Tôi tớ của Nước Trời đương đầu với sự thách đố
“Thế thì, A-bô-lô là ai, và Phao-lô là ai? Ấy là kẻ tôi-tớ, mà bởi kẻ đó anh em đã tin-cậy” (I CÔ-RINH-TÔ 3:5).
1. a) Trong lãnh vực tôn giáo ngày nay người ta không công nhận điều gì và tại sao? b) Đế quốc nào đang bị đe dọa và việc gì sẽ xảy ra cho nó?
Ngày nay người ta không còn công nhận uy quyền của các giáo sĩ như thuở xưa. Tình trạng trên càng ngày càng thấy rõ trong khi nhà cầm quyền chính trị quay sang chống đối các tôn giáo, trong số đó có cả các đạo “theo đấng Christ”, và xem các tôn giáo như những tổ chức chỉ để làm tiền. Ngay cả những người tốt nghiệp tại các tu viện cũng không được xem như giáo sĩ và hoạt động của họ bị cấm tại các quốc gia chống lại tôn giáo. Thật vậy, đế quốc tôn giáo giả đang bị vây hãm và bị một cuộc tấn công toàn thế giới hăm dọa tận diệt. Đức Chúa Trời, Đấng đã lập ra tôn giáo thật có tiên đoán trước điều ấy và đã ấn định một thời nào đó theo ý Ngài lời tiên tri Ngài sẽ phải ứng nghiệm. Đời sống mọi tạo vật khắp vũ trụ sẽ được lợi ích do biến cố lạ thường này mang lại!
2. Trên bình diện tôn giáo cái gì sẽ còn lại đời đời và cái gì sẽ còn lại đời đời và cái gì sẽ bị hủy diệt?
2 Tuy nhiên phe chống tôn giáo sẽ không tồn tại được lâu dài trên mặt đất này, nhưng Đấng đã tạo ra vũ trụ thì sẽ tồn tại mãi mãi! Và chính đạo của Đấng Tối thượng bất tử này sẽ còn lại đời đời! Bởi lý do đó, dù dân số mấy tỷ người trên thế giới không chịu chấp nhận các sự kiện rõ ràng, ngay bây giờ những người thực hành đạo của Đức Chúa Trời hiện đang sống và hoạt động mạnh trên trái đất này. Và lời nói sau đây xưa từ nhiều thế kỷ vẫn tỏ ra rất đúng vào ngày nay: “Bổn-tánh Ngài, thì từ buổi sáng-thế vẫn sờ-sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem-xét công-việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô-ma 1:20).
3, 4. a) Làm cách nào chứng tỏ được là Đức Giê-hô-va có tôi tớ hầu việc Ngài trên đất? b) Làm thế nào chúng ta biết là các giáo sĩ của Ba-by-lôn Lớn sắp thất nghiệp?
3 Khi các lời trên được viết ra vào thế kỷ thứ nhứt tây lịch, Giê-hô-va Đức Chúa Trời có các tôi tớ Ngài trên trái đất này. Thế nên sứ-đồ Phao-lô có thể viết: “Thế thì, A-bô-lô là ai, và Phao-lô là ai? Ấy là kẻ tôi-tớ, mà bởi kẻ đó anh em đã tin-cậy, y theo Chúa đã ban cho mọi người. Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên” (I Cô-rinh-tô 3:5-9).
4 Đức Giê-hô-va cũng phải có tôi tớ Ngài trên trái đất ngày nay. Nhưng Ngài không dùng những giáo sĩ của Ba-by-lôn Lớn, đế quốc tôn giáo giả trên khắp thế giới. Thật ra những người này không bao lâu nữa sẽ bị thất nghiệp, khi mà Ba-by-lôn Lớn bị hủy diệt. Nói tiên tri về việc này, Khải-huyền 16:19 có viết: “Thành-phố lớn bị chia ra làm ba phần, còn các thành của các dân ngoại đều đổ xuống, và Đức Chúa Trời nhớ đến Ba-by-lôn lớn đặng cho nó uống chén rượu thạnh-nộ Ngài”.
5. Điều gì đã xảy ra tại thành Ba-by-lôn xưa vào năm 539 trước tây lịch, và số phận những người trung thành theo Ba-by-lôn Lớn sẽ ra sao?
5 Thế về phần những người trung thành theo các tôn giáo nằm trong thành phần Ba-by-lôn Lớn với những giáo sĩ chuyên nghiệp thì sao? Để trả lời hãy xem những gì xảy ra trong cái đêm vào năm 539 trước tây lịch ấy khi vua Bên-xát-sa và quần thần đang cầu nguyện các thần của Ba-by-lôn tại một buổi tiệc lớn mặc dầu các đạo quân Mê-đi và Phe-rơ-sơ đang công hãm thành. Trước hết các người đang dự tiệc ồn ào thì nhận được lời cảnh cáo khi một hàng chữ do phép lạ đã xuất hiện trên tường nơi đại sảnh và sau đó được nghe lời giải thích các chữ ấy bởi nhà tiên tri của Đức Chúa Trời là Đa-ni-ên. Rồi Ba-by-lôn bị thất thủ ngay trong đêm ấy, vua và chắc hẳn những người dự tiệc khác vốn thờ các tà thần đều đã bị quân đội chiến thắng tiến vào sát hại (Đa-ni-ên đoạn 5). Một đại họa tương tự đang chờ đón những người nhứt định giữ sự trung thành với các hệ thống tôn giáo thuộc Ba-by-lôn Lớn.
Tôi tớ Đức Chúa Trời cần thiết khẩn cấp ngày nay
6. a) Vào thời buổi khẩn trương này, Đức Chúa Trời đã phải dự trù điều gì cho gia đình nhân loại? b) Thời kỳ dân ngoại chấm dứt lúc nào, và Giê-su đã nói gì về việc ấy?
6 Không ai có thể nghi ngờ là chúng ta đang sống vào thời buổi khẩn trương nhứt của lịch sử loài người kể từ trận Nước Lụt vào thời Nô-ê (II Ti-mô-thê 3:1-5). Bởi vậy mà ngày nay rất cần thiết có những người giúp việc chân chính cho Đức Chúa Trời của Nô-ê. Cũng như Đức Giê-hô-va khi xưa đã cảnh cáo những người vào thời Nô-ê và các kẻ đã đến dự tiệc của Bên-xát-sa, chắc chắn Ngài cũng có một thông điệp khẩn cấp cho nhân loại kể từ năm 1914, khi Thế chiến thứ nhứt bộc phát. Quả thật các tôi tớ Đức Chúa Trời đã tuyên bố công khai và rộng rãi trong vòng bốn chục năm trước đó rằng năm 1914 sẽ là năm kết thúc thời kỳ các dân ngoại là thời kỳ mà Giê-su có nói tới như sau: “Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày-đạp, cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn” (Lu-ca 21:24).
7. a) Giê-ru-sa-lem dưới đất đã bị các nước dân ngoại giày đạp cho đến lúc nào? b) Rốt cuộc Giê-su đã nghĩ gì khi nói Giê-ru-sa-lem “sẽ bị dân ngoại giày-đạp”?
7 Trong khoảng 53 năm sau năm 1914, tức cho đến trận Chiến tranh Sáu ngày vào năm 1967 thì thành Giê-ru-sa-lem dưới đất tiếp tục bị chà đạp dưới gót chân các dân không phải Do-thái. Nhưng hiển nhiên Giê-su không đề cập đến thành Giê-ru-sa-lem của quốc gia Do-thái hiện tại mà ngài ngụ ý nói đến cái gì mà thành ấy tượng trưng cho đến năm 607 trước tây lịch. Thế thành ấy tượng trưng cho sự gì? Chính là cho Vương quốc, hay Nước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, trong tay vị Vua được xức dầu thuộc dòng dõi Đa-vít (Lu-ca 1:32; I Sử-ký 29:11).
8. Đức Giê-hô-va sẽ ban nước của Đa-vít cho ai, và tại sao loài người sẽ không thấy được khi vị vua này được lên ngôi?
8 Chính Giê-su Christ sẽ được Đức Chúa Trời giao cho điều khiển nước của tổ phụ Đa-vít khi xưa. Đứng trước Phi-lát đang xét xử ngài, Giê-su đã bảo Nước ngài không thuộc thế gian này, ngài muốn ám chỉ là nước ấy sẽ ở trên trời (Giăng 18:36). Như vậy việc Giê-su lên ngôi trong Nước Trời vào cuối thời kỳ dân ngoại sẽ diễn ra nơi cõi vô hình trên trời, mắt con người không thể thấy được, bởi thế mà chúng ta cũng như các người dân ngoại đều không ai thấy được lúc ngài được phong vương vào năm 1914 để ngồi trên ngôi của Nước do Đức Chúa Trời ban cho ngài. Các quốc gia hẳn không tin là biến cố ấy đã xảy ra mặc dù dân sự Đức Giê-hô-va đã công bố điều ấy từ thập niên 1870.
9. a) Các nước đã làm gì, chứng tỏ họ không đếm xỉa đến thông điệp Nước Trời? b) Bởi các nước đã từ chối làm gì vào năm 1914 nên điều gì tỏ ra cần thiết?
9 Không đếm xỉa gì đến thông điệp Nước Trời, vào mùa thu năm 1914 các quốc gia lao đầu vào chiến tranh. Như Thi-thiên 2:1-12 có nói, các nước đã chứng tỏ họ là kẻ thù của Giê-su vì họ từ chối “hôn” vị Vua mới lên ngôi, có nghĩa họ từ chối không chịu thần phục ngài. Bởi vậy những gì được nói ở Thi-thiên 110:1, 2 cần được thực hiện: “Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng ta đặt kẻ thù-nghịch ngươi làm bệ chơn cho ngươi. Đức Giê-hô-va từ Si-ôn sẽ sai đến cây phủ-việt về sự năng-lực ngươi: Hãy cai-trị giữa các thù-nghịch ngươi”.
10. a) Giê-su đã bắt đầu trị vì năm 1914 trong những hoàn cảnh nào? b) Những ai là người đại diện Đức Giê-hô-va trong thế kỷ hai mươi?
10 Các người Do-thái chống đối thời xưa đã tỏ sự thù ghét đối với các sứ-đồ của Giê-su khi Giê-su ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để chờ đợi lúc ngài có thể bắt đầu cai trị giữa các kẻ thù (Công-vụ các Sứ-đồ 4:24-26). Thời nay cũng vậy, Giê-su Christ đã bắt đầu cai trị giữa các kẻ thù của mình khi thời kỳ dân ngoại kết thúc vào năm 1914. Như vậy vào thế kỷ 20 này cũng như trong quá khứ, Đức Giê-hô-va đều có những tôi tớ chân chính của Nước Trời công bố thông điệp Ngài ở giữa các kẻ thù. Những tôi tớ ấy là những nhân-chứng của Ngài (Ê-sai 43:10-12).
Bảo vệ quyền phụng sự của chúng ta
11. Ai không công nhận các Nhân-chứng Giê-hô-va là những tôi tớ hầu việc Nước Trời được Đức Chúa Trời công nhận?
11 Từ xưa tới nay, các tôi tớ chân chính của Nước Trời được bổ nhiệm bởi Đức Giê-hô-va đều đã phải bảo vệ quyền lợi thi hành thánh chức của mình. Điều này quả rất đúng trong trường hợp các Nhân-chứng Giê-hô-va vào thế kỷ 20 này. Quyền được phụng sự như những tôi tớ được bổ nhiệm hẳn hoi bởi Đức Chúa Trời đã không được người ta công nhận. Bởi ai thế? Nhất là bởi các tư sĩ tốt nghiệp các viện thần học của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ, các người này nhận được chứng thư chuẩn bổ và họ là những giới chức giáo phẩm ăn lương. Các người này tự xem là họ được giáo huấn đúng phép và có đầy đủ khả năng xứng đáng được độc quyền phụng sự Đức Chúa Trời của Kinh-thánh.
12. Người ta đã không công nhận vai trò người giúp việc của Đức Chúa Trời của người tín đồ lỗi lạc nào vào thế kỷ thứ nhứt, và ta phải xem bất cứ kẻ nào rao giảng một tin mừng khác ra sao?
12 Tình trạng cũng tương tự thế vào thế kỷ thứ nhứt tây lịch. Tại tỉnh Ga-la-ti lệ thuộc đế quốc La-mã ngay cả người đã được soi dẫn để viết ra khoảng phân nửa các sách trong Kinh-thánh phần viết bằng tiếng Hy-lạp (Tân ước) cũng đã phải đối phó với việc người ta tỏ vẻ nghi ngờ về khả năng ông làm sứ-đồ của Giê-su Christ, vì họ nghi ngờ những gì ông giảng về đạo đấng Christ. Bởi thế ông đã phải nói với những người ở thành Ga-la-ti: “Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ Đấng gọi anh em bởi ơn Đức Chúa Giê-su Christ, đặng theo tin mừng khác. Thật chẳng phải có tin mừng khác, nhưng có mấy kẻ làm rối trí anh em, và muốn đánh-đổ Tin mừng của Đấng Christ. Nhưng nếu có ai, hoặc có chính chúng tôi, hoặc thiên-sứ trên trời, truyền cho anh em một tin mừng nào khác với Tin mừng chúng tôi đã truyền cho anh em, thì người ấy đáng bị a-na-them! Tôi đã nói rồi, nay lại nói lần nữa. Nếu ai truyền cho anh em một tin mừng nào khác với Tin mừng anh em đã nhận, thì người ấy đáng bị a-na-them! Còn bây giờ, có phải tôi mong người ta ưng-chịu tôi hay là Đức Chúa Trời? Hay là tôi muốn đẹp lòng loài người chăng? Ví bằng tôi còn làm cho đẹp lòng loài người, thì tôi chẳng phải là tôi-tớ của đấng Christ” (Ga-la-ti 1:6-9).
13. Tại sao đáng lẽ người thành Ga-la-ti đã không nên ngờ vực tích cách kẻ giúp việc Đức Chúa Trời của Phao-lô?
13 Thật ra, người ấy là sứ-đồ Phao-lô, thoạt đầu đã không học về đạo đấng Christ một cách trực tiếp với chính Giê-su hay 12 vị sứ-đồ của ngài. Về sau Phao-lô có ở với sứ-đồ Phi-e-rơ, cũng có tên là Sê-pha, một thời gian (Giăng 1:42; Ga-la-ti 1:18, 19). Nhưng để bênh vực cho sự kiện mình là một người có khả năng rao giảng tin mừng đến từ Đức Chúa Trời qua đấng Christ, Phao-lô đã có thể nói các lời sau với các tín đồ ở Ga-la-ti vốn thiếu sự quân bình: “và nhận biết ân-điển đã ban cho tôi, thì Gia-cơ, Sê-pha, Giăng, là những người được tôn như cột-trụ, trao tay hữu giao-kết với chúng tôi, tức là Ba-na-ba và tôi, hầu cho chúng tôi đi đến cùng dân ngoại, còn những người ấy thì đến cùng những kẻ chịu phép cắt-bì” (Ga-la-ti 2:9). Như vậy các tín đồ ở Ga-la-ti đáng lẽ đã phải tự hỏi mình: Nếu Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng là những sứ-đồ của Giê-su mà đã nhìn nhận Phao-lô quả mang tin mừng chân chính thì chúng ta còn lý do gì để không công nhận thông điệp của ông mà quay lưng đi?
14. Tại sao không có gì lạ khi người ta thách đố địa vị người rao giảng tin mừng của các Nhân-chứng Giê-hô-va?
14 Thế còn dân sự của Đức Giê-hô-va ngày nay thì sao? Nếu một người như Phao-lô mà còn phải bênh vực và chứng minh cho tư cách kẻ giúp việc của Đức Chúa Trời và đấng Christ của mình thì có gì phải ngạc nhiên nếu chúng ta là những Nhân-chứng Giê-hô-va đã dâng mình và chịu báp-têm mà còn phải bị thách đố và phải bênh vực cho địa vị làm người rao giảng về Nước Trời? Cũng như trong trường hợp của Phao-lô, những sự thách đố vô căn cứ như thế không chứng minh được gì hết.
Ngay cả Giê-su cũng đã bị thách đố
15. Người ta cũng đã thách đố về quyền giảng dạy của nhân vật nào cao hơn các vị sứ-đồ, nhưng vị này nhìn nhận mình có có quyền ấy do ai ban cho?
15 Chính Đức Chúa Giê-su cũng đã từng bị những người cùng xứ thách đố, không chịu nhận ngài như một tôi tớ Đức Chúa Trời có quyền giảng đạo. Thí dụ chúng ta đọc: “Giữa kỳ lễ, Đức Chúa Giê-su lên đền-thờ dạy-dỗ. Các người Giu-đa sững-sờ mà nói rằng: Người nầy chưa từng học, làm sao biết được Kinh-thánh? Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Đạo-lý của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Đấng đã sai ta đến. Nếu ai khứng làm theo ý-muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo-lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta. Kẻ nói theo ý mình thì tìm vinh-hiển riêng mình; nhưng kẻ tìm vinh-hiển của Đấng đã sai mình đến, mới là chơn-thật, và chắc trong mình không có điều gì không công-bình đâu” (Giăng 7:14-18).
16. Tại sao các nhà lãnh đạo Do-thái-giáo nghĩ mình có những lý do vững chắc để không công nhận khả năng giảng dạy của Giê-su?
16 Các nhà lãnh đạo Do-thái-giáo chỉ xem Giê-su như một người dân tầm thường miền Ga-li-lê. Dĩ nhiên họ không nghĩ là ngài không biết đọc vì không có đi học, chẳng hạn loại trường học như tu viện. Dù sao đi nữa, Giê-su đã cho thấy là ngài biết đọc Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ (Lu-ca 4:16-21). Những người Do-thái miền Giu-đê và Giê-ru-sa-lem không chấp nhận Giê-su vì người trước kia đã làm nghề thợ mộc này không phải là một nhà thần học và không thể nào được sắp hạng với các thầy thông giáo, các người Pha-ri-si và Sa-đu-sê của nước Do-thái. Vậy làm sao Giê-su dám công khai nói hiểu Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ và cách áp dụng Kinh-thánh và giảng dạy một cách có uy quyền như thế? Đó là lý do khiến người Do-thái trở nên điếc về phương diện thiêng-liêng và không nghe được âm thanh của lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời. Họ quá tự phụ nên không chịu nghe một người không được tốt nghiệp một trường thần học.
“Được Đức Giê-hô-va dạy-dỗ”
17. Trong trường hợp của đấng Christ, các nhà lãnh đạo Do-thái-giáo đã quên vị Giáo sư nào, và chính Giê-su đã là một học trò như thế nào?
17 Những người Do-thái có sự khôn ngoan theo thế gian nơi đây quên Đấng đã dạy dỗ Giê-su Christ. Nếu Giê-su là một người dạy dỗ có tài đó là nhờ nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời, «vị giáo sư lỗi lạc nhứt» (Gióp 36:22). Nói về Đức Chúa Trời như một giáo sư, Giê-su đã tuyên bố: “Khi các ngươi treo Con người lên, bấy giờ sẽ biết ta là ai, và biết ta không tự mình làm điều gì, nhưng nói điều Cha đã dạy ta” (Giăng 8:28). Vậy Giê-su đã tỏ ra là học trò hay nhứt trong số các học viên trong khắp vũ trụ theo học với vị giáo sư tài ba nhứt. Điều này mang vinh dự lại cho Đấng đã dạy dỗ ngài. Bởi thế không có gì lạ khi dân thành Na-xa-rét nói về Giê-su vốn đã từng sống nơi thành đó: “Bởi đâu mà người nầy được khôn-ngoan và những phép lạ nầy?” (Ma-thi-ơ 13:54).
18. a) Chúng ta muốn có được một giáo sư như thế nào? b) Giê-su nói gì về vị Giáo sư vĩ đại nhứt và về những ai được vị ấy dạy dỗ?
18 Để hiểu Kinh-thánh chúng ta muốn và cần có được Giáo sư tài giỏi nhứt. Và vị Giáo sư ấy đã soi dẫn người ta để viết ra quyển sách vô song này. Ngỏ lời trước những người thuộc tổ chức hữu hình trên đất của vị Giáo sư ấy vào thời mà chính ngài còn ở trên đất, Giê-su nói: “Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta, và ta sẽ làm cho người đó sống lại nơi ngày sau-rốt. Các sách tiên-tri có chép rằng: Ai nấy đều sẽ được Đức Chúa Trời dạy-dỗ. Hễ ai đã nghe Cha và học theo Ngài thì đến cùng ta” (Giăng 6:44, 45). Lúc đó Giê-su trích câu Ê-sai 54:13 vốn có chép như sau: “Hết thảy con-cái ngươi sẽ được Đức Giê-hô-va dạy-dỗ, và sự bình-an của con-cái ngươi sẽ lớn”.
19. Những “con-cái” của ai sẽ được Đức Giê-hô-va dạy dỗ?
19 Nhưng câu hỏi sau được nêu ra: “Con-cái” của ai là những người “được Đức Giê-hô-va dạy-dỗ”? Lời tiên tri trên đã được hứa cho một “người đàn-bà” tượng trưng sắp trở thành người mẹ của một số “con-cái”. Các lời sau được chép ở Ê-sai 54:1 dành cho người “đàn-bà” này: “Hỡi kẻ son-sẻ, không sanh-đẻ kia, hãy ca-hát. Hỡi ngươi là kẻ chưa biết sự đau-đớn sanh-nở, hãy hát-xướng reo-mừng, vì con-cái của vợ bị bỏ sẽ đông hơn con-cái của đờn-bà có chồng, Đức Giê-hô-va phán vậy”.
20. Theo II Cô-rinh-tô 13:5, các tín đồ đấng Christ đã dâng mình phải tiếp tục làm gì, và như thế chứng tỏ gì về khả năng cần thiết để làm những người rao giảng về Nước Trời?
20 Vậy nếu Đức Giê-hô-va đã ngỏ lời với người “đàn-bà” này và Ngài là Giáo sư của các “con-cái” nàng thì tất nhiên Ngài phải là Chồng nàng theo nghĩa tượng trưng. Về phần người “đàn-bà” này thì nàng phải là tổ chức trên trời của Ngài. Các “con-cái” này là học trò của “vị Giáo sư tài giỏi nhứt”. Dĩ nhiên các “con-cái” ấy tức các tín đồ được xức dầu của đấng Christ, và các bạn đồng hành của họ thuộc “đám đông vô-số người” phải luôn luôn thực hành những điều mà Đức Giê-hô-va đã dạy họ (Khải-huyền 7:9). Chắc chắn đấy là một phương pháp để vâng theo lời khuyến khích sau của Phao-lô: “Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức-tin chăng. Hãy tự thử mình” (II Cô-rinh-tô 13:5). Nếu người tín đồ đấng Christ đã dâng mình và chịu phép báp-têm tiếp tục hành động như thế và tỏ ra là những người học trò chăm chỉ của vị Giáo sư tài giỏi nhứt thì họ thật có khả năng cần thiết để làm những người rao giảng về Nước Trời và được Đức Giê-hô-va công nhận. Chúng ta sẽ xem ở bài sau đây làm sao những tôi tớ của Đức Chúa Trời chứng tỏ xứng đáng là người rao giảng về Nước Trời.
Bạn sẽ nói sao?
◻ Bạn có thể chứng tỏ Đức Chúa Trời có những tôi tớ trên đất thế nào?
◻ Thành Giê-ru-sa-lem “bị dân ngoại giày-đạp, cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn” tượng trưng cho gì?
◻ Bởi các nước không màng đến Nước Trời, Giê-su đã phải làm gì?
◻ Tại sao không có gì lạ khi các Nhân-chứng Giê-hô-va không được người ta xem là tôi tớ của Đức Chúa Trời?
◻ Những nhà lãnh đạo tôn giáo người Do-thái đã quên gì khi thách đố tài giảng dạy của Giê-su?
[Hình nơi trang 13]
Ngày nay Đức Giê-hô-va phái tôi tớ Ngài đi rao truyền một thông điệp khẩn trương cũng giống như khi xưa Ngài đã dùng Đa-ni-ên để thông tin cho Bên-xát-sa giữa yến tiệc.
[Hình nơi trang 15]
Các nhà lãnh đạo tôn giáo thời Giê-su Christ vì quá tự phụ nên đã không nhìn biết ngài là tôi tớ của Đức Chúa Trời.