THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w93 15/1 trg 3-5
  • 1914—Năm làm chấn động thế giới

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • 1914—Năm làm chấn động thế giới
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1993
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Thình lình, vào tháng 8
  • Chấm dứt vào khoảng lễ Giáng sinh chăng?
  • Thay đổi toàn diện
  • 1914 có ý-nghĩa gì đối với bạn?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1986
  • Thế hệ 1914—Tại sao quan trọng?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1993
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1993
w93 15/1 trg 3-5

1914—Năm làm chấn động thế giới

“Trận Đại Chiến 1914–1918 nằm như một vùng đất điêu tàn ngăn cách thời kỳ đó với thời kỳ của chúng ta. Khi nó tiêu diệt bao nhiêu mạng sống..., hủy phá những sự tin tưởng, thay đổi những tư tưởng, và để lại bao nhiêu vết thương vỡ mộng không thể chữa được, Trận Đại Chiến đó đã gây ra một hố sâu ngăn cách giữa hai kỷ nguyên về phương diện vật chất cũng như về phương diện tâm lý”. (Trích sách The Proud Tower—A Portrait of the World Before the War 1890–1914, của Barbara Tuchman).

“Đối với hàng ngàn người trẻ vào lúc bắt đầu của thế kỷ hai mươi quan trọng này mà hiện nay còn sống, cái năm đó gần như—nhưng chưa hẳn—là một phần của lịch sử”. (Trích sách 1914, của Lyn MacDonald, xuất bản năm 1987).

TẠI SAO lại chú ý đến năm 1914? Bạn có thể nói: “Tôi quan tâm đến tương lai chứ không quan tâm đến quá khứ”. Với những vấn đề như sự ô nhiễm trên toàn thể địa cầu, sự đổ vỡ của đời sống gia đình, tội ác gia tăng, bệnh thần kinh, và nạn thất nghiệp, tương lai của nhân loại trông có vẻ ảm đạm. Tuy nhiên, nhiều người xem xét sự quan trọng của năm 1914 tìm thấy một căn bản để hy vọng có một tương lai tốt đẹp hơn.

Qua nhiều thập niên, tạp chí Tháp Canh giải thích là vào năm 1914 nhân loại trải qua cái được gọi là “đầu sự tai-hại”. Lời đó hợp thành một phần của lời tiên tri lớn lao của Giê-su Christ về những việc sẽ xảy ra trước khi hệ thống gian ác của loài người chấm dứt (Ma-thi-ơ 24:7, 8).

Ngày nay, một phần nhỏ của nhân loại vẫn có thể nhớ lại những biến cố bi thảm của năm 1914. Thế hệ lớn tuổi đó sẽ qua đi trước khi Đức Chúa Trời cứu vớt trái đất khỏi sự tàn phá không? Thể theo lời tiên tri của Kinh-thánh thì không. Giê-su hứa: “Khi các ngươi thấy mọi điều ấy, khá biết rằng Con người gần đến, Ngài đương ở trước cửa. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, dòng dõi nầy chẳng qua trước khi mọi điều kia chưa xảy đến” (Ma-thi-ơ 24:33, 34).

Để hiểu tại sao năm 1914 có sự quan trọng lịch sử như thế, chúng ta hãy xem xét tình hình thế giới cho đến khoảng giữa năm 1914. Trước thời kỳ đó, các vua như Hoàng đế Nicholas của Nga, Hoàng đế Wilhelm của Đức, và Hoàng đế Franz Josef của đế quốc Áo-Hung nắm nhiều quyền hành. Mỗi một người này có thể động viên hơn bốn triệu quân và đưa họ ra chiến trường. Tuy nhiên, ông cha của họ đã ký cái gọi là Khối Liên minh Thánh, tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã ủy quyền cho họ để họ cai trị những vùng khác nhau của “Nước đấng Christ” vĩ đại.

Theo “Bách khoa Tự điển Anh Quốc” (The Encyclopædia Britannica), tài liệu này “đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đường lối ngoại giao của Âu Châu trong suốt thế kỷ 19”. Nó được dùng để chống lại những phong trào dân chủ và để ủng hộ cái gọi là quyền làm vua mà Đức Chúa Trời ban cho. Hoàng đế Wilhelm của Đức viết cho Nga hoàng Nicholas: “Chúng ta là những vị Vua của đấng Ki-tô, chúng ta có một bổn phận linh thiêng mà Trời giao phó cho chúng ta gánh vác. Đó là duy trì nguyên tắc của [quyền làm vua mà Đức Chúa Trời ban cho]”. Có phải điều này có nghĩa là các vua ở Âu Châu bằng cách nào đó có quan hệ đến Nước Trời không? (So sánh I Cô-rinh-tô 4:8). Còn các nhà thờ ủng hộ những vua đó thì sao? Việc họ tự xưng là tín đồ đấng Christ có xác thực không? Câu trả lời cho những câu hỏi này trở nên rõ ràng vào những năm ngay sau năm 1914.

Thình lình, vào tháng 8

Chính khách Anh Quốc là Winston Churchill viết: “Một sự thanh bình khác thường đánh dấu mùa xuân và mùa hè năm 1914 tại Âu Châu”. Dân chúng nói chung lạc quan về tương lai. Trong sách “Thế Chiến thứ nhất” (World War I), tác giả Louis Snyder viết “Thế giới vào năm 1914 đầy những hy vọng và hứa hẹn”.

Đúng vậy, Đức và Anh cạnh tranh nhau mãnh liệt đã bao nhiêu năm. Tuy nhiên, sử gia G. P. Gooch giải thích trong sách “Dưới sáu triều đại” (Under Six Reigns): “Một sự xung đột có vẻ khó xảy ra vào năm 1914 hơn là vào năm 1911, 1912 hay 1913... Sự liên lạc giữa hai chính phủ tốt đẹp hơn bao nhiêu năm trước”. Winston Churchill, một bộ trưởng của nội các Anh vào năm 1914, tuyên bố: “Nước Đức dường như cũng muốn hòa bình như chúng ta”.

Tuy nhiên, sự kiện thái tử của đế quốc Áo-Hung bị ám sát ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo làm cho tình hình giống như một đám mây u ám xuất hiện ở chân trời. Một tháng sau đó, Hoàng đế Franz Josef tuyên chiến với Serbia và ra lệnh cho quân đội đi chiếm nước đó. Đồng thời vào đêm 3 tháng 8 năm 1914 đoàn quân Đức đông đảo theo lệnh của Hoàng đế Wilhelm thình lình xâm lăng nước Bỉ và tiến quân về hướng Pháp. Ngày hôm sau Anh tuyên chiến với Đức. Còn Nga hoàng Nicholas thì huy động đoàn quân đông đảo đi đánh Đức và đế quốc Áo-Hung. Khối Liên minh Thánh đã thất bại trong việc ngăn cản các vua của Âu Châu đưa lục địa này vào cuộc tương tàn đẫm máu. Tuy nhiên, còn nhiều điều nữa sẽ làm cho người ta sửng sốt dữ dội.

Chấm dứt vào khoảng lễ Giáng sinh chăng?

Chiến tranh bùng nổ không làm người ta mất lạc quan. Nhiều người tin rằng cuộc chiến này sẽ đem lại một thế giới tốt đẹp hơn, và dân chúng tụ họp lại đông đảo để ủng hộ cuộc chiến. Trong sách “Cuộc tranh giành quyền làm chủ Âu Châu—1848–1918” (The Struggle for Mastery in Europe—1848–1918) tác giả A. J. P. Taylor viết: “Năm 1914 không ai...xem trọng mối nguy hiểm của chiến tranh ngoại trừ trên bình diện quân sự... Không một ai ngờ là cuộc chiến tranh này sẽ gây ra những thảm họa xã hội”. Trái lại, nhiều người tiên đoán là nó sẽ chấm dứt trong vòng vài tháng.

Tuy nhiên, trước khi dân chúng ở Âu Châu có thể cử hành lễ Giáng sinh năm 1914, người ta đã thấy từ lâu sự bế tắc đẫm máu ngày càng bộc lộ rõ dọc theo dãy chiến hào dài hơn 700 cây số từ nước Thụy Sĩ ở phía nam đến vùng biển nước Bỉ ở phía bắc. Người ta gọi đó là Mặt trận Miền Tây, và trong cuốn nhật ký của tác giả người Đức tên là Herbert Sulzbach, ông có nói đến mặt trận này ở trang viết vào ngày cuối năm 1914 như sau: “Cuộc chiến tranh ghê tởm này kéo dài liên miên, và lúc chiến tranh bắt đầu người ta nghĩ nó sẽ chấm dứt trong vòng vài tuần lễ, nhưng trái lại bây giờ không ai biết được khi nào nó sẽ chấm dứt”. Trong khi đó, ở những nơi khác tại Âu Châu, những trận chiến đẫm máu diễn ra ác liệt giữa Nga, Đức, Áo-Hung, và Serbia. Ít lâu sau sự xung đột lan tràn ra ngoài Âu châu, và các trận chiến diễn ra trên biển và Phi Châu, ở Trung Đông, và ở các đảo Thái Bình Dương.

Bốn năm sau Âu Châu điêu tàn. Đức, Nga, và đế quốc Áo-Hung mỗi bên mất từ một đến hai triệu quân lính. Nga mất ngay cả chính thể quân chủ trong cuộc cách mạng Bolshevik vào năm 1917. Thật là một sự sững sờ cho các vua của Âu Châu và hàng giáo phẩm đã ủng hộ họ! Các sử gia hiện đại vẫn còn bày tỏ sự ngạc nhiên. Trong sách “Hoàng hôn của vương quyền” (Royal Sunset), tác giả Gordon Brook-Shepherd đặt câu hỏi: “Làm thế nào mà các vua chúa, hầu hết có họ hàng ruột thịt hoặc thông gia với nhau và đều hết lòng muốn bảo tồn vương quyền, lại để cho mình sa vào cảnh nồi da xáo thịt khiến một số các vua chúa này bị tiêu diệt và làm cho tất cả những người còn sót lại bị suy nhược?”

Nước Cộng hòa Pháp cũng mất hơn một triệu lính, và nền quân chủ của Đế quốc Anh đã suy nhược từ lâu trước chiến tranh, nay lại bị mất hơn 900.000 lính. Tổng cộng hơn 9 triệu người lính chết, và 21 triệu người khác bị thương. Đối với sự thiệt hại về thường dân, “Sách Bách khoa Tự Điển Thế giới” (The World Book Encyclopedia) cho biết: “Không ai biết có bao nhiêu thường dân chết vì bị bệnh, bị đói, và vì những lý do khác liên quan đến chiến tranh. Vài sử gia tin rằng con số thường dân chết cũng nhiều như con số lính chết”. Bệnh dịch cúm Tây Ban Nha vào năm 1918 giết thêm 21 triệu người trên toàn trái đất.

Thay đổi toàn diện

Thế giới không còn giống như xưa sau cái mà người ta gọi là Trận Đại Chiến. Bởi lẽ biết bao nhiêu giáo hội của đạo tự xưng theo đấng Christ hăng say tham gia vào cuộc chiến, nhiều người sống sót cảm thấy mình bị vỡ mộng nên họ bỏ tôn giáo và theo thuyết vô thần. Những người khác thì quay sang theo đuổi sự giàu có về vật chất và thú vui. Theo Giáo sư Modris Eksteins là tác giả sách “Nghi lễ mùa xuân” (Rites of Spring), thập niên 1920 “chứng kiến số người theo thuyết khoái lạc và thuyết vị kỷ lên đến một mức độ đáng kể”.

Giáo sư Eksteins giải thích: “Cuộc chiến tranh tấn công các tiêu chuẩn của luân thường đạo lý”. Những nhà lãnh đạo tôn giáo, quân sự, và chính trị của cả hai phe đều dạy người ta xem việc giết người hàng loạt là một điều tốt trên phương diện đạo đức. Ông Eksteins công nhận điều này “chính là sự tấn công tàn bạo nhất đến nền luân lý mà người ta cho là phát xuất từ đạo đức Do-thái-giáo và đạo đấng Christ”. Ông viết tiếp: “Ở Mặt trận Miền Tây, nhà chứa gái mãi dâm ít lâu sau trở thành những nơi phụ thuộc căn cứ quân sự... Ở hậu tuyến, cả đàn ông lẫn đàn bà đều không coi luân thường đạo lý ra gì. Nghề mãi dâm tăng gia một cách đáng kinh ngạc”.

Thật vậy, năm 1914 thay đổi rất nhiều. Năm đó đã không tạo được một thế giới tốt hơn, và cuộc chiến hóa ra không phải là “cuộc chiến để chấm dứt tất cả mọi cuộc chiến tranh” như nhiều người đã hy vọng. Ngược lại, sử gia Barbara Tuchman nhận xét: “Những ảo mộng và phấn khởi mà người ta ấp ủ cho đến năm 1914 đã từ từ tan theo mây khói”.

Tuy nhiên, một số người chứng kiến thảm trạng của năm 1914 không ngạc nhiên về những biến cố xảy ra trong năm đó. Thật ra, trước khi chiến tranh bùng nổ, họ chờ đợi “một thời kỳ khủng khiếp đầy khó khăn”. Họ là ai? Họ đã biết điều gì mà những người khác không biết?

[Khung nơi trang 5]

Sự lạc quan của dân Anh vào năm 1914

“Trong khoảng một thế kỷ, không một kẻ thù nào xuất hiện trên biển chung quanh hải đảo của chúng ta... Khó ai hình dung được là một người có thể đe dọa những bãi biển thanh bình này... Chưa bao giờ Luân Đôn có vẻ nhộn nhịp và thịnh vượng hơn... Chưa bao giờ người ta có nhiều việc đáng làm, đáng xem, và đáng nghe. Cả già lẫn trẻ không ai mảy may nghi ngờ rằng những gì mà họ đang chứng kiến trong cái mùa tuyệt diệu đó của năm 1914 quả thật là sự kết liễu của một thời đại” (Before the Lamps Went Out, của Geoffrey Marcus).

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ