THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w92 1/9 trg 9-14
  • Thoát khỏi tôn giáo giả

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Thoát khỏi tôn giáo giả
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1992
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Nguồn gốc của tôn giáo giả
  • Tôn giáo thật
  • Bị giam cầm tại Ba-by-lôn
  • Thoát khỏi tôn giáo giả trong thời kỳ cuối cùng
  • Tôn giáo thật và tôn giáo giả
  • Thực hành tôn giáo thanh sạch để được sống sót
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1992
  • Hãy tránh xa sự thờ phượng sai lầm!
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2006
  • Tôn giáo sai lầm bôi nhọ Đức Chúa Trời
    Vui sống mãi mãi!—Bí quyết từ Kinh Thánh
  • Sự thờ phượng mà Đức Chúa Trời chấp nhận
    Kinh Thánh thật sự dạy gì?
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1992
w92 1/9 trg 9-14

Thoát khỏi tôn giáo giả

“Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó... Đừng đá-động đến đồ ô-uế, thì ta sẽ tiếp-nhận các ngươi” (II CÔ-RINH-TÔ 6:17).

1. Sa-tan cố gắng đổi chác gì với Giê-su, và chúng ta học được hai điều gì qua lời đề nghị của hắn?

“VÍ BẰNG ngươi sấp mình trước mặt ta mà thờ-lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thảy mọi sự nầy”. Dù lời đề nghị này đã được nêu ra hàng ngàn năm sau khi tôn giáo giả bắt đầu xuất hiện, nó giải đáp cho chúng ta hiểu ai là kẻ nấp sau tôn giáo giả và tôn giáo giả có mục đích gì. Vào cuối năm 29 công nguyên, Ma-quỉ đề nghị cho Giê-su tất cả các nước thế gian miễn là Giê-su quì lạy hắn. Câu chuyện đó cho chúng ta thấy hai điều: Sa-tan làm chủ các nước thế gian và mục đích tối hậu sau cùng của tôn giáo giả là thờ lạy Ma-quỉ (Ma-thi-ơ 4:8, 9).

2. Những lời Giê-su nói nơi Ma-thi-ơ 4:10 dạy chúng ta điều gì?

2 Lời đối đáp của Giê-su không những chứng tỏ ngài bác bỏ tôn giáo giả mà lại còn cho thấy tôn giáo thật bao hàm những gì. Ngài tuyên bố: “Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ-phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (Ma-thi-ơ 4:10). Vì vậy, mục đích của tôn giáo thật là thờ phượng Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời có một và thật. Tôn giáo thật bao hàm đức tin và sự vâng lời, tức làm theo ý muốn của Đức Giê-hô-va.

Nguồn gốc của tôn giáo giả

3. a) Tôn giáo giả đã bắt đầu bao giờ và thế nào trên đất? b) Kinh-thánh kể lại hành động đầu tiên nào về sự chống đối tôn giáo, và từ đó trở đi sự bắt bớ về tôn giáo tiếp tục như thế nào?

3 Tôn giáo giả đã bắt đầu xuất hiện trên đất khi hai người đầu tiên bất tuân Đức Chúa Trời và chấp nhận lời đề nghị của con Rắn để tự ý họ quyết định “điều thiện và điều ác” (Sáng-thế Ký 3:5). Khi làm thế họ phủ nhận sự thống trị công bình của Đức Giê-hô-va và từ bỏ sự thờ phượng đúng, tôn giáo thật. Họ là những người đầu tiên “đã đổi lẽ thật Đức Chúa Trời lấy sự dối-trá, kính-thờ và hầu việc loài chịu dựng nên thế cho Đấng dựng nên” (Rô-ma 1:25). Tạo vật mà họ vô tình chọn thờ phượng chính là Sa-tan Ma-quỉ, tức “con rắn xưa” (Khải-huyền 12:9). Con trai đầu lòng của họ là Ca-in từ chối nghe theo lời khuyên nhân từ của Đức Giê-hô-va và bởi đó hắn chống lại sự thống trị của Ngài. Dù biết hay không, Ca-in cũng đã trở nên “con-cái ma-quỉ” Sa-tan và là kẻ thực hành sự thờ phượng Ma-quỉ. Hắn giết em là A-bên là người thực hành sự thờ phượng thật, tôn giáo thật (I Giăng 3:12; Sáng-thế Ký 4:3-8; Hê-bơ-rơ 11:4). A-bên là người đầu tiên bị đổ máu vì sự chống đối về tôn giáo. Điều đáng buồn là tôn giáo giả tiếp tục làm đổ máu những người vô tội cho đến ngày nay. (Xem Ma-thi-ơ 23:29-35; 24:3, 9).

4. Trong trường hợp của Nô-ê, các câu Kinh-thánh nào cho thấy rõ bản chất của tôn giáo thật?

4 Trước trận Nước Lụt, Sa-tan thành công trong việc làm cho phần đông nhân loại xây bỏ tôn giáo thật. Tuy nhiên, Nô-ê “được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va”. Tại sao? Bởi vì ông “đồng đi cùng Đức Chúa Trời”. Nói cách khác, ông thực hành sự thờ phượng thật. Tôn giáo thật không phải là nghi lễ hay nghi thức mà là một lối sống bao hàm việc đặt đức tin nơi Đức Giê-hô-va và vâng lời phụng sự Ngài, ‘đồng đi cùng Ngài’. Nô-ê đã làm như vậy (Sáng-thế Ký 6:8, 9, 22; 7:1; Hê-bơ-rơ 11:6, 7).

5. a) Ma-quỉ cố thành lập gì sau trận Nước Lụt, và thế nào? b) Đức Giê-hô-va phá vỡ âm mưu của Ma-quỉ như thế nào, và kết quả là gì?

5 Ít lâu sau trận Nước Lụt, rõ ràng Ma-quỉ dùng Nim-rốt—một kẻ nổi tiếng “nghịch lại Đức Giê-hô-va”—trong nỗ lực phối hợp toàn thể nhân loại lại dưới một hình thức thờ phượng để một lần nữa chống lại Đức Giê-hô-va (Sáng-thế Ký 10:8, 9, NW; 11:2-4 Sáng-thế Ký 11:2-4). Hẳn đó là một tôn giáo giả hợp nhất, cùng thờ phượng Ma-quỉ, tập trung tại cái thành và cái tháp do những kẻ thờ phượng Ma-quỉ xây cất. Đức Giê-hô-va phá vỡ âm mưu này bằng cách làm lộn xộn “một thứ tiếng” của toàn thể nhân loại thời bấy giờ (Sáng-thế Ký 11:5-9). Bởi thế, cái thành đó được gọi là thành Ba-bên, sau đổi tên lại là Ba-by-lôn và cả hai tên này đều có nghĩa là “Lộn xộn”. Vì sự bất đồng ngôn ngữ này mà nhân loại tản mác đi khắp đất.

6. a) Sa-tan đã gieo vào óc những kẻ thờ phượng hắn ở Ba-by-lôn các ý tưởng tôn giáo nào trước khi họ bị tản mác đi khắp nơi? b) Tại sao các tôn giáo trên thế giới có những sự tin tưởng giống nhau? c) Ba-by-lôn phục vụ cho mục tiêu nào của Sa-tan, và thành cổ đó tượng trưng cho gì?

6 Tuy nhiên, dựa trên lịch sử của chuyện huyền thoại và lịch sử tôn giáo thì dường như trước khi Đức Giê-hô-va khiến cho nhân loại đi tản mác, Sa-tan đã gieo vào đầu óc của những kẻ thờ phượng hắn một số điều căn bản của tôn giáo giả. Trong số các điều căn bản đó có khái niệm tôn giáo về linh hồn vẫn còn sống sau sự chết, sự sợ người chết và sự hiện hữu của thế giới dưới âm phủ cùng với sự thờ phượng vô số thần và nữ thần, trong số đó có những thần hợp lại thành những nhóm ba thần. Những nhóm nói nhiều thứ tiếng khác nhau đem theo những sự tin tưởng đó đi khắp đất. Với thời gian, những ý tưởng căn bản đó bị biến hóa. Nhưng nói chung, những ý tưởng đó đúc kết thành nền tảng của tôn giáo giả trên khắp thế giới. Dù Sa-tan đã thất bại trong âm mưu tạo lập một tôn giáo giả hợp nhất đặt thủ đô thế giới tại Ba-by-lôn, hắn đành phải hài lòng với nhiều lối thờ phượng giả bắt nguồn từ Ba-by-lôn và có mục đích làm cho người ta ngưng thờ phượng Đức Giê-hô-va mà quay sang thờ hắn. Trải qua nhiều thế kỷ, Ba-by-lôn tiếp tục là một trung tâm phồn thịnh đầy dẫy sự thờ thần tượng, ma thuật, phù thủy và chiêm tinh học—tất cả các yếu tố then chốt cấu tạo thành tôn giáo giả. Không ngạc nhiên gì khi sách Khải-huyền tượng trưng đế quốc tôn giáo giả bằng dâm phụ nhơ nhớp tên là Ba-by-lôn Lớn (Khải-huyền 17:1-5).

Tôn giáo thật

7. a) Tại sao việc làm lộn xộn các thứ tiếng không ảnh hưởng đến tôn giáo thật? b) Ai đã trở nên “cha hết thảy những kẻ tin” và tại sao?

7 Dĩ nhiên, tôn giáo thật không bị ảnh hưởng dù cho Đức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng nói của loài người tại Ba-bên. Trước trận Nước Lụt có những người trung thành như A-bên, Hê-nóc, Nô-ê và vợ cùng các con trai và con dâu của họ thực hành sự thờ phượng thật. Sau trận Nước Lụt dòng dõi của con trai của Nô-ê tên là Sem tiếp tục gìn giữ sự thờ phượng thật. Áp-ra-ham, một người thuộc dòng dõi của Sem, đã thực hành sự thờ phượng thật và được biết đến là “cha hết thảy những kẻ tin” (Rô-ma 4:11). Đức tin của ông đi đôi với việc làm (Gia-cơ 2:21-23). Tôn giáo của ông là một lối sống.

8. a) Vào thế kỷ 16 trước công nguyên, tôn giáo thật chạm trán thế nào với tôn giáo giả, và kết cuộc là gì? b) Đức Giê-hô-va sắp đặt một điều gì mới cho sự thờ phượng thanh sạch của Ngài?

8 Con cháu thuộc dòng dõi Áp-ra-ham tiếp tục thực hành sự thờ phượng thật. Họ là Y-sác, Gia-cốp (hay Y-sơ-ra-ên) và 12 người con trai của Gia-cốp, sau trở thành 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Vào cuối thế kỷ 16 trước công nguyên, con cháu của Áp-ra-ham qua dòng Y-sác làm nô lệ tại xứ Ê-díp-tô phải tranh đấu để bảo tồn tôn giáo thật, vì họ sống trong một môi trường đối nghịch và theo tà giáo. Đức Giê-hô-va dùng một tôi tớ trung thành của Ngài thuộc chi phái Lê-vi là Môi-se để giải cứu những người thờ phượng Ngài ra khỏi ách nô lệ của Ê-díp-tô là nơi đầy dẫy tôn giáo giả. Qua trung gian của Môi-se Đức Giê-hô-va lập giao ước với Y-sơ-ra-ên và chọn họ làm dân tộc của Ngài. Vào thời đó, Đức Giê-hô-va thiết lập một đạo luật để điều hành sự thờ phượng. Tạm thời Ngài đặt sự thờ phượng trong khuôn khổ của một hệ thống gồm các của-lễ do các thầy tế lễ dâng lên cho Ngài và với một nơi thờ phượng vật chất, trước hết là đền tạm bằng vật liệu dễ tháo ráp và sau này là đền thờ xây cất tại thành Giê-ru-sa-lem.

9. a) Trước khi có giao ước Luật pháp sự thờ phượng thật được thực hành thế nào? b) Giê-su cho thấy thế nào rằng các đặc điểm vật chất của Luật pháp không bền lâu?

9 Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Đức Chúa Trời không có ý định để cho các điều vật chất đó trở thành những yếu tố vĩnh viễn của tôn giáo thật. Luật pháp là “bóng của các việc sẽ tới” (Cô-lô-se 2:17; Hê-bơ-rơ 9:8-10; 10:1). Trước khi có Luật Môi-se, vào thời các tộc trưởng, các chủ gia đình hiển nhiên đã đại diện cho cả nhà để dâng của-lễ hy sinh trên các bàn thờ họ đã dựng nên (Sáng-thế Ký 12:8; 26:25; 35:2, 3; Gióp 1:5). Nhưng thời đó không có chức tế lễ hẳn hoi hay hệ thống của-lễ hy sinh cùng các nghi lễ và nghi thức. Hơn nữa, chính Giê-su cho thấy tính chất tạm thời của sự thờ phượng theo đạo luật Môi-se tập trung tại thành Giê-ru-sa-lem khi ngài nói với người đàn bà Sa-ma-ri: “Giờ đến, khi các ngươi thờ-lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy [núi Ga-ri-xim, là nơi đền thờ Sa-ma-ri được xây cất hồi xưa], cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem... Giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ-phượng thật lấy tâm-thần và lẽ thật mà thờ-phượng Cha” (Giăng 4:21-23). Giê-su cho thấy rằng người ta phải thực hành tôn giáo thật, không phải bằng vật chất, nhưng bằng tâm thần và lẽ thật.

Bị giam cầm tại Ba-by-lôn

10. a) Tại sao Đức Giê-hô-va cho phép dân sự của Ngài bị bắt đi làm phu tù tại Ba-by-lôn? b) Đức Giê-hô-va giải cứu một nhóm người trung thành còn sót lại vào năm 537 trước công nguyên bằng hai cách nào, và họ trở về xứ Giu-đa với mục đích chính nào?

10 Kể từ cuộc phản loạn trong vườn Ê-đen, luôn luôn có sự thù nghịch giữa tôn giáo thật và tôn giáo giả. Nói theo nghĩa bóng, nhiều khi những người thờ phượng thật bị giam cầm trong tôn giáo giả có từ thời Nim-rốt và được biểu hiệu bởi Ba-by-lôn. Trước khi Đức Giê-hô-va cho phép dân tộc của Ngài bị bắt đi làm phu tù ở Ba-by-lôn vào năm 617 và năm 607 trước công nguyên, những người Y-sơ-ra-ên đã bị tôn giáo giả xuất phát từ Ba-by-lôn lôi cuốn (Giê-rê-mi 2:13-23; 15:2; 20:6; Ê-xê-chi-ên 12:10, 11). Vào năm 537 trước công nguyên một số người trung thành còn sót lại đã trở về xứ Giu-đa (Ê-sai 10:21). Họ nghe theo lời kêu gọi đã được tiên tri: “Hãy ra khỏi Ba-by-lôn!” (Ê-sai 48:20). Đây không chỉ là một sự giải cứu về mặt thể xác, nhưng về phương diện thiêng liêng họ được ra khỏi môi trường của tôn giáo ô uế và thờ hình tượng. Nhóm người trung thành còn sót lại này đã nhận được lệnh: “Các ngươi hãy đi, hãy đi, đi ra khỏi đó! Đừng động đến đồ ô-uế, hãy ra khỏi giữa nó. Các ngươi là kẻ mang khí-dụng Đức Giê-hô-va, hãy làm cho sạch mình!” (Ê-sai 52:11). Mục đích trước nhất để họ trở lại xứ Giu-đa là để tái lập sự thờ phượng thanh sạch, tôn giáo thật.

11. Ngoài việc phục hưng sự thờ phượng thanh sạch trong xứ Giu-đa, vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên đã có các diễn biến mới nào về tôn giáo?

11 Điều đáng lưu ý là cũng vào thế kỷ thứ sáu trước công nguyên, trong hàng ngũ Ba-by-lôn Lớn đã có sự thành lập của nhiều giáo phái mới thuộc tôn giáo giả. Phật giáo, Khổng giáo, Bái hỏa giáo (thờ lửa) và đạo Jain đã ra đời, đó là chưa kể đến chủ nghĩa duy lý của ngành triết học Hy-lạp. Triết lý này sau đó gây nhiều ảnh hưởng trên các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ. Như vậy trong khi sự thờ phượng thanh sạch được tái lập tại xứ Giu-đa thì kẻ thù nghịch số một của Đức Chúa Trời lại đưa ra nhiều tôn giáo giả khác nhau cho thế gian tha hồ lựa chọn.

12. Trong thế kỷ thứ nhất công nguyên có cuộc giải cứu nào ra khỏi chốn phu tù Ba-by-lôn, và Phao-lô nói lời cảnh cáo nào?

12 Đến khi Giê-su xuất hiện trong xứ Y-sơ-ra-ên thì phần đông dân Do-thái thực hành nhiều hình thức khác nhau của Do-thái giáo. Đây là một loại tôn giáo đã tiêm nhiễm nhiều ý niệm tôn giáo của Ba-by-lôn. Do-thái giáo gia nhập vào Ba-by-lôn Lớn. Đấng Christ kết án đạo đó và giải cứu môn đồ ra khỏi sự giam cầm trong Ba-by-lôn (Ma-thi-ơ, đoạn 23; Lu-ca 4:18). Bởi vì tôn giáo giả và triết lý Hy-lạp thịnh hành tại nhiều nơi mà Phao-lô rao giảng nên ông trích dẫn lời tiên tri của Ê-sai và áp dụng cho tín đồ đấng Christ. Họ cần giữ mình trong sạch để không tiêm nhiễm ảnh hưởng của Ba-by-lôn Lớn. Ông viết: “Có thể nào hiệp đền-thờ Đức Chúa Trời lại với hình-tượng tà-thần [của Ba-by-lôn không]? Vì chúng ta là đền-thờ của Đức Chúa Trời hằng sống, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: Ta sẽ ở và đi lại giữa họ; ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, và họ làm dân ta. Bởi vậy Chúa phán rằng: Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân-rẽ ra khỏi chúng nó, đừng đá-động đến đồ ô-uế, thì ta sẽ tiếp-nhận các ngươi” (II Cô-rinh-tô 6:16, 17).

Thoát khỏi tôn giáo giả trong thời kỳ cuối cùng

13. Các thông điệp mà đấng Christ gửi cho bảy hội-thánh ở Tiểu Á cho thấy gì, và rốt cuộc điều gì đã xuất hiện?

13 Các thông điệp mà đấng Christ gửi đến bảy hội-thánh thuộc miền Tiểu Á mà sứ đồ Giăng nhận được qua sự Khải thị cho thấy rõ rằng vào cuối thế kỷ thứ nhất công nguyên hội-thánh đấng Christ đã tiêm nhiễm các thực hành và thái độ của tôn giáo Ba-by-lôn (Khải-huyền, đoạn 2 và 3). Sự bội đạo đặc biệt nẩy nở kể từ thế kỷ thứ hai cho đến thế kỷ thứ năm công nguyên. Hậu quả là sự xuất hiện của một tôn giáo sai lạc bắt chước tôn giáo thuần túy của đấng Christ. Các giáo lý xuất phát từ Ba-by-lôn như linh hồn bất tử, địa ngục nóng bỏng và Chúa Ba Ngôi đã được sáp nhập vào sự dạy dỗ của những kẻ bội đạo mạo xưng theo đấng Christ. Các nhà thờ Công giáo, Chính thống và sau đó các nhà thờ Tin lành thảy đều chấp nhận những tín điều sai lầm này và vì thế trở nên một thành phần của Ba-by-lôn Lớn, tượng trưng cho đế quốc tôn giáo giả của Ma-quỉ trên thế giới.

14, 15. a) Ví dụ của Giê-su về lúa mì và cỏ lùng cho thấy gì? b) Vào khoảng cuối thế kỷ 19 điều gì đã xảy ra, và đến năm 1914 các tín đồ thật của đấng Christ đã tiến bộ tới đâu về mặt giáo lý?

14 Tôn giáo thật đã không bao giờ bị loại bỏ hẳn. Trải qua nhiều thế kỷ luôn luôn có những người yêu chuộng lẽ thật. Một số người trong họ đã bị giết vì muốn giữ sự trung thành đối với Đức Giê-hô-va và Lời của Ngài là Kinh-thánh. Nhưng qua ví dụ về lúa mì và cỏ lùng Giê-su cho thấy là lúa mì theo nghĩa bóng, tức con cái được xức dầu của Nước Trời, chỉ được phân chia ra khỏi cỏ lùng, tức con cái của quỉ dữ, vào “ngày tận-thế” (Ma-thi-ơ 13:24-30, 36-43). Khi thời kỳ cuối cùng—tức thời kỳ để phân chia—đến gần, những người thành thật học hỏi Kinh-thánh vào cuối thế kỷ 19 bắt đầu thoát ra khỏi vòng nô lệ của tôn giáo giả.

15 Đến năm 1914, các tín đồ đấng Christ này, hiện nay được gọi là Nhân-chứng Giê-hô-va, vun trồng đức tin mạnh mẽ về giá chuộc. Họ biết sự hiện diện của đấng Christ là vô hình. Họ hiểu rằng năm 1914 sẽ đánh dấu sự kết liễu của “các kỳ dân ngoại” (Lu-ca 21:24). Họ hiểu rõ ràng ý nghĩa của linh hồn và sự sống lại. Họ cũng được soi sáng để nhận ra sự sai lầm rõ rệt của những sự dạy dỗ về địa ngục và Chúa Ba Ngôi của các nhà thờ. Họ học biết và bắt đầu dùng đến danh Đức Chúa Trời và nhận thức rằng thuyết tiến hóa và sự thực hành đồng bóng là sai.

16. Vào năm 1919 các tín đồ đấng Christ được xức dầu hưởng ứng lời kêu gọi nào?

16 Họ đã bắt đầu vất bỏ gông cùm của tôn giáo giả. Và đến năm 1919, Ba-by-lôn Lớn hoàn toàn không còn cầm quyền trên dân sự của Đức Chúa Trời nữa. Cũng như một số người Do-thái còn sót lại đã được giải cứu ra khỏi Ba-by-lôn năm 537 trước công nguyên, các tín đồ đấng Christ trung thành được xức dầu còn sót lại đã nghe theo tiếng gọi “hãy ra khỏi giữa nó [Ba-by-lôn Lớn]” (Ê-sai 52:11).

17. a) Điều gì phát triển từ năm 1922 trở đi, và dân sự của Đức Chúa Trời cảm thấy cần phải làm gì? b) Họ chọn theo một lập trường cực đoan nào, và tại sao điều này dễ hiểu?

17 Từ năm 1922 trở đi, dân sự của Đức Giê-hô-va đã xuất bản và phân phát cho công chúng các lẽ thật mạnh mẽ của Kinh-thánh vạch trần tôn giáo giả Ba-by-lôn, đặc biệt các nhà thờ tự xưng theo đấng Christ. Một điều cần thiết là phải giúp dân sự được tẩy sạch của Đức Chúa Trời hiểu rõ là cần phải cắt đứt mọi liên lạc với tôn giáo giả. Vì thế, trải qua nhiều năm, người ta đã tránh dùng chữ “tôn giáo” khi nói đến sự thờ phượng thật. Có một dạo, người ta diễn hành trong đường xá tại các thành phố lớn, trương biểu ngữ “Tôn giáo là một cạm bẫy và thủ đoạn lường gạt”. Những cuốn sách như “Chính phủ” (Government, 1928) và “Lẽ thật sẽ giải thoát các ngươi” (“The Truth Shall Make You Free”, 1943) cho thấy rõ rệt sự khác biệt giữa “đạo thật của đấng Christ” và “tôn giáo”. Ta có thể dễ hiểu lập trường cực đoan này, bởi vì lúc đó người ta cần phải đoạn tuyệt hẳn với tất cả các hệ thống tôn giáo của Ba-by-lôn Lớn lan tràn ở khắp nơi.

Tôn giáo thật và tôn giáo giả

18. Vào năm 1951, có sự hiểu biết mới nào về chữ “tôn giáo”, và cuốn “Niên giám năm 1975” (1975 Yearbook / Annuaire 1975) giải thích điều này thế nào?

18 Rồi năm 1951, Đức Giê-hô-va xét thấy đã đến lúc ban cho dân sự của Ngài sự thông hiểu trong vắt như pha-lê về sự khác biệt giữa tôn giáo thật và tôn giáo giả. Cuốn “Niên giám của Nhân-chứng Giê-hô-va năm 1975” (1975 Yearbook of Jehovah’s Witnesses / Annuaire des témoins de Jéhovah 1975) tường thuật: “Năm 1951, những người bênh vực sự thờ phượng thật học được một điều quan trọng về chữ ‘tôn giáo’. Một số người trong họ có thể còn nhớ rõ năm 1938 là năm mà có những lần họ trương biểu ngữ ‘Tôn giáo là một cạm bẫy và thủ đoạn lường gạt’ làm nhiều người phải suy nghĩ. Theo quan điểm của họ thời bấy giờ thì tất cả mọi ‘tôn giáo’ không theo đấng Christ, đều đến từ Ma-quỉ. Nhưng tạp chí Tháp Canh (Anh-ngữ), số ra ngày 15-3-1951, chấp thuận việc dùng chữ tôn giáo kèm theo tĩnh từ ‘thật’ và ‘giả’. Hơn nữa, cuốn sách hấp dẫn “Tôn giáo đã làm được gì cho nhân loại?” (What Has Religion Done for Mankind?, xuất bản năm 1951 và được ra mắt nhân dịp hội nghị ‘Sự thờ phượng thanh sạch’ tổ chức tại vận động trường Wembley, Luân-đôn, Anh-quốc) nói như vầy: “Hiểu theo lối thông dụng, chữ “tôn giáo” có nghĩa giản dị nhất là một hệ thống thờ phượng, một hình thức thờ phượng, bất kể thực chất của sự thờ phượng đó thật hay giả. Điều này phù hợp với ý nghĩa của chữ Hê-bơ-rơ ’a·boh·dáh, có nghĩa đen là “hầu việc”, bất luận hầu việc ai’. Sau đó, các từ ngữ ‘tôn giáo giả’ và ‘tôn giáo thật’ trở nên thông dụng trong vòng các nhân-chứng của Đức Giê-hô-va” (Trang 225).

19, 20. a) Tại sao những người thờ phượng thật không nên cảm thấy khó chịu về việc dùng chữ “tôn giáo” khi nói đến sự thờ phượng thanh sạch? b) Nhờ có sự hiểu biết mới này, dân sự của Đức Giê-hô-va có thể làm gì?

19 Tạp chí Tháp Canh (Anh-ngữ), số ra ngày 15-8-1951, trả lời câu hỏi của một độc giả như sau: “Không ai nên cảm thấy khó chịu về việc dùng chữ ‘tôn giáo’. Sự kiện chúng ta dùng chữ ‘tôn giáo’ không liệt chúng ta vào hàng các tôn giáo giả đi theo các truyền thống sai lầm, cũng như việc chúng ta nhận diện mình là tín đồ đấng Christ không liệt chúng ta vào hàng tín đồ giả mạo của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ”.

20 Sự thông hiểu mới này về chữ “tôn giáo” không phải là một sự hòa giải, mà trái lại giúp cho dân sự của Đức Giê-hô-va làm sáng tỏ thêm hố sâu ngăn cách giữa sự thờ phượng thật và sự thờ phượng giả, như bài kế tiếp sẽ cho thấy.

Để thử sự hiểu biết của chúng ta

◻ Tôn giáo giả trên đất đã bắt đầu bao giờ và thế nào?

◻ Sa-tan đã tìm cách thành lập gì sau trận Nước Lụt, và âm mưu của hắn bị tan vỡ thế nào?

◻ Ba-by-lôn trở thành một biểu tượng cho gì?

◻ Vào năm 537 trước công nguyên, trong thế kỷ thứ nhất công nguyên và vào năm 1919 có những sự giải cứu nào đã xảy ra?

◻ Vào năm 1951 có sự hiểu biết mới nào về chữ “tôn giáo” được phổ biến và tại sao vào lúc đó?

[Khung/​Hình nơi trang 11]

Các giáo lý sai lầm mà những người sống khắp nơi trên thế giới tin đến đều bắt nguồn từ Ba-by-lôn:

◻ Chúa Ba Ngôi, hay nhóm ba thần

◻ Linh hồn vẫn còn sống sau khi người ta chết

◻ Thuật đồng bóng—nói chuyện với người “chết”

◻ Dùng hình tượng để thờ phượng

◻ Dùng bùa chú để ếm ma quỉ

◻ Giới chức giáo phẩm đầy quyền lực cầm đầu 

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ