Cuộc tiến-hành của bốn người kỵ-mã—Một Dấu-hiệu
“Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa bạch, một con ngựa sắc hồng, một con ngựa ô, một con ngựa vàng-vàng, người cưỡi ngựa ấy tên là Sự chết, và Âm-phủ theo sau người”. (Khải-huyền 6:2-8).
1. Trước khi an tọa ờ bàn ăn sáng vào ngày 2-10-1914, vị chủ-tịch Hội Tháp Canh đã làm gì tại trụ sở trung-ương ở Brooklyn?
Nhằm thứ sáu ngày 2-10-1914, vị chủ-tịch của Hội Tháp Canh bước vào phòng ăn dành cho nhân-viên thuộc trụ sở trung-ương ở số 124 Columbia Heights, Brooklyn, New York, Hoa-kỳ, lúc vừa 7 giờ sáng. Trước khi đi đến chỗ ngồi nơi đầu bàn, ông ngừng lại. Rồi để lấy tất cả sự chú ý của những người tại phòng ăn, ông vỗ hai tay vào nhau. Rồi với một giọng lạc-quan, ông đề cập đến lời mở đầu ở câu 3 trong bài hát “Vua chúng ta đang tiến bước” ở trang 162, 163 trong tập bài hát Hymns of Millennial Dawn. Câu này có nói: “Thời-kỳ dân ngoại đã chấm dứt vì các vua chúa của họ đã hết thời rồi”. Xong ông ngồi vào chỗ thường lệ để chủ-tọa một chương-trình thảo-luận tôn-giáo trong mỗi bữa ăn sáng của gia-đình Bê-tên.
2. Vị chủ-tịch đã cho biết trước về năm được đánh dấu ấy từ bao lâu trước đó, và ông đã được sống bao lâu để chứng kiến cuộc tranh chiến thế-giới?
2 Ngay từ năm 1876, trong một bài báo đăng tải trong tờ Xem xét Kinh-thánh (The Bible Examiner), vị chủ-tịch này đã bàn về việc năm 1914 sẽ là lúc “thời-kỳ dân ngoại” được trọn, với hậu-quả nghiêm-trọng cho cả nhân-loại (Lu-ca 21:24). Thật đáng ngạc nhiên, ngay khi vị chủ-tịch thông-báo với gia-đình Bê-tên ở Brooklyn rằng thời-kỳ dân ngoại đã chấm dứt, Thế-chiến Thứ Nhất trong lịch-sử nhân-loại đã diễn ra được 66 ngày rồi. Lúc đó đã có 14 nước tuyên chiến trong cuộc đụng độ khốc-liệt chống cự lẫn nhau. Trong cuộc tranh dành hung-bạo về quyền bá chủ thế-giới và về các thị-trường thế-giới đó, cả thảy có đến 29 quốc-gia và đế-quốc tham dự vào một cuộc chiến khốc-liệt không thể tưởng được. Vị chủ-tịch, người đã nói các lời kể trên, đã chết trước khi chính quốc-gia ông là Hoa-kỳ dính líu vào Thế-chiến Thứ Nhất ngày 6 tháng 4 năm 1917 để trở nên đồng minh của Anh-quốc chống lại khối các cường-quốc Trung Âu.
3. Vị chủ-tịch đã nhấn mạnh tầm quan-trọng của năm 1914 như thế nào, và ông có thể cảm thấy thế nào khi nói “thời-kỳ dân ngoại đã chấm dứt”?
3 Vị chủ-tịch Hội Tháp Canh đã nhấn mạnh lại ý nghĩa quan-trọng của 1914 trong tạp-chí Tháp Canh từ 1879 trở về sau và nhất là trong quyển sách Giờ đã gần đến (The Time Is at Hand), xuất bản năm 1889. Nhưng vào khoảng ngày 2-10-1914, ông đã quan sát đủ các biến-cố và diễn tiến của tình-hình thế-giới trong năm đáng ghi nhớ đó để làm vững chắc thêm lời quả-quyết công-khai của ông. Ông cảm thấy tự hào là một học-viên khá cẩn-thận về niên-đại-học hoặc thời-biểu của Kinh-thánh và về các lời tiên-tri trong Kinh-thánh về thì giờ và kỳ định của Đức Chúa Trời.
4. Trước khi chết, vị chủ-tịch Hội Tháp Canh đã thấy ai bắt đầu cỡi ngựa? Ta có thể gọi đó là “điềm” của cái gì?
4 Vậy trước sự chết bất ngờ của ông vào tối thứ ba ngày 31-10-1916, ông đã thấy sự khởi đầu của cuộc tiến-hành của bốn người kỵ-mã trong Khải-huyền từ năm mà thời-kỳ dân ngoại chấm dứt theo niên-đại-học của Kinh-thánh. Sách Khải-huyền là quyển cuối cùng trong Kinh-thánh thuộc phần viết bằng tiếng Hy-lạp tức là phần thường được gọi là Tân-ước. Cuộc tiến-hành của bốn người kỵ-mã có ý nghĩa trên khắp thế-giới, vì đó là một phần của “điềm” cho biết gia-đình nhân-loại đang ở vào thời điểm nào. Việc đó chỉ rằng chúng ta đang ở trong khoảng mà các môn-đồ của Giê-su đã gọi là “sự kết-liễu của hệ-thống mọi sự” (Ma-thi-ơ 24:3, NW). Đó là “điềm” đã nói cho chúng ta trong phần mở đầu của Khải-huyền, nơi đó có viết: “Sự mặc-thị của Chúa Giê-su Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ ra cùng tôi-tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên-sứ đến tỏ những điều đó cho Giăng tôi-tớ Ngài” (Khải-huyền 1:1).
5. Các bản dịch Kinh-thánh có dịch khác nhau như thế nào về các điều tượng trưng trình bày trong Khải-huyền, và đúng như lời mở đầu, Khải-huyền có đầy những gì?
5 Cuộc tiến-hành của bốn người kỵ-mã được ghi trong Khải-huyền 6:1-8. Điểm đáng chú ý là trong khi bản dịch Thế-giới Mới dùng thành-ngữ “trình bày bằng dấu hiệu” tương tự như trong bản dịch của Rotherham thì từ-ngữ “ra dấu” được dùng trong bản dịch King James hoặc vài bản dịch khác (Authorized Version năm 1611, The Emphatic Diaglott của B. Wilson và Literal Translation of the Holy Bible của Young). Đúng theo lời giới thiệu đó, quyển sách cuối cùng của Kinh-thánh là Khải-huyền chứa đầy dấu hiệu, ý nghĩa tượng trưng về nhiều điều có tầm mức quan-trọng lớn lao trong lịch-sử nhân-loại và các điều này sẽ xảy ra trong tương-lai rất gần tức “kíp xảy đến”.
Bốn kỵ-mã cỡi bốn con ngựa
6. Sự vui mừng được tiên-tri trong Khải-huyền 1:3 đã được dành cho ai và làm sao được như vậy?
6 Không có sự phát triển lịch-sử nào chứng tỏ những điều đó đã xảy ra trong 18 thế-kỷ sau sự chết của sứ-đồ Giăng vào khoảng năm 98 tây-lịch, vậy bây giờ chúng ta hãy chú ý đến thế-kỷ thứ 20 này. Như thế chúng ta sẽ thấy phần còn lại của thế-kỷ 20 này dành cho chúng ta sự vui mừng mà vị sứ-đồ được soi dẫn đã viết: “Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên-tri này và giữ theo điều đã viết ra đây. Vì thì giờ đã gần rồi.” (Khải-huyền 1:3). Vì hạnh-phúc của chúng ta, chúng ta hãy xem xét “dấu hiệu” về bốn kỵ-mã cỡi bốn con ngựa. Chúng ta đọc Khải-huyền 6:1-8:
7. Cái gì xuất hiện khi Chiên Con mở ấn thứ nhứt?
7 “Tôi nhìn xem, khi Chiên Con (Giê-su Christ) mở ấn thứ nhứt trong bảy ấn, thì tôi thấy một con trong bốn con sanh-vật nói tiếng như sấm rằng: Hãy đến! Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa bạch. Người cỡi ngựa có một cái cung; có kẻ ban cho người một cái mão triều-thiên, và người đi như kẻ đã thắng lại đến đâu cũng thắng.
8. Sứ-đồ Giăng đã thấy gì khi ấn thứ hai được mở ra?
8 “Khi Chiên Con mở ấn thứ nhì, tôi nghe con sinh-vật thứ nhì nói: Hãy đến! Liền có con ngựa khác sắc hồng hiện ra. Kẻ ngồi trên ngựa được quyền cất lấy cuộc hòa-bình khỏi thế-gian, hầu cho người ta giết lẫn nhau; và có kẻ ban cho người một thanh gươm lớn.”
9. Giăng đã thấy và nghe gì khi ấn thứ ba được mở ra?
9 Khi Chiên Con mở ấn thứ ba, tôi nghe con sanh-vật thứ ba nói: Hãy đến! Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa ô. Kẻ ngồi trên ngựa tay cầm cái cân. Tôi lại nghe ở giữa bốn con sanh-vật như có tiếng nói rằng: Một đấu lúa mì bán một đơ-ni-ê, ba đấu mạch-nha bán một đơ-ni-ê, còn dầu và rượu chớ động đến.”
10. Khi ấn thứ tư được mở ra, sứ-đồ Giăng đã quan-sát và nghe gì trong sự hiện thấy?
10 Khi Chiên Con mở ấn thứ tư, tôi nghe con sanh-vật thứ tư nói: Hãy đến! Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa vàng vàng hiện ra. Người cỡi ngựa ấy tên là Sự chết và Âm-phủ theo sau người. Họ được quyền trên một góc tư thế-gian, đặng sát hại dân-sự bằng gươm dao, bằng đói kém, bằng dịch-lệ và bằng các loài thú dữ trên đất”.
CON NGỰA BẠCH VÀ NGƯỜI KỴ-MÃ
11-13. a) Con ngựa bạch tượng trưng gì? Và người cỡi ngựa ấy tượng trưng hạng người nào? b) Người cỡi ngựa đó phù hợp với lời trong Thi-thiên về người kỵ-mã nào? Và sứ-đồ Phao-lô áp-dụng lời đó cho ai trong Hê-bơ-rơ 1:8, 9?
11 Ngựa bạch có nghĩa là một phương-tiện di chuyển thuộc hoàng-tộc, biểu hiệu cho sự công-bình và thánh-khiết, di chuyển nhanh-nhẹn như một con ngựa thật. Người cỡi ngựa này tượng trưng cho một vị vua mới được lên ngôi, vì người mới được ban cho một mão triều-thiên hay một vương-miện. Ngài là vua thiện chiến vì có cầm cung tên. Hơn nữa, ngài cỡi ngựa để chinh phục, để chiến thắng cho đến khi kẻ thù cuối cùng của Nước Trời bị ngài đánh bại. Đó là một chiến thắng toàn vẹn. Đồng thời, một thanh gươm lớn được ban cho ngài, đó là một khí-giới để dùng vào chiến tranh. Vậy, ai là người làm trọn vai trò đó trong thế-kỷ hai mươi này của chúng ta? Lẽ dĩ nhiên chính là vị vua đã làm ứng-nghiệm lời của Thi-thiên 45, nơi đó nói:
12 “Lòng tôi đầy tràn những lời tốt. Tôi nói điều tôi vịnh cho vua...Hỡi Đấng mạnh-dạn, hãy đai gươm nơi hông, là sự vinh-hiển và oai-nghi của ngài. Vì cớ sự chơn-thật, sự hiền-từ, và sự công-bình, hãy lấy sự oai-nghi ngài cỡi xe lướt tới cách thắng trận; tay hữu ngài sẽ dạy cho ngài những việc đáng kinh. Các mũi tên ngài bén nhọn, bắn thấu tim kẻ thù-nghịch vua; các dân đều ngã dưới ngài. Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia; bính-quyền nước Chúa là một bính-quyền ngay thẳng. Chúa ưa sự công-bình, và ghét điều gian-ác; cho nên Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Chúa, đã xức dầu cho Chúa bằng dầu vui-vẻ trổi hơn đồng-loại Chúa.” (Câu 1-7).
13 Trong Hê-bơ-rơ 1:8, 9, sứ-đồ Phao-lô trích dẫn Thi-thiên 45:6, 7 và áp-dụng các lời đó cho Con của Đức Chúa Trời là Giê-su Christ. Vậy người cỡi ngựa bạch và đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác không ai khác hơn là Giê-su Christ kể từ ngày được phong vương ở trên trời vào cuối thời-kỳ dân ngoại năm 1914.
14. a) Khi nào và thế nào Giê-su đã cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem như đến để được phong vua và làm ứng-nghiệm lời tiên-tri nào? b) Giê-su bắt chước ai khi cỡi lừa trong trường-hợp như thế?
14 Chúng ta nhớ lại lúc Giê-su cỡi con lừa đi đến đền thờ tại Giê-ru-sa-lem với tư-cách vị vua đã được chọn và sắp được phong chức. Lúc ấy, ngài đã không cỡi một con ngựa bạch hùng-dũng mà cỡi một con lừa. Điều này ứng-nghiệm lời tiên-tri ghi nơi Xa-cha-ri 9:9 như sau: “Hỡi con gái Si-ôn, hãy mừng rỡ cả thể! Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, hãy trổi tiếng reo vui! Này, Vua ngươi đến cùng ngươi, Ngài là công-bình và ban sự cứu-rỗi, nhu-mì và cỡi lừa, tức là con của lừa cái”. Để làm đúng lời tiên-tri này, Giê-su cỡi con vật hiền-hòa khi ngài tiến vào thành Giê-ru-sa-lem ngày 10 tháng Ni-san theo lịch Do-thái trong năm 33 tây-lịch, bởi đó ngài đến trình diện như Chiên Con của Đức Chúa Trời ngay trong ngày mà dân Do-thái đem con chiên của lễ Vượt-qua vào nhà và giữ tại đó cho đến ngày cử hành lễ Vượt-qua ngày 14 tháng Ni-san. Và khi cỡi con lừa như vậy Giê-su cũng đã bắt chước tổ-phụ ngài là vua Sa-lô-môn con vua Đa-vít. Khi Đa-vít nhường ngôi vua sau 40 năm ngồi trên ngai của nước Y-sơ-ra-ên, ông đã bảo Sa-lô-môn cỡi một con lừa cái đến dự lễ nhậm chức. Sau khi thầy tế-lễ Xa-đốc xức dầu cho vua Sa-lô-môn để kế vị cha người thì đám đông dân Y-sơ-ra-ên tại đó đã hô lên rằng: “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!” (I Các Vua 1:33-40).
15. a) Dân chúng phản ứng thế nào khi Giê-su cỡi con lừa mà vào thành Giê-ru-sa-lem? b) Nhưng thành Giê-ru-sa-lem đã đón tiếp ngài thế nào và tại sao?
15 Bây giờ Giê-su được đón tiếp như thế nào khi 4 ngày trước lễ Vượt-qua, ngài cỡi lừa đi từ trên núi Ô-li-ve xuống thành để nhậm chức? Đám đông theo sau ngài bị lôi cuốn theo tinh-thần của cuộc lễ và cảm thấy ngài là đấng Mê-si đã hứa, vua của Y-sơ-ra-ên. Họ vẩy nhành chà-là, trải áo họ trên đường để ngài cỡi lừa qua. “Đoàn dân đi trước và theo sau đều kêu lên rằng: Hô-sa-na con vua Đa-vít! Đáng ngợi khen cho Đấng nhơn danh Đức Giê-hô-va mà đến! Hô-sa-na ở trên nơi rất cao!” (Ma-thi-ơ 21:1-9, NW). Đó là phản ứng chung của dân chúng, nhưng về phần thành Giê-ru-sa-lem sống dưới ảnh-hưởng của giới lãnh-đạo Do-thái là giới không được hướng dẫn bởi sự ứng-nghiệm của các lời tiên-tri trước mắt họ thì lại khác: dân thành Giê-ru-sa-lem đã không đón tiếp ngài như vua.
16. Giới-chức trong đền thờ đối đãi với Giê-su khác đối đãi với những người buôn bán như thế nào?
16 Khi Giê-su đến đền thờ, thầy tế-lễ thượng-phẩm là Cai-phe đã không xức dầu cho ngài đặng làm vua biệt lập khỏi Đế-quốc La-mã. Các thầy tế-lễ đã cho phép những người buôn bán dùng đền thờ làm nơi hành nghề của họ, nhưng Giê-su tỏ tính cách đúng của một thầy tế-lễ bằng cách đuổi họ ra và quở trách những kẻ phản đối mà rằng: “Có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu-nguyện; nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp.” Những người Do-thái mù và què đến với ngài trong đền thờ thì ngài chữa lành họ. Nhưng thầy tế-lễ cả và các thầy thông-giáo không bằng lòng với các sự việc đang xảy ra, từ chối nhận ngài là “con vua Đa-vít” và chẳng chịu phong quyền vua nước Y-sơ-ra-ên cho ngài. Khi Giê-su bỏ họ tại đền thờ và đi ra khỏi thành mà đến làng Bê-tha-ni, ngài đã không làm như vậy với tư cách một vị vua mới được lên ngôi (Ma-thi-ơ 21:1-17).
17. Phi-lát chú ý đến lời tuyên bố về quyền vua của Giê-su thế nào? Và ông đã nhấn mạnh về chức vua của Giê-su như thế nào mặc dầu trái ý muốn của các thầy tế-lễ?
17 Bốn ngày sau, khi Giê-su đứng trước tổng-đốc La-mã Phi-lát, người ngoại này hỏi Giê-su có phải ngài là vua không. Giê-su trả lời rằng Nước ngài không thuộc về thế-gian này như Phi-lát là một thành-phần của thế-gian. Khi thầy tế-lễ cả tuyên bố rõ “chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi” thì Phi-lát giao Giê-su để họ đóng đinh ngài trên đồi Gô-gô-tha. Nhưng Phi-lát bắt họ phải để một tấm bảng treo trên cây khổ-hình của Giê-su có đề chữ rằng: “Giê-su người Na-xa-rét, là vua dân Giu-đa” (Giăng 19:15, 19-22).
18. Đức Giê-hô-va đã làm sống lại Con Ngài trong ngày quan-trọng nào, và Giê-su đã nói lời chia tay nào với các môn-đồ trước khi ngài lên trời?
18 Bây giờ thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời Toàn-năng phải làm sống lại người con tử vì đạo như “đấng sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết” vào ngày 16 Ni-san tức nhằm ngày mà dân Do-thái dâng bó lúa đầu mùa cho Đức Giê-hô-va tại đền thờ (Khải-huyền 1:5). Nhờ đó, vị Vua tương-lai đã có thể hiện ra cho các môn-đồ trung-thành của ngài thấy được trong chính ngày đó. Bốn mươi ngày sau, trước khi trở về trời, ngài nói với họ: “Hết cả quyền-phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy hãy đi dạy-dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con và thánh-linh mà làm phép báp-têm cho họ”. (Ma-thi-ơ 28:18, 19, NW; Lê-vi Ký 23:10-12; I Cô-rinh-tô 15:20).
Hoàn-tất cuộc chinh-phục
19. Giê-su đã có thể làm ứng-nghiệm hình ảnh tiên-tri nào khi thì giờ đến và từ thời đó tới nay ngài là loại vua nào?
19 Vậy Giê-su có thể làm ứng-nghiệm lời tiên-tri về người kỵ-mã cỡi con ngựa bạch như một vị vua đã lên ngôi để hoàn tất cuộc chinh-phục trên tất cả kẻ thù ở trên trời lẫn dưới đất (Khải-huyền 6:1, 2). Kể từ lúc chấm dứt “thời-kỳ dân ngoại” vào năm 1914 ngài là một vị vua thiện chiến, được võ trang tượng trưng bằng một cái cung để bắn kẻ thù từ đằng xa. Thật vậy, lời tiên-tri trong Thi-thiên 45:3-8 có nói về vị vua thiện chiến này:
20. Lời lẽ trong Thi-thiên nói ngài sẽ làm gì?
20 “Hỡi Đấng mạnh-dạn, hãy đai gươm nơi hông, là sự vinh-hiển và sự oai-nghi của ngài. Vì cớ sự chơn-thật, sự hiền-từ, và sự công-bình, hãy lấy sự oai-nghi ngài cỡi xe lướt tới cách thắng trận; tay hữu ngài sẽ dạy cho ngài những việc đáng kinh. Các mủi tên ngài bén nhọn, bắn thấu tim kẻ thù-nghịch vua; các dân đều ngã dưới ngài. Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia; bính-quyền nước Chúa là một bính-quyền ngay thẳng. Chúa ưa sự công-bình và ghét điều gian-ác, cho nên Đức Chúa Trời của Chúa, đã xức dầu cho Chúa bằng dầu vui-vẻ trổi hơn đồng-loại Chúa. Các áo xống ngài bay mùi thơm một-dược, trầm-hương và nhục-quế; từ trong đền ngà có tiếng nhạc-khí bằng dây làm vui-vẻ ngài.”
21. a) Làm thế nào chúng ta biết chắc lời trong Thi-thiên áp-dụng cho Giê-su sau khi được vinh-hiển? b) Tài bắn cung chính xác của ngài nhắm các kẻ thù được nhấn mạnh trong Thi-thiên 45:5 thế nào?
21 Sứ-đồ Phao-lô nơi Hê-bơ-rơ 1:8, 9 đã trích lời lẽ của Thi-thiên 45:3-8 và áp-dụng lời đó cho Giê-su Christ để làm chú ý đến địa-vị tôn-vinh cao-cả của ngài. Điều này làm cho chắc chắn vị “vua” mà “con cháu Cô-rê” đã được soi dẫn để viết chính là vua Giê-su Christ (Hãy xem lời tựa của Thi-thiên 45). Các mũi tên của ngài sẽ được nhắm vào tim của những kẻ chống đối Nước Trời chính xác hơn là những người thiện-xạ tại Bạt-thê xưa kia mà đã nổi tiếng là những tay bắn cung rất tài dù đang cỡi trên lưng ngựa.
22. a) Phần nào khác trong Khải-huyền miêu tả người kỵ-mã cỡi con ngựa bạch này và người đó có danh xưng gì? b) Mắt chúng ta được phước để thấy sự việc gì và chúng ta phản ứng ra sao trước cảnh tượng đó?
22 Người kỵ-mã cỡi con ngựa bạch được miêu tả trong Khải-huyền 6:2 chứng tỏ chính là người kỵ-mã cỡi con ngựa bạch được hình dung ở Khải-huyền 19:11-16. Người sau này được xưng là “Lời Đức Chúa Trời” và trên đùi ngài có đề một danh là: “Vua của các vua và Chúa của các chúa”. Đây là giai-đoạn cao điểm tột độ trong cuộc chiến trong ngày lớn của Đức Chúa Trời toàn-năng tại Ha-ma-ghê-đôn hoặc là núi Mê-ghi-đô (Khải-huyền 16:14-16; 19:17-21). Lúc đó sẽ xảy ra sự việc mà mắt loài người không thấy được là Sa-tan và các quỉ-sứ theo hắn sẽ bị xiềng trong vực sâu trong một ngàn năm (Khải-huyền 20:1-3). Ân-phước thay cho những ai thấy bằng đức-tin vị Vua được lên ngôi và cỡi con ngựa bạch từ lúc thời-kỳ dân ngoại chấm dứt năm 1914. Với sự vui mừng từ trong đáy lòng về cuộc chinh phục của ngài từ trước đến nay, chúng ta reo lớn: “Tiến lên, hỡi vua cỡi ngựa bạch, hãy thẳng tiến đến trận chiến toàn thắng tại Ha-ma-ghê-đôn để làm sáng danh Vua của vũ-trụ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đã ban cho chúng tôi “điềm” tiên-tri này!”
Bạn trả lời thế nào cho các câu hỏi sau đây:
□ Cuộc tiến-hành của các người kỵ-mã đã bắt đầu khi nào?
□ Việc đó đã đáp đúng sự mong chờ nào?
□ Người kỵ-mã đầu tiên xưa kia đã cỡi gì và đã được tiếp đón thế nào?
□ Các đoạn văn nơi Khải-huyền 6:1, 2; 19:11-16 và Thi-thiên 45:3-8 cho biết gì về cuộc tiến-hành của người kỵ-mã đó trong thời nay?