Nhà thờ lúc ban đầu có dạy Đức Chúa Trời là một Chúa Ba Ngôi không?
Phần 4—Giáo lý Chúa Ba Ngôi đã phát triển bao giờ và thế nào?
Ba bài trước thuộc loạt bài này đã cho thấy Giê-su và các môn đồ của ngài cũng như các Cha cai quản Giáo hội thời kỳ đầu không hề dạy giáo lý Chúa Ba Ngôi (Tháp Canh số ra ngày 1-8-1992; 1-11-1992 và 15-12-1992). Bài cuối cùng này sẽ thảo luận về giáo lý Chúa Ba Ngôi được phát triển như thế nào và Công đồng Nicaea đã đóng vai trò nào vào năm 325 công nguyên.
VÀO NĂM 325 công nguyên, Hoàng đế La-mã Constantine triệu tập một hội nghị các giám mục tại thành Nicaea ở Tiểu Á. Mục tiêu của ông là để giải quyết các bất đồng về tôn giáo vẫn còn tiếp diễn về tương quan giữa Con của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời Toàn năng. Cuốn “Bách khoa Tự điển Anh quốc” (Encyclopœdia Britannica) nói về kết quả của Hội nghị này như sau:
“Chính Constantine chủ tọa và tích cực hướng dẫn cuộc thảo luận ông đích thân đề nghị... công thức chủ yếu diễn đạt tương quan giữa đấng Christ và Đức Chúa Trời trong tín điều mà Hội nghị công bố về ‘đồng bản thể [ho·mo·ouʹsi·os] với Đức Chúa Cha’... Vì mãnh lực của hoàng đế, các giám mục ngoại trừ ra hai vị, đều ký văn kiện, nhiều vị đã ký một cách miễn cưỡng”.1
Phải chăng hoàng đế ngoại đạo này đã can thiệp vì niềm tin tưởng của ông dựa vào Kinh-thánh? Không, vì trong cuốn “Một đoản sử về giáo lý đạo Gia-tô” (A Short History of Christian Doctrine) có nói: “Từ căn bản, Constantine không biết chút gì về các nghi vấn mà thần học Hy-lạp đang thắc mắc”.2 Điều ông thật sự hiểu là các bất đồng về tôn giáo đã đe dọa sự thống nhất của đế quốc mình và ông muốn các bất đồng này phải được giải quyết.
Phải chăng Công đồng Nicaea thiết lập giáo lý Chúa Ba Ngôi?
Có phải Công đồng Nicaea thiết lập, hoặc xác định Chúa Ba Ngôi là giáo lý của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ không? Có rất nhiều người tưởng như vậy, nhưng thật ra các sự kiện cho thấy khác hẳn.
Thật sự, tín điều mà Công đồng Nicaea ban hành đã xác định một số điều về Con của Đức Chúa Trời làm cho nhiều giáo sĩ coi ngài ngang hàng với Đức Chúa Cha trong một cách nào đó. Tuy nhiên, vấn đề được minh bạch hơn khi xem xét những gì mà Tín điều Nicaea không hề nói tới. Vào thời ấy, toàn bộ tín điều có nguyên văn như sau:
“Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình;
“Chúng tôi tin kính một Chúa Giê-su Ki-tô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, từ bản thể của Đức Chúa Cha, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Ngài mà muôn vật được tạo thành, vật trên trời và vật dưới đất, vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Ngài đã từ trời xuống thế, nhập thể và làm người, chịu khổ hình và ngày thứ ba sống lại, lên trời và sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết;
“Chúng tôi tin kính Thánh Thần”.3
Tín điều có nói Đức Cha, Đức Con và thánh linh là ba ngôi trong một Đức Chúa Trời không? Tín điều có nói cả ba đều đời đời, quyền năng, ngang nhau và khôn ngoan như nhau không? Không, tín điều đó không hề nói vậy. Không hề có biểu thức ba là một. Vậy Tín điều Nicaea không thiết lập hoặc xác định thuyết Đức Chúa Trời Ba Ngôi.
Tín điều chỉ xếp Con bằng với Cha “trong một bản thể”, nhưng không hề nói như vậy đối với thánh linh. Tín điều chỉ nói “chúng tôi tin kính Thánh Thần”. Đây không phải là giáo lý Chúa Ba Ngôi của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ.
Ngay cả câu chủ chốt “cùng một bản thể” (ho·mo·ouʹsi·os) không nhất thiết phải có nghĩa là Công đồng tin có sự bằng nhau giữa Cha và Con tính theo số học. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Công giáo” (New Catholic Encyclopedia) nói:
“Việc Công đồng có chủ ý xác nhận sự bằng nhau theo số học về bản thể của Cha và Con hay không thì vẫn còn đáng nghi”.4
Cho dù Công đồng muốn nói rằng Con với Cha là một theo số học, thì điều này cũng vẫn không là Chúa Ba Ngôi, vì mới có hai chứ không phải là ba trong một Đức Chúa Trời như thuyết Chúa Ba Ngôi đòi hỏi.
“Quan điểm của thiểu số”
Tại Nicaea, các giám mục nói chung có tin rằng Con ngang hàng với Đức Chúa Trời không? Không, đã có nhiều quan điểm đối chọi lại. Chẳng hạn, quan điểm mà Arius đại diện và theo đó thì Con đã có sự bắt đầu về thời gian và do đó, không bằng Đức Chúa Trời nhưng thấp hơn Đức Chúa Trời về mọi phương diện. Mặt khác, Athanasius tin rằng Con bằng với Cha về vài phương diện nào đó thôi. Ngoài ra cũng còn có nhiều quan điểm khác nữa.
Về quyết định của Công đồng coi Con có cùng bản tính (đồng bản thể) với Đức Chúa Trời, Martin Marty viết: “Công đồng Nicaea chỉ đại diện cho quan điểm của thiểu số; nhiều người không thuộc phái Arius thấy khó chịu và không thể chấp nhận được giải pháp của Công đồng”.5 Tương tợ như vậy, sách “Một Thư viện Chọn lọc của các Cha thời Công đồng và hậu Công đồng Nicaea về Giáo hội Ki-tô” (A Select Library of Nicene and Post-Nicene Fathers of the Christian Church) ghi nhận rằng “một học thuyết đã mô định tương phản với thuyết của Arius chỉ do một thiểu số ủng hộ và thiểu số này đã thắng thế”.6 Cuốn “Một đoản sử của Giáo lý đạo Gia-tô” (A Short History of Christian Doctrine) có ghi nhận như sau:
“Hình như điều mà các giám mục và các nhà thần học Đông phương đặc biệt chống đối là ý niệm homoousios [“đồng bản thể”] do chính Constantine đã đưa vào Giáo điều trong các cuộc chống đối sau này giữa chính thống và thệ phản đã trở thành đối tượng của sự chia rẽ trầm trọng”.7
Sau Công đồng, cuộc tranh luận vẫn còn giằng co trong nhiều thập niên. Có thời kỳ những người chủ trương Con ngang hàng với Đức Chúa Trời Toàn năng bị ghét bỏ. Thí dụ, Martin Marty nói như sau về Athanasius: “Danh tiếng của ông lúc lên, lúc xuống và ông bị lưu đày liên miên đến nỗi ông như người du hành vậy”.8 Athanasius bị lưu đày nhiều năm vì các viên chức chính trị và Giáo hội chống đối quan điểm của ông về việc Con ngang hàng với Đức Chúa Trời.
Vậy việc quả quyết cho rằng Công đồng Nicaea vào năm 325 đã thiết lập và xác định giáo lý Chúa Ba Ngôi thì không đúng sự thật. Điều mà sau này trở thành giáo lý Chúa Ba Ngôi không hề có vào lúc ấy. Ý tưởng Ngôi Cha, Ngôi Con và thánh thần đều là Đức Chúa Trời thật, cả ba đều đời đời, cả ba ngang nhau về quyền năng, địa vị và khôn ngoan nhưng cả ba lại là một Đức Chúa Trời, tức một Đức Chúa Trời có ba ngôi, không hề do Công đồng Nicaea hoặc các Cha thuộc Giáo hội lúc ban đầu khai triển. Như sách “Giáo hội trong ba thế kỷ đầu tiên” (The Church of the First Three Centuries) có ghi nhận như sau:
“Giáo lý phổ thông hiện đại về Chúa Ba Ngôi...không hề thấy trong ngôn ngữ của Justin [Martyr]: và nhận xét này cũng có thể nới rộng cho các Cha sống trước thời Công đồng Nicaea, tức là cho các tác giả viết về Thiên Chúa giáo vào ba thế kỷ sau khi Giê-su sanh ra... Họ quả có nói đến Đức Cha, Con và ơn tiên tri hay thánh linh nhưng không hề nói cả ba bằng nhau, cả ba cùng bản thể, cũng không hề nói cả ba là một như những nhà chủ trương giáo lý Chúa Ba Ngôi thời nay thừa nhận. Sự thật là ngược hẳn lại. Giáo lý Chúa Ba Ngôi, như được các Cha này giải thích thì hoàn toàn khác với học thuyết tân thời. Chúng tôi nói điều này như một sự kiện có bằng cớ, như bất cứ sự kiện nào trong lịch sử ý kiến của con người”.
“Chúng tôi thách thức bất cứ ai có thể trưng ra bất cứ lời nào của một tác giả nổi tiếng trong ba thế kỷ đầu tiên nói về giáo lý Chúa Chúa Ba Ngôi theo nghĩa tân thời”.9
Dầu sao, Công đồng Nicaea tượng trưng cho một khúc quanh. Công đồng ấy đã mở cửa cho sự chấp nhận chính thức Con bằng với Cha và dọn đường cho ý tưởng thuyết Chúa Ba Ngôi sau này. Ông J. A. Buckley trong cuốn “Chính thống giáo vào thế kỷ thứ hai” (Second Century Orthodoxy) ghi nhận:
“Ít nhất là cho đến cuối thế kỷ thứ hai thì Giáo hội phổ thông vẫn còn hợp nhất trong một sự ưng thuận căn bản nào đó. Tất cả đều chấp nhận quyền tối thượng của Cha. Tất cả đều coi một mình Đức Chúa Cha Toàn năng là tối cao, không hề đổi thay, không thể diễn tả được, và không hề có sự bắt đầu...
“Với sự qua đời của những tác giả và những người lãnh đạo vào thế kỷ thứ hai, giáo hội đã từ từ, lẳng lặng nhưng một cách chắc chắn đã đưa mình đến điểm mà...tại Công đồng Nicaea nói là điểm nổi bật nhất đã làm hao mòn từng mảnh một của lòng tin nguyên thủy. Tại đây, một thiểu số bất trung áp đảo đa số để tán thành giáo lý bội đạo của mình. Và với sự yểm trợ của chính quyền, họ đàn áp, vuốt ve, đe dọa những ai muốn trung thành với sự tinh tuyền nguyên thủy của đức tin không hoen ố của mình”.10
Công đồng Constantinople
Vào năm 381 công nguyên, Công đồng Constantinople xác nhận Giáo điều Nicaea. Công đồng cũng thêm vào một số điều khác. Họ gọi thánh linh là “Chúa” và “đấng ban sự sống”. Giáo điều được mở rộng vào năm 381 công nguyên (đây là giáo điều mà các giáo hội ngày nay đang dùng và được gọi là “Giáo điều Nicaea”) cho thấy các đạo tự xưng theo đấng Christ đã gần đúc kết xong toàn bộ giáo lý Chúa Ba Ngôi. Dầu vậy, Công đồng không hoàn tất giáo lý đó. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Công giáo” (New Catholic Encyclopedia) công nhận:
“Điều đáng chú ý là 60 năm sau Nicaea I, Công đồng Constantinople I [381 công nguyên] đã tránh dùng chữ homoousios khi định nghĩa Chúa Thánh Thần”.11
“Các học giả đều ngạc nhiên về sự diễn tả có vẻ mềm mại của Công đồng, thí dụ như trong trường hợp việc áp dụng chữ homoousios cho Chúa Thánh Thần như là đồng bản thể với Cha và Con”.12
Bách khoa Tự điển ấy cũng thú nhận: “Homoousios không hề xuất hiện trong Kinh-thánh”.13 Đúng vậy, Kinh-thánh không hề dùng chữ đó cho thánh linh hoặc cho Con như là đồng bản thể với Đức Chúa Trời. Đó là một từ ngữ không có trong giáo lý Chúa Ba Ngôi phản Kinh-thánh, hoặc nói đúng hơn là, nghịch hẳn lại với Kinh-thánh.
Ngay cả sau Công đồng Constantinople, nhiều thế kỷ đã trôi qua trước khi giáo lý Chúa Ba Ngôi mới được chấp nhận trong các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Công giáo” (New Catholic Encyclopedia) nói: “Ở Tây phương...người ta nói chung đều im lặng về Công đồng Constantinople cũng như về giáo điều của Công đồng này”.14 Điều này cho thấy tín điều đã không được Tây phương thừa nhận rộng rãi cho đến thế kỷ thứ bảy hoặc thứ tám.
Các học giả cũng xác nhận rằng Giáo điều Athanasius tuy thường được trích ra để làm tiêu chuẩn và để yểm trợ cho giáo lý Chúa Ba Ngôi, nhưng thật ra giáo điều này không do Athanasius viết ra, mà chính do một tác giả vô danh nào đó mãi sau này biên soạn ra. Cuốn “Tân Bách khoa Tự điển Anh quốc” (The New Encyclopœdia Britannica) bình luận như sau:
“Các Giáo hội Đông phương không biết đến giáo điều mãi cho đến thế kỷ 12. Kể từ thế kỷ 17, các học giả mới cùng đồng ý là giáo điều Athanasius không phải do Athanasius viết (ông qua đời năm 373), nhưng có lẽ được soạn ra ở miền Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 5... Giáo điều hình như chỉ có ảnh hưởng mạnh ở miền Nam nước Pháp và Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7. Giáo điều ấy được dùng trong các nghi lễ của giáo hội ở Đức vào thế kỷ thứ 9 và sau này tại La-mã”.15
Tín điều phát triển như thế nào?
Giáo lý Chúa Ba Ngôi lúc ban đầu phát triển chậm chạp trong một thời gian dài nhiều thế kỷ. Ý tưởng ba vị thần của các triết gia Hy-lạp như Platon là người sống trước đấng Christ vài thế kỷ, đã len lỏi vào giáo lý của giáo hội. Sách “Giáo hội trong ba thế kỷ đầu tiên” (The Church of The First Three Centuries) nói như sau:
“Chúng tôi quả quyết rằng giáo lý về Chúa Ba Ngôi phát triển từ từ và mãi sau này mới thành hình. Giáo lý xuất phát từ một nguồn gốc hoàn toàn xa lạ với Kinh-thánh người Do-thái và của tín đồ đạo Gia-tô. Chúng tôi cũng quả quyết rằng giáo lý ấy đã lớn lên và du nhập vào đạo Gia-tô qua bàn tay của các Cha tin theo thuyết của Platon, vào thời của Justin và thật lâu sau khi bản chất khác biệt và địa vị thấp hơn của Con đã được dạy dỗ một cách phổ thông; và chỉ sau đó giáo lý lờ mờ về Chúa Ba Ngôi mới hiện ra rõ ràng”.16
Trước Platon, ba vị thần hay ba ngôi rất phổ thông ở Ba-by-lôn và Ê-díp-tô. Các cố gắng của các nhà lãnh đạo giáo hội, nhằm lôi kéo những người ngoại đạo trong đế quốc La-mã dần dần làm cho những ý tưởng ấy du nhập vào đạo đấng Christ. Và điều này dẫn đến việc chấp nhận niềm tin tưởng rằng Con và thánh linh bằng với Cha.a
“Ngay cả chữ ‘Chúa Ba Ngôi’ cũng chỉ được chấp nhận một cách chậm chạp. Mãi vào cuối thế kỷ thứ 2, Theophilus, giám mục An-ti-ốt ở Tiểu Á, viết bằng tiếng Hy-lạp, đã du nhập chữ tri·asʹ, nghĩa là “ba vị thần” hay “ba ngôi”. Rồi Tertullian ở Carthage, Bắc Phi, viết bằng tiếng La-tinh, dùng chữ trinitas, nghĩa là “ba ngôi”b trong tác phẩm của ông. Nhưng chữ tri·asʹ không hề có trong phần Kinh-thánh viết bằng tiếng Hy-lạp và chữ trinitas cũng không hề thấy trong bản dịch Kinh-thánh tiếng La-tinh gọi là bản dịch Vulgate. Cả hai chữ này đều không có trong Kinh-thánh. Nhưng chữ “Chúa Ba Ngôi” căn cứ vào ý niệm ngoại giáo xâm nhập vào Kinh sách của các giáo hội và sau thế kỷ thứ tư, trở thành một phần của giáo điều.
Do đó, không phải là các học giả xem xét Kinh-thánh kỹ lưỡng để xem trong đó có dạy học thuyết như thế không. Thay vì thế, chính sách của quốc gia và của giáo hội đã xác định giáo lý đó. Trong sách “Truyền thống đạo Gia-tô” (The Christian Tradition), tác giả Jaroslav Pelikan kêu gọi chú ý đến “những yếu tố ngoại thần học trong cuộc tranh luận, trong đó một số yếu tố đã nhiều lần muốn khống chế cho đến khi chính chúng bị triệt tiêu bởi các yếu tố cùng loại. Dường như các học thuyết này thường là nạn nhân, hay là sản phẩm, của chính sách giáo hội hay là của sự xung đột nhân cách”.17 Ông E. Washburn Hopkins, giáo sư thuộc trường Đại học Yale, diễn đạt cách này: “Định nghĩa chính thức sau cùng của giáo lý Chúa Ba Ngôi chỉ là vấn đề chính trị của giáo hội”.18
Giáo lý Chúa Ba Ngôi thật vô lý làm sao khi so sánh với sự dạy dỗ đơn giản của Kinh-thánh, theo đó, Đức Chúa Trời là tối cao và vô song! Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi so-sánh ta cùng ai, và coi ta bằng ai? Các ngươi lấy ai đọ với ta, đặng chúng ta được giống nhau?” (Ê-sai 46:5).
Tín điều tiêu biểu cho điều gì?
Ý tưởng Chúa Ba Ngôi, được khai triển dần dần và tiêu biểu cho điều gì? Đó là sự trôi giạt khỏi đạo thật của đấng Christ mà Giê-su đã tiên tri trước (Ma-thi-ơ 13:24-43). Sứ đồ Phao-lô cũng đã tiên tri về sự bội đạo sẽ đến:
“Vì sẽ có một thời người ta sẽ chẳng thần phục đạo lý chân chính nữa, họ sẽ ngứa tai hùa theo thầy dạy mình chiều về tư dục, chẳng thèm lắng nghe chân lý, chỉ theo dõi những chuyện hoang đường” (II Ti-mốt 4,3—4 [II Ti-mô-thê 4:3, 4], Bản dịch linh mục Trần Đức Huân).
Một trong những chuyện hoang đường là giáo lý Chúa Ba Ngôi. Một số chuyện hoang đường khác xa lìa đạo của đấng Christ cũng dần dần phát triển, đó là: linh hồn bất tử, lò luyện tội, minh phủ (hoặc u linh giới) và sự thống khổ đời đời trong hỏa ngục.
Vậy giáo lý Chúa Ba Ngôi là gì? Đó là một giáo lý ngoại đạo ngụy trang làm một giáo lý đạo đấng Christ. Chính Sa-tan khởi xướng giáo lý này để đánh lừa người ta, làm cho Đức Chúa Trời trở nên khó hiểu được và huyền bí đối với họ. Kết quả là họ cũng phải chấp nhận những ý tưởng tôn giáo và thực hành sai lầm khác nữa.
“Xem trái nó”
Nơi Ma-thi-ơ 7:15-19, Giê-su nói bạn có thể nhận biết tôn giáo thật và tôn giáo giả bằng cách này:
“Hãy coi chừng tiên-tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật là muông-sói hay cắn-xé. Các ngươi nhờ những trái mà nhận-biết được. Nào có ai hái trái nho nơi bụi gai, hay là trái vả nơi bụi tật-lê? Vậy hễ cây nào sinh trái tốt thì sanh trái tốt; nhưng cây nào xấu thì sanh trái xấu... Hễ cây nào chẳng sanh trái tốt, thì phải đốn mà chụm đi”.
Hãy xem xét một thí dụ, nơi Giăng 13:35, Giê-su nói: “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên-hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn-đồ ta”. Cũng vậy, nơi Giăng 4:20 và 21, Lời được soi dẫn của Đức Chúa Trời tuyên bố:
“Ví có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối; vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được. Chúng ta đã nhận nơi Ngài điều-răn này: Ai yêu Đức Chúa Trời, thì cũng phải yêu anh em mình”.
Nếu áp dụng nguyên tắc căn bản, tình yêu thương lẫn nhau giữa các tín đồ thật của đấng Christ, vào những gì đã xảy ra trong hai thế chiến trong thế kỷ 20, cũng như trong các cuộc xung đột khác, chúng ta thấy gì? Người cùng đạo trong các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đối mặt nhau nơi bãi chiến trường và chém giết lẫn nhau vì bất đồng chủ nghĩa quốc gia. Mỗi bên đều tự nhận là tín đồ đấng Christ. Mỗi bên đều được giới chức giáo phẩm ủng hộ, hô hào rằng Đức Chúa trời đứng về phía mình. “Tín đồ đấng Christ” chém giết “tín đồ đấng Christ” là trái ung thối, là vi phạm tình yêu thương giữa tín đồ đấng Christ và là sự chối bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời. (Cũng xem I Giăng 3:10-12).
Ngày đền tội
Sự trôi giạt khỏi đạo thật của đấng Christ không những dẫn đến những tín ngưỡng tà giáo, như giáo lý Chúa Ba Ngôi, mà lại còn dẫn đến những sự thực hành nghịch với đạo thật. Do đó, sẽ có một ngày đền tội vì Giê-su có nói: “Hễ cây nào chẳng sanh trái trốt, thì phải đốn mà chụm đi”. Đó là lý do tại sao Lời của Đức Chúa Trời kêu gọi:
“Hỡi dân ta; hãy ra khỏi Ba-by-lôn [tôn giáo giả], kẻo các ngươi dự phần tội-lỗi với nó, cũng chịu những tai-họa nó nữa chăng. Vì tội-lỗi nó chất cao tầy trời, và Đức Chúa Trời đã nhớ đến các sự gian-ác nó” (Khải-huyền 18:4, 5).
Chẳng bao lâu nữa, Đức Chúa Trời sẽ “để vào lòng” các chính phủ ý tưởng nghịch lại các tôn giáo giả. Họ sẽ “bóc lột nó cho lõa lồ, ăn thịt nó và thiêu nó bằng lửa” (Khải-huyền 17:16, 17). Các tôn giáo giả cùng với các triết học ngoại đạo về Đức Chúa Trời sẽ bị hủy diệt đời đời. Thật vậy, Đức Chúa Trời sẽ nói với những người thực hành tôn giáo giả như Giê-su nói: “Nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang” (Ma-thi-ơ 23:38).
Tôn giáo thật sẽ vẫn tồn tại sau sự phán xét của Đức Chúa Trời để rồi cuối cùng, mọi vinh hiển và tôn quí đều quy vào Đấng mà Giê-su nói là “Đức Chúa Trời có một và thật”. Ngài là Đấng mà người viết Thi-thiên nhận diện khi tuyên dương: “Một mình Chúa, danh là Đức Giê-hô-va, là Đấng Chí-Cao trên khắp trái đất” (Giăng 17:3; Thi-thiên 83:18).
Tài liệu tham khảo:
1. Encyclopœdia Britannica, 1971, quyển 6, trang 386.
2. A Short History of Christian Doctrine, do Bernhard Lohse, năm 1963, trang 51.
3. Ibid., trang 52, 53.
4. New Catholic Encyclopedia, năm 1967, quyển VII, trang 115.
5. A Short Story of Christianity, do Martin E. Marty, năm 1959, trang 91.
6. A Select Library of Nicene and Post-Nicene Fathers of the Christian Church, do Philip Schaff và Henry Wace, năm 1892, Quyển IV, trang xvii.
7. A Short History of Christian Doctrine, trang 53.
8. Ibid., trang 91.
9. The Church of the First Three Centuries, do Alva Lamson, năm 1869, trang 75, 76, 341.
10. Second Century Orthodoxy, do J. A. Buckley, năm 1978, trang 114, 115.
11. New Catholic Encyclopedia, năm 1967, quyển VII, trang 115.
12. Ibid., quyển IV, trang 436.
13. Ibid., trang 251.
14. Ibid., trang 436.
15. The New Encyclopœdia Britannica, năm 1985, tái bản lần thứ 15, Micropædia, quyển 1, trang 665.
16. The Church of the First Three Centuries, trang 52.
17. The Christian Tradition, do Jaroslav Pelikan, năm 1971, trang 173.
18. Origin and Evolution of Religion, do E. Washburn Hopkins, năm 1923, trang 339.
[Chú thích]
a Để biết thêm chi tiết, xin xem sách mỏng “Bạn có nên tin giáo lý Chúa Ba Ngôi không?” (Should You Believe in the Trinity? / Doit-on croire à la Trinité?) do Hội Tháp Canh (Watchtower Bible and Tract Society of New York, Inc.) xuất bản.
b Như đã trình bày ở trong các bài khác thuộc loạt bài này, dù Theophilus và Tertullian có dùng những từ ngữ này, họ không hề có ý niệm Chúa Ba Ngôi của các tôn giáo tự xưng thời nay.
[Hình nơi trang 22]
Đức Chúa Trời sẽ khiến cho các chính phủ quay lại nghịch lại các tôn giáo giả
[Hình nơi trang 24]
Tôn giáo thật sẽ sống sót qua khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời