thánh đạo Đấng Ki-tô, tham gia công việc rao giảng về Nước Trời và đào tạo môn đồ, thì anh chị có lý do để vui mừng. Anh chị nằm trong số người tương đối ít trên đất hiện nay có đặc ân làm chứng cặn kẽ về danh Đức Giê-hô-va!

8. Chúng ta nhận được lợi ích nào qua hội thánh đạo Đấng Ki-tô?

8 Để giúp anh chị vui mừng chịu đựng trong thời kỳ khó khăn này, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cung cấp một đoàn thể anh em trên khắp thế giới. Phao-lô viết cho các tín đồ người Hê-bơ-rơ: “Hãy quan tâm đến nhau để khuyến giục nhau biểu lộ tình yêu thương và làm việc lành, chớ bỏ việc nhóm họp với nhau như một số người quen làm, nhưng hãy khuyến khích nhau, và khi thấy ngày ấy gần kề thì càng phải làm như thế nhiều hơn nữa” (Hê 10:24, 25). Hội thánh đạo Đấng Ki-tô là một sắp đặt của Đức Giê-hô-va để anh chị có thể khuyến khích người khác và chính anh chị cũng được khích lệ. Hãy luôn gắn bó với anh em đồng đạo. Đừng bao giờ bỏ việc “nhóm họp với nhau” tại các buổi họp của đạo Đấng Ki-tô!

“Mỗi người đều nghe... ngôn ngữ của họ” (Công vụ 2:5-13)

Các môn đồ của Chúa Giê-su rao giảng cho người Do Thái và người cải đạo Do Thái trên một con đường đông đúc.

“[Chúng ta] đều nghe họ nói về những điều vĩ đại của Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của chúng ta”.—Công vụ 2:11

9, 10. Một số anh chị tình nguyện làm gì để tiếp cận với những người nói ngôn ngữ khác?

9 Hãy tưởng tượng sự hào hứng tràn ngập trong nhóm người Do Thái và người cải đạo Do Thái vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN. Phần đông trong số họ rất có thể sử dụng một ngôn ngữ chung, như tiếng Hy Lạp hoặc Hê-bơ-rơ. Nhưng giờ đây, “mỗi người đều nghe các môn đồ nói ngôn ngữ của họ” (Công 2:6). Hẳn những người ấy rất cảm động khi nghe tin mừng trong tiếng mẹ đẻ. Dĩ nhiên, tín đồ đạo Đấng Ki-tô ngày nay không được ban khả năng kỳ diệu để nói tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều người đã tình nguyện rao truyền thông điệp Nước Trời cho người thuộc mọi nước. Họ làm thế bằng cách nào? Một số đã học ngoại ngữ để có thể phục vụ trong một hội thánh nói tiếng nước ngoài gần đó hoặc thậm chí dọn đến nước khác. Họ thường nhận thấy rằng người nghe rất cảm kích nỗ lực của họ.

10 Hãy xem kinh nghiệm của chị Christine. Chị đã học một khóa tiếng Gujarati cùng bảy Nhân Chứng khác. Khi gặp một đồng nghiệp nói tiếng này, chị chào người phụ nữ trẻ ấy bằng tiếng mẹ đẻ của cô. Cô rất ấn tượng và muốn biết tại sao chị nỗ lực để học một ngôn ngữ khó như thế. Chị Christine đã có dịp làm chứng tốt. Cô ấy nói với chị: “Hẳn chị có điều gì đó rất quan trọng để nói”.

11. Chúng ta được trang bị thế nào để rao giảng tin mừng cho người nói ngôn ngữ khác?

11 Tất nhiên không phải ai trong chúng ta cũng có thể học ngôn ngữ khác. Dù vậy, chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng để rao giảng thông điệp Nước Trời cho người thuộc các nhóm ngôn ngữ khác. Bằng cách nào? Một cách là dùng ứng dụng JW Language® để học một lời chào hỏi đơn giản bằng ngôn ngữ phổ biến trong khu vực. Anh chị cũng có thể học một vài câu gợi sự chú ý của người nghe. Hãy hướng họ đến jw.org, và có thể cho xem các video và ấn phẩm đa dạng có trong ngôn ngữ của họ. Khi dùng những công cụ này trong thánh chức, chúng ta sẽ có cùng niềm vui mà các anh em vào thế kỷ thứ nhất đã có khi những người đến từ vùng khác kinh ngạc vì được nghe tin mừng, “mỗi người đều nghe [bằng] ngôn ngữ của họ”.

NGƯỜI DO THÁI Ở MÊ-SÔ-BÔ-TA-MI VÀ AI CẬP

Sách về lịch sử dân Do Thái thời Chúa Giê-su Ki-tô (The History of the Jewish People in the Age of Jesus Christ), từ 175 TCN–135 CN, nói: “Ở Mê-sô-bô-ta-mi, Mê-đi và xứ Ba-by-lôn có con cháu của những người thuộc vương quốc gồm mười chi phái [nước Y-sơ-ra-ên] và vương quốc Giu-đa, là những người từng bị người A-si-ri và Ba-by-lôn đày đến đó”. Theo Ê-xơ-ra 2:64, chỉ có 42.360 người Y-sơ-ra-ên trở về Giê-ru-sa-lem sau khi bị lưu đày ở Ba-by-lôn. Sự việc này diễn ra vào năm 537 TCN. Ông Flavius Josephus nhận xét rằng vào thế kỷ thứ nhất CN, số người Do Thái “cư ngụ tại xứ Ba-by-lôn” lên đến hàng chục ngàn. Từ thế kỷ thứ ba đến thứ năm CN, các cộng đồng người Do Thái ấy đã cho ra đời tác phẩm gọi là kinh Talmud từ Ba-by-lôn.

Các tài liệu minh chứng rằng ít nhất từ thế kỷ thứ sáu TCN đã có người Do Thái sống ở Ai Cập. Trong thời gian đó, Giê-rê-mi gửi thông điệp cho người Do Thái sống tại nhiều nơi trong xứ Ai Cập, kể cả Mem-phi (Giê 44:1, chú thích). Dường như có rất nhiều người nhập cư vào Ai Cập trong thời văn hóa Hy Lạp. Ông Josephus nói rằng người Do Thái nằm trong số những cư dân đầu tiên ở A-léc-xan-ri-a. Dần dần, một phần của thành này đã được giao cho họ. Vào thế kỷ thứ nhất CN, nhà văn Do Thái là Philo đã khẳng định rằng một triệu người đồng hương của ông đang sống khắp Ai Cập, từ “ranh giới của Li-bi cho đến biên giới của Ê-thi-ô-bi”.

‘Phi-e-rơ đứng dậy’ (Công vụ 2:14-37)

12. (a) Nhà tiên tri Giô-ên đã nói gì liên quan đến sự kiện phi thường diễn ra tại Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN? (b) Tại sao vào thế kỷ thứ nhất người ta mong đợi lời tiên tri của Giô-ên được ứng nghiệm?

12 ‘Phi-e-rơ đứng dậy’ nói với đám đông đến từ nhiều nước (Công 2:14). Ông giải thích cho tất cả những ai muốn nghe biết rằng khả năng kỳ diệu nói tiếng nước ngoài là do Đức Chúa Trời ban để làm ứng nghiệm lời tiên tri của Giô-ên: “Ta sẽ đổ thần khí trên mọi loại người” (Giô-ên 2:28). Trước khi lên trời, Chúa Giê-su nói với môn đồ ngài: “Tôi sẽ xin Cha và ngài sẽ ban [cho anh em] một sự trợ giúp khác”, và ngài cho biết đó là “thần khí”.—Giăng 14:16, 17.

13, 14. Phi-e-rơ cố gắng động đến lòng người nghe bằng cách nào, và làm sao chúng ta có thể bắt chước cách của ông?

13 Lời kết của Phi-e-rơ trước đám đông thật quả quyết: “Hỡi cả nhà Y-sơ-ra-ên, hãy biết chắc rằng Chúa Giê-su này, người mà anh em xử tử trên cây cột, đã được Đức Chúa Trời lập làm Chúa và Đấng Ki-tô” (Công 2:36). Tất nhiên là phần đông những người đang lắng nghe Phi-e-rơ đã không có mặt khi Chúa Giê-su bị xử tử trên cây khổ hình. Nhưng với tư cách một dân tộc, họ phải chịu trách nhiệm chung về hành động đó. Dù vậy, hãy để ý là Phi-e-rơ nói với đồng hương Do Thái một cách tôn trọng và động đến lòng. Mục tiêu của ông là thúc đẩy người nghe ăn năn, chứ không phải lên án họ. Đám đông ấy có cảm thấy bị xúc phạm vì lời nói của ông không? Chắc chắn không. Trái lại, dân chúng “đau nhói trong lòng”. Họ hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?”. Rất có thể cách nói tôn trọng của Phi-e-rơ là một yếu tố quan trọng trong việc động đến lòng nhiều người, nhờ thế họ được thúc đẩy để ăn năn.—Công 2:37.

14 Chúng ta có thể bắt chước cách của Phi-e-rơ để động đến lòng người ta. Khi làm chứng cho người khác, chúng ta không cần tranh luận về mỗi quan điểm trái Kinh Thánh mà chủ nhà nêu lên. Thay vì thế, chúng ta nên thảo luận dựa trên những điều mà cả hai có thể chấp nhận. Nếu đã tạo được điểm chung với người nghe, thì sau đó chúng ta có thể khéo léo lý luận dựa trên Lời Đức Chúa Trời. Thường khi các sự thật trong Kinh Thánh được trình bày theo cách tích cực như thế, những người có lòng thành có thể dễ hưởng ứng hơn.

ĐẠO ĐẤNG KI-TÔ Ở BON-TU

Trong số những người nghe lời giảng của Phi-e-rơ vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN, có những người Do Thái đến từ Bon-tu, một vùng thuộc miền bắc Tiểu Á (Công 2:9). Hình như một số người trong vòng họ đã mang tin mừng về quê nhà, vì trong số những người mà Phi-e-rơ gửi thư thứ nhất cũng có các tín đồ sống “rải rác” ở những nơi như Bon-tug (1 Phi 1:1). Thư của ông cho biết rằng các tín đồ này đã vì đức tin mà “chịu khốn khổ bởi mọi loại thử thách” (1 Phi 1:6). Có thể điều đó cũng bao gồm sự bắt bớ và chống đối.

Các thử thách khác mà tín đồ đạo Đấng Ki-tô ở Bon-tu phải đương đầu được gián tiếp nói đến trong thư từ qua lại giữa Pliny là quan tổng đốc tỉnh Bi-thi-ni-a và Bon-tu, với hoàng đế Trajan. Trong lá thư viết ở Bon-tu khoảng năm 112 CN, Pliny báo cáo rằng “sự truyền nhiễm” của đạo Đấng Ki-tô đe dọa mọi người, bất kể giới tính, tuổi tác hoặc tầng lớp xã hội. Pliny đã cho những người bị buộc tội là tín đồ đạo Đấng Ki-tô cơ hội chối bỏ đạo, và ai không chối bỏ thì ông xử tử. Bất cứ ai nguyền rủa Đấng Ki-tô, hoặc lặp lại lời cầu nguyện với các vị thần hay với tượng của Trajan, đều được thả ra. Pliny thừa nhận rằng đó là những điều mà “không thể bắt buộc những người thật sự là tín đồ đạo Đấng Ki-tô làm theo”.

g Từ được dịch là “rải rác” bắt nguồn từ một từ Hy Lạp có nghĩa là “thuộc các cộng đồng người Do Thái ở hải ngoại”, cho thấy rằng phần nhiều trong số những người cải đạo đầu tiên đến từ các cộng đồng Do Thái.

“Mỗi người hãy chịu phép báp-têm” (Công vụ 2:38-47)

15. (a) Phi-e-rơ đã nói gì, và người ta hưởng ứng ra sao? (b) Tại sao hàng ngàn người nghe tin mừng tại Lễ Ngũ Tuần hội đủ điều kiện để được báp-têm trong cùng ngày đó?

15 Vào ngày Lễ Ngũ Tuần đầy hào hứng năm 33 CN, Phi-e-rơ nói với những người hưởng ứng gồm người Do Thái và người cải đạo Do Thái: “Anh em hãy ăn năn, mỗi người hãy chịu phép báp-têm” (Công 2:38). Kết quả là khoảng 3.000 người chịu phép báp-têm, có thể tại các hồ trong thành Giê-ru-sa-lem hoặc gần đó.e Đây có phải là một hành động hấp tấp không? Lời tường thuật này có được xem là tiền lệ để các học viên Kinh Thánh và con cái của các tín đồ đạo Đấng Ki-tô vội vàng chịu phép báp-têm khi chưa sẵn sàng không? Không phải vậy. Hãy nhớ rằng những người Do Thái cũng như người cải đạo Do Thái chịu phép báp-têm vào Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN là những người siêng năng học Lời Đức Chúa Trời. Họ cũng thuộc về dân tộc đã được dâng cho Đức Giê-hô-va. Hơn nữa, họ đã thể hiện lòng sốt sắng của mình, một số đi từ rất xa để có mặt tại kỳ lễ thường niên này. Sau khi chấp nhận những sự thật trọng yếu liên quan đến vai trò của Chúa Giê-su Ki-tô trong ý định của Đức Chúa Trời, họ sẵn sàng tiếp tục phụng sự ngài, nhưng giờ đây với tư cách môn đồ đã báp-têm của Đấng Ki-tô.

NGƯỜI CẢI ĐẠO DO THÁI LÀ AI?

“Cả người Do Thái lẫn người cải đạo Do Thái” đã nghe lời giảng của Phi-e-rơ tại Lễ Ngũ Tuần năm 33 CN.—Công 2:10.

Trong số những người nam hội đủ điều kiện được bổ nhiệm chăm lo “công việc cần thiết” là phân phát lương thực mỗi ngày thì có Ni-cô-la, “một người An-ti-ốt đã cải đạo Do Thái” (Công 6:3-5). Người cải đạo Do Thái là người ngoại, tức không phải người Do Thái, đã cải sang đạo Do Thái. Trong mọi phương diện họ đều được xem là người Do Thái, vì họ đã chấp nhận Đức Chúa Trời cùng với Luật pháp của dân Y-sơ-ra-ên, từ bỏ tất cả các thần khác, chịu phép cắt bì (nếu là người nam) và gia nhập vào nước Y-sơ-ra-ên.

Sau khi người Do Thái bị lưu đày ở Ba-by-lôn được thả ra vào năm 537 TCN, nhiều người sống xa nước Y-sơ-ra-ên nhưng vẫn tiếp tục theo Do Thái giáo. Nhờ thế, người dân ở khắp vùng Cận Đông cổ xưa và xa hơn nữa trở nên quen thuộc với tôn giáo của người Do Thái. Những nhà văn thời xưa như Horace và Seneca đã chứng thực rằng rất nhiều người ở các vùng khác, là những người có cảm tình với người Do Thái cũng như niềm tin của họ, đã gia nhập các cộng đồng Do Thái và trở thành người cải đạo Do Thái.

16. Các môn đồ Đấng Ki-tô thời thế kỷ thứ nhất đã thể hiện tinh thần hy sinh như thế nào?

16 Chắc chắn Đức Giê-hô-va đã ban phước cho nhóm người ấy. Lời tường thuật cho biết: “Hết thảy những ai trở thành môn đồ đều nhóm lại và đóng góp mọi thứ làm của chung. Họ bán của cải và đất đai mình rồi phân phát tiền thu được cho tất cả, tùy theo nhu cầu của mỗi người”f (Công 2:44, 45). Tất cả các môn đồ chân chính của Đấng Ki-tô hẳn muốn bắt chước tinh thần yêu thương và hy sinh đó.

17. Một người cần làm những bước nào để hội đủ điều kiện chịu phép báp-têm?

17 Sự dâng mình và phép báp-têm của tín đồ đạo Đấng Ki-tô đòi hỏi một số bước cần thiết dựa trên Kinh Thánh. Một người phải thu thập sự hiểu biết về Lời Đức Chúa Trời (Giăng 17:3). Người đó cần phải thể hiện đức tin, ăn năn lối sống cũ và bày tỏ lòng hối cải thật sự (Công 3:19). Kế đến, người đó phải cải hóa, hay quay trở lại, và bắt đầu làm điều đúng phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời (Rô 12:2; Ê-phê 4:23, 24). Sau các bước này, người đó dâng mình cho Đức Chúa Trời qua lời cầu nguyện rồi chịu phép báp-têm.—Mat 16:24; 1 Phi 3:21.

18. Đặc ân nào mở ra cho môn đồ đã báp-têm của Đấng Ki-tô?

18 Anh chị có phải là một môn đồ của Chúa Giê-su Ki-tô, đã dâng mình và chịu phép báp-têm không? Nếu có, hãy quý trọng đặc ân mở ra cho anh chị. Như các môn đồ thời thế kỷ thứ nhất, là những người được tràn đầy thần khí thánh, anh chị có thể được dùng theo cách hữu hiệu để làm chứng cặn kẽ và thực hiện ý muốn của Đức Giê-hô-va!

a Xem khung “Giê-ru-sa-lem—Trung tâm của Do Thái giáo”.

b Xem khung “Rô-ma—Thủ đô của một đế quốc”; khung “Người Do Thái ở Mê-sô-bô-ta-mi và Ai Cập”; và khung “Đạo Đấng Ki-tô ở Bon-tu”.

c “Những lưỡi lửa” này không phải là lửa thật mà chỉ “như những lưỡi lửa”, dường như cho thấy điều xuất hiện trên mỗi môn đồ có hình dạng và ánh sáng của ngọn lửa.

d Xem khung “Người cải đạo Do Thái là ai?”

e Để so sánh, tại hội nghị quốc tế của Nhân Chứng Giê-hô-va vào ngày 7-8-1993 ở Kiev, Ukraine, có 7.402 người chịu phép báp-têm trong sáu hồ bơi. Phải mất hai giờ mười lăm phút mới hoàn tất buổi báp-têm ấy.

f Sắp đặt tạm thời này đáp ứng nhu cầu phát sinh vào lúc ấy, vì những khách viếng thăm tiếp tục ở lại Giê-ru-sa-lem để học biết thêm về niềm tin mới. Đây là việc đóng góp tình nguyện, không nên lẫn lộn với hình thức bị bắt buộc đóng góp để dùng chung.—Công 5:1-4.

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ