“Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si!”
“Trước hết [Anh-rê] gặp anh mình là Si-môn thì nói rằng: Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ)” (GIĂNG 1:41).
1. Giăng Báp-tít làm chứng gì về Giê-su người Na-xa-rét, và Anh-rê kết luận thế nào về ngài?
ANH-RÊ đăm đăm nhìn một người Do-thái tên là Giê-su người Na-xa-rét. Người này không có vẻ gì giống như một vị Vua, một người thông thái hoặc một ông ra-bi (thầy đạo Do-thái). Người này không ăn mặc sang trọng như một vị vua, cũng không có tóc bạc, hoặc bàn tay mềm mại và làn da trắng trẻo. Ngài là người còn trẻ trạc 30 tuổi, có bàn tay chai và làn da sạm nắng của người lao lực. Vì thế Anh-rê chắc hẳn không ngạc nhiên gì khi biết rằng ngài làm nghề thợ mộc. Tuy nhiên, Giăng Báp-tít nói về ngài: “Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời!” Ngày hôm trước Giăng còn nói điều kinh ngạc hơn thế nữa: “Ấy chính là Con Đức Chúa Trời”. Có thật như vậy không? Hôm ấy, Anh-rê lắng nghe Giê-su một hồi lâu. Chúng ta không biết Giê-su dạy gì; chỉ biết rằng những gì ngài nói đã làm thay đổi cuộc sống của Anh-rê. Ông vội vàng đi tìm gặp anh mình là Si-môn và thốt lên: “Chúng ta đã gặp Đấng Mê-si!” (Giăng 1:34-42).
2. Tại sao xem xét bằng chứng Giê-su có phải là đấng Mê-si đã được Đức Chúa Trời hứa là điều quan trọng?
2 Anh-rê và Si-môn (người được Giê-su đặt tên là Phi-e-rơ), sau này trở thành sứ đồ của Giê-su. Sau hơn hai năm làm môn đồ của ngài, Phi-e-rơ nói với ngài: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Các sứ đồ và môn đồ trung thành của ngài chứng tỏ cho đến cùng họ sẵn sàng liều mạng mình bởi đức tin ấy. Ngày nay, hàng triệu người thành thật cũng sùng đạo như thế. Nhưng họ dựa trên bằng cớ nào? Xét cho cùng, bằng cớ là những gì cho chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa đức tin và tính nhẹ dạ. (Xem Hê-bơ-rơ 11:1). Chúng ta hãy xem xét ba loại bằng cớ chứng minh rằng Giê-su quả thật là đấng Mê-si.
Dòng dõi của Giê-su
3. Sách Phúc âm theo Ma-thi-ơ và Lu-ca cho biết chi tiết gì về dòng họ của Giê-su?
3 Dòng dõi của Giê-su là bằng cớ đầu tiên Kinh-thánh phần tiếng Hy-lạp cho thấy để chứng minh ngài là đấng Mê-si. Kinh-thánh tiên tri cho biết đấng Mê-si sẽ đến từ dòng họ Vua Đa-vít (Thi-thiên 132:11, 12; Ê-sai 11:1, 10). Sách Phúc âm theo Ma-thi-ơ bắt đầu như thế này: “Gia-phổ Đức Chúa Giê-su Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham”. Ma-thi-ơ chứng minh lời tuyên bố mạnh dạn này bằng cách truy ra xuất xứ của Giê-su qua dòng họ cha nuôi ngài là Giô-sép (Ma-thi-ơ 1:1-16). Phúc âm theo Lu-ca thì truy ra xuất xứ của Giê-su qua dòng họ của mẹ ngài là Ma-ri, đến tận Đa-vít và Áp-ra-ham và cuối cùng đến A-đam (Lu-ca 3:23-38).a Do đó những người viết sách Phúc-âm đã thâu thập tài liệu kỹ lưỡng để chứng minh lời tuyên bố của họ rằng Giê-su là con cháu Đa-vít trên phương diện pháp lý lẫn phương diện huyết thống.
4, 5. a) Những người đương thời với Giê-su có chất vấn việc ngài là dòng dõi Đa-vít không? Và tại sao điều này là đáng chú ý? b) Những tài liệu ngoài Kinh-thánh chứng thật dòng họ của Giê-su như thế nào?
4 Ngay cả những người đa nghi nhất về việc Giê-su là đấng Mê-si cũng không thể phủ nhận được lời tuyên bố của Giê-su là ngài thuộc dòng họ Đa-vít. Tại sao thế? Có hai lý do: Thứ nhất là lời tuyên bố ấy đã được lặp đi lặp lại tại Giê-ru-sa-lem trong nhiều thập niên trước khi thành đó bị hủy diệt vào năm 70 công nguyên. (So sánh Ma-thi-ơ 21:9; Công-vụ các Sứ-đồ 4:27; 5:27, 28). Nếu lời tuyên bố này là sai thì bất cứ kẻ đối nghịch nào của Giê-su (và ngài có rất nhiều kẻ đối nghịch) đều có thể chứng minh rằng ngài là một kẻ lừa gạt bằng cách giản dị kiểm lại xuất xứ của ngài trong văn khố quốc gia.b Nhưng lịch sử không hề ghi nhận có người nào đã chất vấn việc Giê-su thuộc dòng dõi Vua Đa-vít. Hiển nhiên, không ai có thể đả kích được lời tuyên bố này. Không còn nghi ngờ chi nữa, Ma-thi-ơ và Lu-ca đã ghi chép tên tuổi rõ ràng từ trong văn khố quốc gia để làm tài liệu.
5 Thứ hai, những tài liệu ngoài Kinh-thánh xác nhận sự chấp nhận của quần chúng về dòng họ của Giê-su. Thí dụ, bộ luật Talmud của Do-thái có ghi chép chuyện một ông ra-bi vào thế kỷ thứ tư, đã lăng mạ Ma-ri, mẹ của Giê-su, là “gian dâm với những người thợ mộc”; nhưng trong đoạn ấy lại thừa nhận rằng “bà thuộc dòng họ vua chúa”. Một thí dụ xưa hơn nữa là vào thế kỷ thứ hai, sử gia Hegesippus đã kể lại rằng Sê-sa Domitian tìm cách tru di dòng họ Đa-vít. Và có vài kẻ thù của tín đồ đấng Christ đã tố các cháu nội của Giu-đe “là dòng-dõi Đa-vít”, vì Giu-đe là em cùng mẹ khác cha của Giê-su. Nếu người ta biết Giu-đe thuộc dòng dõi Đa-vít, vậy Giê-su không thuộc dòng dõi ấy sao? Thật không thể chối cãi được điều này! (Ga-la-ti 1:19; Giu-đe 1).
Những lời tiên tri về đấng Mê-si
6. Những lời tiên tri nói về đấng Mê-si nhiều đến độ nào?
6 Loại bằng cớ khác chứng tỏ Giê-su là đấng Mê-si là lời tiên tri được ứng nghiệm. Có rất nhiều lời tiên tri áp dụng cho đấng Mê-si trong Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ. Trong sách “Tiểu sử và thân thế của đấng Mê-si Giê-su” (The Life and Times of Jesus the Messiah) tác giả Alfred Edersheim có liệt kê đến 456 đoạn Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ mà mấy ông ra-bi thời xưa cho là lời tiên tri về đấng Mê-si. Tuy nhiên, các ra-bi đó có nhiều ý niệm sai lầm về đấng Mê-si; trong số các đoạn Kinh-thánh họ nêu ra, nhiều đoạn không có liên hệ gì đến đấng Mê-si cả. Dù vậy, ít ra cũng có rất nhiều lời tiên tri chứng nhận Giê-su là đấng Mê-si. (So sánh Khải-huyền 19:10).
7. Giê-su đã làm ứng nghiệm một số lời tiên tri nào khi ngài còn ở trên đất?
7 Trong số ấy có những lời tiên tri nói về: nơi sinh quán của ngài (Mi-chê 5:1; Lu-ca 2:4-11); thảm họa trẻ con bị tàn sát tập thể xảy ra sau khi ngài sinh ra (Giê-rê-mi 31:15; Ma-thi-ơ 2:16-18); ngài được gọi ra khỏi xứ Ê-díp-tô (Ô-sê 11:1; Ma-thi-ơ 2:15); các nhà cầm quyền xúm nhau lại để diệt ngài (Thi-thiên 2:1, 2; Công-vụ các Sứ-đồ 4:25-28); có kẻ phản bội ngài vì 30 miếng bạc (Xa-cha-ri 11:12; Ma-thi-ơ 26:15); và ngay cả cách ngài chịu chết cũng được tiên tri (Thi-thiên 22:16; Giăng 19:18, 23; 20:25, 27).c
Tiên tri về sự xuất hiện của ngài
8. a) Lời tiên tri nào xác định cho biết lúc đấng Mê-si xuất hiện? b) Chúng ta phải biết hai yếu tố nào để hiểu lời tiên tri này?
8 Chúng ta hãy chú tâm vào một lời tiên tri sau đây. Những người Do-thái được báo trước nơi Đa-ni-ên 9:25 là đấng Mê-si xuất hiện khi nào. Đoạn ấy nói: “Ngươi khá biết và hiểu rằng từ khi ra lệnh tu-bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem, cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được bảy tuần-lễ, và sáu mươi hai tuần-lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường-phố và hào, trong kỳ khó-khăn” (Đa-ni-ên 9:25). Thoạt đầu, lời tiên tri này dường như có vẻ bí ẩn, nhưng theo nghĩa rộng thì lời tiên tri này đòi hỏi chúng ta chỉ cần tìm hai điều: điểm khởi đầu và khoảng thời gian. Thí dụ nếu bạn có một tấm bản đồ chỉ đường đi đến một kho tàng được chôn giấu cách “50 sào phía đông của một cái giếng trong công viên thành phố” thì bạn có lẽ cảm thấy lời chỉ dẫn này thật rắc rối, nhất là nếu bạn không biết cái giếng này nằm ở đâu hoặc một “sào” dài bao nhiêu. Chắc hẳn bạn sẽ tìm hai điều này hầu có thể tìm ra kho tàng phải không? Vậy thì lời tiên tri Đa-ni-ên cũng gần giống như vậy, nhưng khác là chúng ta đang tìm khởi điểm và đo khoảng thời gian sau đó dài bao nhiêu.
9, 10. a) 69 tuần lễ được tính từ lúc nào? b) 69 tuần lễ dài bao lâu, và làm sao chúng ta biết được?
9 Trước tiên chúng ta cần có khởi điểm, tức khi “lệnh tu-bổ và xây lại Giê-ru-sa-lem” được ban ra. Kế đến, chúng ta cần biết khoảng cách từ điểm ấy, tức là 69 tuần lễ (7 cọng 62) dài bao lâu. Thật ra cả hai điều này không khó tìm. Nê-hê-mi kể rõ ràng cho chúng ta biết lệnh xây lại tường chung quanh thành Giê-ru-sa-lem khiến cho thành này cuối cùng được trùng tu được ban ra vào “năm thứ hai mươi đời vua Ạt-ta-xét-xe” (Nê-hê-mi 2:1, 5, 7, 8). Điều này cho chúng ta biết điểm khởi đầu là năm 455 trước công nguyên.d
10 Còn về 69 tuần lễ, có thể đây là những tuần lễ có bảy ngày theo nghĩa đen không? Không, bởi vì đấng Mê-si không xuất hiện trong khoảng thời gian hơn một năm [tức 69 tuần lễ] sau năm 455 trước công nguyên. Do đó những học giả Kinh-thánh và rất nhiều bản dịch (kể cả bản Tanakh của Do-thái chú thích phần dưới về câu đó) đồng ý đây là những tuần lễ “[bảy] năm”. người Do-thái quen thuộc với khái niệm về “tuần lễ [bảy] năm”, hoặc chu kỳ bảy năm. Cứ mỗi bảy năm họ giữ năm Sa-bát cũng như cứ bảy ngày họ giữ ngày nghỉ (ngày Sa-bát) (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:8-11; 23:10, 11). Vậy 69 tuần lễ năm [bảy năm] là 69 lần 7 năm, hoặc 483 năm. Về phần còn lại, chúng ta chỉ việc bắt đầu đếm 483 năm kể từ năm 455 trước công nguyên, và điều này sẽ dẫn ta đến năm 29 công nguyên. Ấy chính là năm mà Giê-su chịu phép báp-têm và trở thành đấng Ma·shiʹach, hoặc đấng Mê-si! (Xem “Bảy mươi tuần lễ” [Seventy Weeks] trong cuốn Insight on the Scriptures, quyển 2, trang 899).
11. Làm thế nào ta có thể trả lời đối với những người cho rằng đây chỉ là một phương pháp mới để giải thích lời tiên tri của Đa-ni-ên?
11 Một số người có lẽ phản đối rằng đây chỉ là một phương pháp mới để giải thích tiên tri Kinh-thánh cốt để phù hợp với lịch sử. Nếu quả là như vậy thì tại sao vào thời Giê-su dân chúng trông mong đấng Mê-si xuất hiện vào lúc ấy? Sử gia Lu-ca theo đạo đấng Christ, sử gia La-mã Tacitus và Suetonius, sử gia Do-thái Josephus và triết gia Do-thái Philo, tất cả những người này đều đã gần thời kỳ đó và họ xác nhận về sự trông mong của dân chúng (Lu-ca 3:15). Một số học giả ngày nay quả quyết rằng vì bị quân La-mã đàn áp cho nên người Do-thái trông ngóng và mong chờ đấng Mê-si vào thời ấy. Vậy thì tại sao người Do-thái trông mong đấng Mê-si vào lúc ấy thay vì vào giai đoạn đàn áp tàn bạo của người Hy-lạp trong những thế kỷ trước đó? Tại sao Tacitus nói rằng vì lời “tiên tri huyền bí” cho nên người Do-thái trông mong những người lãnh đạo oanh liệt xuất thân từ Giu-đê và “giành được một đế quốc hoàn cầu”? Trong cuốn “Lịch sử của sự phỏng đoán về đấng Mê-si tại Y-sơ-ra-ên” (A History of Messianic Speculation in Israel) tác giả Abba Hillel Silver nhìn nhận rằng “Người ta trông mong đấng Mê-si đến vào khoảng năm 26 đến năm 50 công nguyên”, không phải vì bị người La-mã đàn áp, nhưng vì “niên đại thịnh hành vào thời ấy” bắt nguồn một phần từ sách Đa-ni-ên.
Sự xác nhận từ trời đến
12. Đức Giê-hô-va chứng nhận Giê-su là đấng Mê-si như thế nào?
12 Loại bằng cớ thứ ba chứng tỏ Giê-su là đấng Mê-si đến từ sự xác nhận của chính Đức Chúa Trời. Theo Lu-ca 3:21, 22, sau khi Giê-su chịu phép báp-têm, ngài được xức dầu bởi một sức mạnh thánh và mạnh mẽ nhất của vũ trụ, ấy là thánh linh của Đức Chúa Trời. Và với chính tiếng nói của mình, Đức Giê-hô-va cho biết rằng Con Ngài là Giê-su làm đẹp lòng Ngài mọi đàng. Trong hai dịp khác Đức Giê-hô-va từ trời trực tiếp nói chuyện với Giê-su, bởi đó Ngài biểu lộ sự hài lòng của Ngài: một lần trước mặt ba sứ đồ của Giê-su, và một lần khác giữa đám đông người chứng kiến (Ma-thi-ơ 17:1-5; Giăng 12:28, 29). Hơn nữa các thiên sứ đã được gửi xuống từ trời để xác nhận vai trò của Giê-su là đấng Christ hoặc đấng Mê-si (Lu-ca 2:10, 11).
13, 14. Đức Giê-hô-va bày tỏ việc Ngài chấp nhận Giê-su là đấng Mê-si như thế nào?
13 Đức Giê-hô-va cho thấy Ngài hài lòng về đấng được Ngài xức dầu bằng cách ban quyền năng cho Giê-su để hoàn tất những công việc lớn lao. Thí dụ, Giê-su đã phán những lời tiên tri cho biết trước chi tiết lịch sử, và trong ấy có vài tiên tri được áp dụng cho thời đại chúng ta đang sống.e Ngài cũng làm nhiều phép lạ, chẳng hạn như hóa bánh nuôi đám đông đang đói và chữa lành những kẻ bệnh tật. Ngài còn làm ngay cả người chết sống lại. Phải chăng những người theo ngài chỉ bịa đặt những chuyện về phép lạ này sau khi những điều này xảy ra? Giê-su làm nhiều phép lạ trước mặt nhiều người, đôi khi hàng ngàn người chứng kiến cùng một lúc. Ngay cả kẻ đối nghịch với ngài cũng không thể phủ nhận rằng ngài đã làm những phép lạ này (Mác 6:2; Giăng 11:47). Ngoài ra, nếu các môn đồ của ngài có khuynh hướng bịa đặt những chuyện đó thì tại sao họ lại thẳng thắn thừa nhận các nhược điểm của chính họ? Thật ra, có thể nào họ sẵn sàng chết cho đức tin dựa trên những chuyện hoang đường mà chính họ bịa đặt không? Không thể được. Phép lạ của Giê-su quả là những sự kiện lịch sử.
14 Sự làm chứng của Đức Chúa Trời về Giê-su là đấng Mê-si còn đi xa hơn nữa. Qua thánh linh của Ngài, Ngài lo liệu công việc để cho những bằng chứng này về Giê-su là đấng Mê-si được ghi chép và trở nên một phần của cuốn sách được phiên dịch và phổ biến rộng rãi trong lịch sử.
Tại sao người Do-thái không chấp nhận Giê-su?
15. a) Giê-su có nhiều uy tín đến độ nào cho biết ngài là đấng Mê-si? b) Những quan niệm nào của người Do-thái đưa nhiều người đến việc từ khước Giê-su là đấng Mê-si?
15 Vậy thì nói chung, ba loại bằng cớ này bao gồm hàng trăm sự kiện chứng nhận Giê-su là đấng Mê-si. Như thế không đủ hay sao? Hãy thử tưởng tượng khi nộp đơn xin bằng lái xe hoặc xin thẻ tín dụng, người ta bảo bạn rằng có ba thẻ lý lịch chưa đủ, nhưng phải có tới hàng trăm thẻ. Thật là vô lý biết bao! Vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa là Kinh-thánh chứng nhận hết mực Giê-su là đấng Mê-si. Thế nhưng tại sao nhiều người đồng hương với ngài lại từ khước tất cả những bằng cớ chứng nhận rằng Giê-su là đấng Mê-si? Bởi vì bằng cớ không bảo đảm người ta có đức tin, tuy đó là điều kiện quan trọng để có đức tin thật. Đáng buồn thay, ngay cả trước bằng cớ quá hiển nhiên, nhiều người vẫn tin những gì mình muốn tin. Khi nói về đấng Mê-si, phần đông người Do-thái có những quan niệm rõ ràng về điều họ muốn. Họ muốn có một vị cứu tinh chính trị, là người sẽ chấm dứt sự đàn áp của La-mã và tái lập nước Y-sơ-ra-ên cho được phồn thịnh về vật chất giống như dưới triều vua Sa-lô-môn. Vậy thì làm sao họ lại có thể chấp nhận được một người khiêm nhường xứ Na-xa-rét, con của một người thợ mộc và người này lại không chú trọng đến chính trị hoặc giàu sang phú quí? Và đặc biệt là làm sao người ấy có thể là đấng Mê-si sau khi phải chịu đau khổ và chết một cách nhục nhã trên cây khổ hình?
16. Tại sao các môn đồ của Giê-su đã phải sửa đổi quan niệm riêng của họ về đấng Mê-si?
16 Chính các môn đồ của Giê-su cũng bị xao động trước sự chết của ngài. Sau sự sống lại vinh hiển của ngài, họ rõ ràng hy vọng ngài sẽ “lập lại nước Y-sơ-ra-ên” ngay tức khắc (Công-vụ các Sứ-đồ 1:6). Nhưng họ không khước từ Giê-su là đấng Mê-si chỉ vì hy vọng cá nhân đó không được thành tựu. Họ đặt đức tin nơi ngài dựa theo nhiều bằng cớ họ có được, và với thời gian thì sự hiểu biết của họ ngày càng tăng thêm và những điều khó hiểu được sáng tỏ. Họ đạt đến sự hiểu biết rằng đấng Mê-si không thể ứng nghiệm hết tất cả những lời tiên tri nói về ngài trong quãng đời ngắn ngủi của mình với tư cách một người sống trên đất. Nhưng lạ thật, có lời tiên tri nói rằng ngài đến cách khiêm nhường, cưỡi lừa con, trong khi ấy thì có lời chép rằng ngài đến cách vinh hiển ngự trên đám mây! Làm thế nào cả hai lời tiên tri đều thật cả? Hiển nhiên, ngài phải đến lần thứ hai (Đa-ni-ên 7:13; Xa-cha-ri 9:9).
Tại sao đấng Mê-si phải chịu chết
17. Lời tiên tri của Đa-ni-ên nói tỏ tường thế nào về sự kiện đấng Mê-si phải chịu chết, và vì lý do nào ngài phải chịu chết?
17 Hơn nữa, lời tiên tri về đấng Mê-si cho biết tỏ tường rằng ngài phải chịu chết. Thí dụ, chính lời tiên tri báo trước lúc đấng Mê-si đến cũng tiên tri thêm trong câu Kinh-thánh kế tiếp: “Sau sáu mươi hai tuần-lễ đó [theo sau bảy tuần lễ khác], Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi” (Đa-ni-ên 9:26). Từ ngữ Hê-bơ-rơ ka·rathʹ tức “trừ đi”, cũng là chữ được dùng để nói về án tử hình dưới Luật pháp Môi-se. Thật không còn nghi ngờ gì nữa cả, đấng Mê-si phải chịu chết. Tại sao vậy? Câu 24 cho chúng ta lời giải đáp: “Đặng ngăn sự phạm-phép, trừ tội-lỗi, làm sạch sự gian-ác, và đem sự công-bình đời đời vào”. Người Do-thái biết rất rõ rằng chỉ có một sự hy sinh mạng sống mới có thể chuộc được tội lỗi. (Lê-vi Ký 17:11; so sánh Hê-bơ-rơ 9:22).
18. a) Sách Ê-sai đoạn 53 cho thấy đấng Mê-si phải chịu khổ sở và chết ra sao? b) Lời tiên tri này nêu lên điều nào có vẻ mâu thuẫn?
18 Sách Ê-sai đoạn 53 nói về đấng Mê-si như một Tôi tớ đặc biệt của Đức Giê-hô-va, đấng này phải chịu khổ sở và chết để che lấp tội lỗi kẻ khác. Câu 5 nói: “Nhưng người đã vì tội-lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian-ác chúng ta mà bị thương”. Cũng chính lời tiên tri này, sau khi cho chúng ta biết rằng đấng Mê-si phải chịu chết để “làm tế chuộc tội”, còn tiết lộ rằng cũng chính đấng này mà “những ngày người sẽ thêm dài ra, và ý-chỉ Đức Giê-hô-va nhờ tay người được thạnh-vượng” (Ê-sai 53 câu 10). Đây có phải là một sự mâu thuẫn không? Làm thế nào mà đấng Mê-si chịu chết, và rồi “ngày người sẽ thêm dài ra”? Làm thế nào ngài bị dâng làm của-lễ và sau đó lại làm “ý-chỉ Đức Giê-hô-va...được thạnh-vượng”? Thật vậy, làm sao ngài có thể chết và ở trong tình trạng chết để rồi không thể làm ứng nghiệm những lời tiên tri quan trọng nhất về ngài, đó là việc ngài sẽ trị vì mãi mãi với tư cách là Vua và đem lại hòa bình và hạnh phúc cho toàn thế giới? (Ê-sai 9:5, 6).
19. Sự sống lại của Giê-su giải quyết thế nào những lời tiên tri có vẻ mâu thuẫn về đấng Mê-si?
19 Chỉ có một phép lạ kỳ diệu giải quyết được điều có vẻ mâu thuẫn này. Ấy là việc Giê-su được sống lại. Hàng trăm người Do-thái có lòng ngay thẳng đã chứng kiến sự thật vinh hiển này (I Cô-rinh-tô 15:6). Sau này sứ đồ Phao-lô viết: “Còn như Đấng nầy [Giê-su], đã vì tội-lỗi dâng chỉ một của-lễ, rồi ngồi đời đời bên hữu Đức Chúa Trời, từ rày về sau đương đợi những kẻ thù-nghịch Ngài bị để làm bệ dưới chân Ngài vậy” (Hê-bơ-rơ 10:10, 12, 13). Đúng, chính sau khi Giê-su được sống lại về trời và sau giai đoạn “đương đợi”, thì cuối cùng ngài được lên ngôi làm Vua và ra tay chống lại những kẻ thù nghịch của Cha ngài là Đức Giê-hô-va. Trong vai trò là Vua trên trời, đấng Mê-si Giê-su ảnh hưởng đến đời sống của mỗi người hiện đang sống. Bằng cách nào? Bài tới sẽ bàn về điều này.
[Chú thích]
a Khi Lu-ca 3:23 nói “Giô-sép con Hê-li” thì câu này hiển nhiên muốn nói “con” đây có nghĩa là “con rể”, bởi chính Hê-li là cha ruột của Ma-ri (Insight on the Scriptures, quyển 1, trang 913-917).
b Khi trình bày dòng họ của mình, sử gia Do-thái Josephus nói rõ rằng những tài liệu đó có thể tìm được trước năm 70 công nguyên. Những tài liệu này hầu như đã bị tiêu hủy với thành Giê-ru-sa-lem khiến cho tất cả những ai sau này tự nhận mình là đấng Mê-si không thể chứng minh được.
c Xin xem sách Insight on the Scriptures, quyển 2, trang 387.
d Có bằng cớ chắc chắn trong những tài liệu Hy-lạp, Ba-by-lôn và Phe-rơ-sơ thời xưa cho thấy rằng Ạt-ta-xét-xe lên ngôi trị vì vào năm 474 trước công nguyên. (Xin xem sách Insight on the Scriptures, quyển 2, trang 614-616, 900).
e Trong một lời tiên tri đó, ngài tiên tri rằng nhiều mê-si giả sẽ dấy lên từ thời ngài trở đi (Ma-thi-ơ 24:23-26). Xin xem bài trước.
Bạn trả lời thế nào?
◻ Tại sao chúng ta xem xét bằng cớ về việc Giê-su có phải là đấng Mê-si?
◻ Làm thế nào dòng họ của Giê-su chứng nhận ngài là đấng Mê-si?
◻ Làm thế nào những lời tiên tri trong Kinh-thánh giúp chứng minh Giê-su là đấng Mê-si?
◻ Bằng những cách nào chính Đức Giê-hô-va xác nhận Giê-su là đấng Mê-si?
◻ Tại sao rất nhiều người Do-thái từ khước Giê-su là đấng Mê-si, và tại sao những lý do này không hợp lý?
[Hình nơi trang 12]
Mỗi phép lạ của Giê-su trưng thêm bằng cớ ngài là đấng Mê-si