THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w94 15/2 trg 19-23
  • Trường Ga-la-át được 50 năm và hoạt động mạnh!

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Trường Ga-la-át được 50 năm và hoạt động mạnh!
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1994
  • Tài liệu liên quan
  • Những người tốt nghiệp Trường Ga-la-át—“Giáo sĩ thứ thiệt”!
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
  • Hãy vui vẻ và hớn hở nơi Đức Giê-hô-va
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1999
  • Trường Ga-la-át phái khóa 100
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Họ vui sướng thực thi ý muốn Đức Chúa Trời
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2006
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1994
w94 15/2 trg 19-23

Trường Ga-la-át được 50 năm và hoạt động mạnh!

VÀO ngày 1-2-1943, ngày khai giảng khóa đầu tiên của Trường Ga-la-át, anh N. H. Knorr đã nói: “Tại nhiều nơi công việc làm chứng về Nước Trời không được phổ biến rộng rãi”. Anh nói thêm: “Có hàng trăm và hàng ngàn người có thể được nghe tin mừng nếu có thêm người rao giảng. Nhờ lòng yêu thương nhân từ của Chúa, nay sẽ có thêm nhiều người nữa”.

Và thật đã có thêm nhiều người rao giảng—thêm hàng triệu người! Hàng ngũ những người công bố về Nước Trời từ 129.070 trong 54 xứ vào năm 1943 đã tăng đến 4.709.889 người trong 231 xứ vào năm 1993! Trường Ga-la-át đã đóng góp rất nhiều cho cuộc làm chứng đưa đến sự gia tăng đó. Sau 50 năm, trường ấy tiếp tục đóng vai chính trong việc đào tạo giáo sĩ để phụng sự ở nơi nào cần họ trên thế giới.

Vào ngày 7-3-1993, có 4.798 người gồm quan khách được mời và các thành viên của gia đình Bê-tên tại Hoa Kỳ nhóm lại tại phòng hội nghị ở Jersey City, tiểu bang New Jersey để dự lễ mãn khóa lớp thứ 94. Đây thật là một dịp đặc biệt để nhìn lại thành tích 50 năm của Trường Ga-la-át. Bạn có muốn biết sơ qua về chương trình buổi họp này không?

Sau bài hát mở đầu, anh George D. Gangas thuộc Hội đồng Lãnh đạo Trung ương đã nhiệt thành cầu nguyện. Rồi sau vài lời mở đầu của anh chủ tọa là Carey W. Barber, các học viên và tất cả những người tham dự chăm chú nghe một loạt các bài giảng ngắn.

Đầu tiên, anh Robert W. Wallen nói về đề tài “Bạn không bao giờ cô đơn”. Bằng giọng nồng ấm, anh nói: ‘Trong những ngày tới, sẽ có lúc trong đời sống, bạn cảm thấy rất cô đơn, rất xa gia đình và bạn bè’. Vậy thì làm sao có thể nói “bạn không bao giờ cô đơn”? Anh giải thích: ‘Bởi vì mỗi người trong các bạn sẽ có thể nói chuyện tức khắc với Giê-hô-va Đức Chúa Trời’. Anh giục những người tốt nghiệp tiếp tục yêu quí đặc ân cầu nguyện và cầu nguyện hàng ngày. Rồi như Giê-su Christ, họ có thể nói: “Ta không ở một mình” (Giăng 16:32). Những lời đó thật là khích lệ biết bao cho các người tốt nghiệp.

Kế đó, anh Lyman A. Swingle thuộc Hội đồng Lãnh đạo Trung ương khai triển đề tài “Giữ vững niềm hy vọng của bạn” (dựa trên đoạn Kinh-thánh cho ngày 7 tháng 3), anh nói về việc cần hai đức tính—sự nhịn nhục và hy vọng. Anh nói: ‘Sự sỉ nhục, thù hằn, ghen ghét, tù đày và ngay cả sự chết là những lý do tại sao tín đồ đấng Christ cần phải nhịn nhục. Các Nhân-chứng trung thành của Đức Giê-hô-va có thể cậy đến sức mạnh không giới hạn vượt quá mức bình thường để giúp họ lúc cần thiết. Và điều này chắc chắn làm vững lòng nhất là cho các bạn, những người tốt nghiệp’. Còn về niềm hy vọng thì sao? Anh giải thích: ‘Niềm hy vọng rất cần yếu, như một cái mão trụ che chở đầu của người đội, thì hy vọng về sự cứu rỗi che chở sức mạnh tinh thần của người tín đồ đấng Christ, giúp người giữ được sự trung kiên’ (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:8).

Diễn giả kế tiếp là Ralph E. Walls, anh chọn một đề tài gợi sự thắc mắc, “Làm sao chúng ta có thể chạy thoát đến chỗ an toàn của ‘Nơi rộng rãi’?” “Nơi rộng rãi” có nghĩa là gì? (Thi-thiên 18:19). Diễn giả giải thích: “Đó là một tình trạng được giải thoát, đem lại sự bình an trong trí và an ổn trong lòng”. Chúng ta cần được giải thoát khỏi gì? ‘Chính bạn—các lỗi lầm của chính bạn’. Anh nói tiếp: ‘Và những hoàn cảnh bên ngoài do Sa-tan gây nên’ (Thi-thiên 118:5). Làm sao chúng ta có thể chạy thoát đến chỗ an toàn của nơi rộng rãi? ‘Bằng cách tìm kiếm mạng lịnh của Đức Giê-hô-va trong tất cả những gì chúng ta làm và với đức tin cầu nguyện nài xin Đức Giê-hô-va và trình bày mọi nỗi lo âu của chúng ta’.

Anh Don A. Adams đã chọn đề tài “Điều gì đang chờ đón bạn?” Và điều gì đang chờ đón những giáo sĩ mới? Anh giải thích đó là một thời kỳ để thích nghi với hoàn cảnh mới. “Cũng sẽ có nhiều ân phước đến với bạn”. Thí dụ, anh nói về hai giáo sĩ mới sau khi định cư trong xứ mà họ được bổ nhiệm tới, đã viết: “Hãy nghĩ đến ngày đi rao giảng thú vị nhất mà bạn đã có và ở đây ngày nào cũng giống như vậy cả. Chúng tôi không thể mang theo cho đủ sách báo để phát hành và người ta cứ xin chúng tôi học hỏi với họ”. Diễn giả nói vài lời với gia đình và bạn bè của những người tốt nghiệp: ‘Các bạn không cần lo lắng về những anh chị này. Bạn có thể giúp họ bằng cách viết những lời khuyến khích họ’ (Châm-ngôn 25:25).

Kế tiếp đến lượt các giảng viên Trường Ga-la-át nói. Anh Jack D. Redford chọn đề tài “Đừng đòi hỏi ai bất cứ điều gì”. Anh giải thích một trong những thử thách mà những người tốt nghiệp sẽ phải đương đầu là sống hòa mình với người khác. Điều gì có thể giúp họ? “Phải bỏ qua lỗi lầm của người khác. Đừng đòi hỏi người khác nhiều quá. Đừng luôn luôn đòi hỏi trọn phần những gì bạn nghĩ người khác nợ bạn. Nhân nhượng cho sự bất toàn của người khác, và lòng nhân từ này sẽ giúp bạn sống hòa mình với người khác. Khả năng của bạn để sống hòa mình với người khác cho biết mức độ thành thục của bạn” (Châm-ngôn 17:9). Chắc chắn, áp dụng lời khuyên khôn ngoan này sẽ giúp những người tốt nghiệp thành công trong việc thích nghi với hoàn cảnh mới khi làm giáo sĩ ở ngoại quốc!

II Cô-rinh-tô 4:7 nói: “Nhưng chúng tôi đựng của quí này trong chậu bằng đất”. Anh Ulysses V. Glass, người giữ sổ sách học viên của Trường Ga-la-át, đã bàn luận về đoạn Kinh-thánh này khi anh khai triển chủ đề “Hãy tin cậy những anh em đã chứng tỏ trung thành”. Các “chậu bằng đất” là gì? Anh nói: “Đây phải ám chỉ đến chúng ta là loài người bất toàn”. Còn “của quí” là gì? Anh giải thích: “Đó là thánh chức của tín đồ đấng Christ” (II Cô-rinh-tô 4:1). Và phải làm gì với của quí báu này? “Của quí báu này mà Đức Giê-hô-va đã giao cho chúng ta không phải để cất giấu. Vậy, hỡi các giáo sĩ tương lai thân mến, hãy phân phát của quí báu này bất cứ nơi nào các bạn tới, và dạy dỗ nhiều người khác để biết cách phân phát nó nữa”.

Khi anh Albert D. Schroeder bước lên giảng đàn, ấy là một giây phút bồi hồi nhớ lại quá khứ, vì anh là người giữ sổ sách học viên Trường Ga-la-át khi trường ấy mới mở. Chủ đề của anh là “Nửa thế kỷ trong sự huấn luyện thần quyền”. Anh nói: “Đức Giê-hô-va biết cách để ban sự huấn luyện hữu hiệu và Ngài đã làm điều đó”. Bằng cách nào? Anh Schroeder nói về sự huấn luyện qua hai trường đã được thành lập 50 năm về trước: Trường Thánh chức Thần quyền và Trường Ga-la-át. Anh cho thấy “Bản dịch Thế giới Mới” (New World Translation) là một công cụ quí giá trong việc cung cấp sự hiểu biết chính xác. Anh cam đoan với các người tốt nghiệp: “Các bạn có thể đi đến nhiệm sở ở ngoại quốc với sự tin tưởng vững chắc là Hội sẽ cung cấp cho các bạn đầy đủ sự hiểu biết chính xác về ý định của Đức Giê-hô-va”.

Chủ tịch Hội Tháp Canh (Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania) là anh Milton G. Henschel nói về chủ đề “Thắng hơn bội phần”. Anh Henschel lấy chủ đề từ đoạn Kinh-thánh cho năm 1943: “Chúng ta nhờ Đấng yêu-thương mình mà thắng hơn bội-phần” (Rô-ma 8:37). Anh giải thích đây là đoạn Kinh-thánh rất thích hợp bởi vì lúc đó là giữa Đệ nhị thế chiến, anh em của chúng ta trong nhiều xứ đang bị nhiều bắt bớ. Anh Henschel đọc một số đoạn trích ra từ tạp chí Tháp Canh bàn về đoạn Kinh-thánh này rồi giải thích: “Vào tháng 2, khóa đầu tiên của Trường Ga-la-át học bài Tháp Canh này [15-1-1943, Anh ngữ], và bài này chuẩn bị cho họ về những gì sắp xảy ra”. Anh giải thích là nhiều người tốt nghiệp trong 50 năm qua đã chứng tỏ họ là kẻ chiến thắng. Còn khóa thứ 94 thì sao? “Hãy đến gần Đức Giê-hô-va, đến gần sự yêu thương Ngài, thì bạn được bảo đảm thắng trận”.

Tiếp theo các bài giảng buổi sáng, anh chủ tọa đọc vài lời chào thăm từ các xứ khác gởi đến. Rồi đến giờ phút mà 24 cặp vợ chồng nức lòng mong đợi, giờ phát bằng cấp. Thế là các học viên Ga-la-át giờ đây thực sự đã tốt nghiệp! Họ đến từ 5 nước nhưng họ được bổ nhiệm đi đến 17 nước, gồm có Hồng Kông, Đài Loan, Mozambique và nhiều nơi ở Đông Âu.

Sau giờ tạm nghỉ, chương trình buổi trưa bắt đầu với buổi học tạp chí Tháp Canh thu ngắn, do anh Robert L. Butler điều khiển. Rồi các người tốt nghiệp diễn lại một vài kinh nghiệm nổi bật làm họ vui thích trong lúc rao giảng làm chứng gần Wallkill, Nữu Ước. Chương trình phản ảnh một trong những điều mà chắc chắn đã đem họ đến Trường Ga-la-át, đó là sự yêu thích sâu xa của họ đối với thánh chức rao giảng.

Sau chương trình của các học viên, nhiều người trong cử tọa tự hỏi không biết chương trình sẽ có đặc điểm gì để kỷ niệm ngày 50 năm thành lập Trường Ga-la-át. Họ đã không bị thất vọng! (Hãy xem phần trong khung “Ôn lại 50 năm của Trường Ga-la-át”).

Năm mươi năm trước, anh Knorr cho thấy anh là người có đức tin và biết nhìn xa. Anh bày tỏ niềm tin tưởng về sự thành công của Trường Ga-la-át trong bài giảng khai mạc khóa đầu tiên khi anh nói: “Chúng tôi tin rằng, đúng như tên Ga-la-át, ‘đống đá làm chứng’ sẽ từ nơi này đi khắp cùng trái đất và sự làm chứng như thế sẽ là đài kỷ niệm cho sự vinh quang của Đức Chúa Trời mà không bao giờ bị hủy diệt. Các bạn là những người được bổ nhiệm sẽ đặt sự tin cậy trọn vẹn nơi Đấng Tối cao, biết rằng Ngài sẽ hướng dẫn và dìu dắt các bạn mỗi lúc bạn cần, và các bạn cũng sẽ biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời ban ân phước”.a

Năm mươi năm sau, Trường Ga-la-át vẫn còn hoạt động! Những người tốt nghiệp khóa 94 này giờ đây có đặc ân theo chơn của hơn 6.500 người tốt nghiệp trước họ. Mong rằng họ đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đấng Tối cao trong lúc họ chất cao “đống đá làm chứng” mà sẽ là một đài kỷ niệm cho sự vinh hiển của Giê-hô-va Đức Chúa Trời.

[Chú thích]

a Chữ “Ga-la-át” trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là ‘Đống đá làm chứng’ (Sáng-thế Ký 31:47, 48).

[Khung nơi trang 21]

Thống kê khóa 94

Tổng số học viên: 48

Số nước được đại diện: 5

Số nước phái đi: 17

Tuổi trung bình: 32

Số năm trung bình trong lẽ thật: 15.3

Số năm trung bình trong thánh chức trọn thời gian: 9.6

[Khung nơi trang 22-23]

ÔN LẠI 50 NĂM CỦA TRƯỜNG GA-LA-ÁT

Để xem lại lịch sử của trường Ga-la-át, không cách nào tốt bằng cách nghe kinh nghiệm của những người đã có phần trong trường ấy: các người tốt nghiệp trước đây, những giảng viên và các người giúp tổ chức trường ấy, phải không? Cử tọa vui mừng khi nghe anh Theodore Jaracz điều khiển phần “Ôn lại 50 năm của trường Ga-la-át”.

Hoàn cảnh nào đã đưa đến việc thành lập trường ấy? Anh Schroeder giải thích rằng anh và hai giảng viên khác chỉ có được bốn tháng để tổ chức trường này. “Nhưng đến Thứ Hai, ngày 1-2-1943, chúng tôi đã sẵn sàng để khánh thành”.

Khi các giáo sĩ đầu tiên được phái đi thì tình trạng ra sao? Anh Henschel nhớ lại: “Ban gởi đồ của Hội đóng tất cả đồ đạc mà họ muốn đem theo vào trong thùng gỗ. Khi thùng đến, họ cẩn thận mở thùng và lấy hết đồ đạc ra, nhưng rồi họ dùng các thùng gỗ để làm bàn ghế”. Về sau Hội sắp đặt để có những nhà giáo sĩ đầy đủ hơn.

Tiếp theo chương trình, có một số học viên tốt nghiệp từ các khóa đầu hiện đang là thành viên của gia đình Bê-tên tại Hoa Kỳ lên chia xẻ những kỷ niệm, cảm nghĩ và kinh nghiệm của họ. Những lời họ nói thật sự làm động lòng mọi người trong cử tọa.

“Sau khi tôi nhận được giấy mời dự khóa đầu tiên, tôi được tin mẹ tôi bị ung thư. Nhưng vì mẹ đã làm người tiên phong từ lúc 16 tuổi, nên mẹ mạnh dạn khuyến khích tôi nhận lời mời đó. Vậy, với cảm xúc vui buồn lẫn lộn và tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, tôi lên đường đến South Lansing. Tôi hoàn toàn vui thích và quý trọng sâu xa sự huấn luyện tại Ga-la-át. Mẹ tôi kết thúc đời sống trên đất một thời gian sau ngày tôi mãn khóa” (Charlotte Schroeder, đã phụng sự tại Mễ Tây Cơ và El Salvador).

“Vì Đức Giê-hô-va đã chăm sóc tôi nơi phần đất mà tôi sống, tôi tin là bất cứ nơi nào tôi đi vẫn là trái đất của Ngài và Ngài sẽ chăm sóc tôi. Vì vậy tôi rất vui mừng nhận lời mời dự khóa học đầu tiên” (Julia Wildman, đã phụng sự tại Mễ Tây Cơ và El Salvador).

“Công việc giáo sĩ thật tuyệt diệu! Nhà nào cũng cho chúng tôi nói. Tháng đầu, tôi phát hành 107 cuốn sách và điều khiển 19 học hỏi Kinh-thánh. Tháng thứ hai tôi có 28 học hỏi Kinh-thánh. Dĩ nhiên, chúng tôi phải rán chịu những thứ như là trời nóng, khí hậu ẩm thấp và ruồi muỗi. Nhưng được đến đó là một đặc ân tuyệt diệu. Đó là kỷ niệm mà tôi luôn yêu dấu” (Mary Adams, khóa thứ hai, nói về nhiệm sở tại Cuba).

“Thời tiết là một trong các trở ngại lớn mà chúng tôi phải chịu đựng tại Alaska. Miền bắc thật là lạnh với nhiệt độ xuống tới -50°C và lạnh hơn nữa. Chúng tôi đến các làng mạc của người da đỏ và những nơi hẻo lánh tại vùng đông nam Alaska bằng tàu bè hoặc máy bay” (John Errichetti, khóa thứ ba).

“Đối với tôi được học trường Ga-la-át là lời mời của Đức Giê-hô-va qua tổ chức trên đất của Ngài để làm chúng tôi vững mạnh về thiêng liêng và cho chúng tôi biết một lối sống tuyệt diệu” (Mildred Barr, khóa thứ 11, đã phụng sự tại Ái Nhĩ Lan).

Sau đó có thêm những cuộc phỏng vấn thú vị với: Lucille Henschel (khóa thứ 14, đã phụng sự tại Venezuela), Margareta Klein (khóa thứ 20, đã phụng sự tại Bolivia), Lucille Coultrup (khóa thứ 24, đã phụng sự tại Peru), Lorraine Wallen (khóa thứ 27, đã phụng sự tại Ba Tây), William và Sandra Malenfant (khóa thứ 34, đã phụng sự tại Morocco), Gerrit Lösch (khóa thứ 41, đã phụng sự tại Áo), và David Splane (khóa thứ 42, đã phụng sự tại Senegal).

Còn về phần những anh giảng viên thì sao? Một số anh cũng được phỏng vấn như: Russell Kurzen, Karl Adams, Harold Jackson, Fred Rusk, Harry Peloyan, Jack Redford và Ulysses Glass. Họ nghĩ lại đặc ân của họ, cho biết đặc ân đó đã ảnh hưởng họ thế nào cho đến ngày nay.

Anh Lloyd Barry, trước phụng sự tại Nhật, cho thấy bằng chứng về sự hữu hiệu của các giáo sĩ do trường Ga-la-át đào tạo. Vào năm 1949, khi 15 giáo sĩ được phái đến đó, cả nước Nhật chỉ có dưới 10 người công bố. Nhưng 44 năm sau, có tới trên 175,000 người công bố về Nước Trời tại xứ đó! Sau đó, anh Robert Wallen nói về một số giáo sĩ đã được thành công xuất sắc trong việc giúp đỡ người khác vào lẽ thật, gồm có một chị giáo sĩ ở Panama hơn 45 năm và chị đã giúp 125 người đến độ dâng mình và làm báp têm.

Chương trình đạt đến cao điểm khi tất cả các người trong cử tọa đã tốt nghiệp trường Ga-la-át được mời lên sân khấu. Giây phút đó thật là cảm động. Một hàng dài gồm các anh chị em—89 người thuộc gia đình Bê-tên cộng với các người đã tốt nghiệp đến dự—bước ra lối đi giữa các hàng ghế và lên các nấc thang để ra sân khấu. Cùng lên với họ có những anh đã làm giảng viên trong bao năm qua, rồi đến học viên khóa thứ 94—tất cả khoảng 160 người!

Anh Jaracz hỏi: “Công việc đào tạo giáo sĩ để gởi đi nước ngoài của trường Ga-la-át có thành công không? Bằng chứng của 50 năm qua cho thấy rõ ràng là có!”

[Hình nơi trang 21]

Khóa 94 của trường Kinh-thánh Ga-la-át đã tốt nghiệp

Trong danh sách dưới đây, những hàng được đánh số từ trước ra sau, và tên được liệt kê từ trái sang phải của mỗi hàng.

1) De La Garza, C; Borg, E.; Arriaga, E.; Chooh, E.; Purves, D.; Fosberry, A.; Delgado, A.; Drescher, L. 2) Scott, V.; Fridlund, L.; Kettula, S.; Copeland, D.; Arriaga, J.; Thidé, J.; Olsson, E.; Widegren, S. 3) Delgado, F.; Keegan, S.; Leinonen, A.; Finnigan, E.; Fosberry, F.; Halbrook, J.; Berglund, A.; Jones, P. 4) Watson, B.; Frias, C.; Chooh, B.; Halbrook, J.; Purves, J; Finnigan, S.; Jones, A.; Cuccia, M. 5) Scott, G.; Copeland, D.; Drescher, B.; De La Garza, R.; Leinonen, I.; Keegan, D.; Watson, T.; Kettula, M. 6) Widegren, J.; Borg, S.; Cuccia, L.; Berglund, A.; Olsson, B.; Frias, J.; Fridlund, T.; Thidé, P.

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ