THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w96 1/1 trg 24-28
  • Đức Giê-hô-va đã không bao giờ bỏ rơi chúng tôi

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Đức Giê-hô-va đã không bao giờ bỏ rơi chúng tôi
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Biết lẽ thật Kinh-thánh
  • Rao giảng dù bị chống đối
  • Những nỗi gian nan trong Thế Chiến II
  • Bị thử thách về vấn đề trung lập
  • Trở về quê cũ của chúng tôi
  • Không còn nhận được sách báo gì nữa
  • Càng thêm khó khăn
  • Những thay đổi bất ngờ
  • Chỉ ủng hộ Nước Đức Chúa Trời mà thôi
  • Đức Giê-hô-va ban “sức lực vượt quá mức bình thường”
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2002
  • Họ tình nguyện đến—Albania và Kosovo
    Kinh nghiệm của Nhân Chứng Giê-hô-va
  • “Lối sống phạm pháp và lòng ham tiền đã gây cho tôi nhiều nỗi đau”
    Kinh Thánh thay đổi đời sống
  • Hơn 50 năm bước “qua”
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
w96 1/1 trg 24-28

Đức Giê-hô-va đã không bao giờ bỏ rơi chúng tôi

DO NASHO DORI KỂ LẠI

Mbreshtan là một làng thượng du nhỏ ở miền nam Albania, cách Hy Lạp không xa. Tôi chào đời trong làng đó vào năm 1907. Khi được 5 tuổi, tôi bắt đầu đi học trường Hy Lạp, nhưng tôi phải bỏ học nửa chừng khi quân lực Ý xâm lăng Albania trong Thế Chiến I. Khi chiến tranh chấm dứt, tôi đi học lại nhưng lần này thì bằng tiếng Albania.

DÙ cha mẹ tôi không sùng đạo cho lắm, họ giữ theo truyền thống của Giáo hội Chính thống Albania. Ông chú tôi làm linh mục tại Mbreshtan, nên tôi làm việc trong nhà thờ và chứng kiến tận mắt những gì xảy ra ở đó. Các nghi lễ tôn giáo dường như rỗng tuếch và đạo đức giả làm tôi khó chịu.

Theo tục lệ địa phương, cha mẹ tôi kiếm vợ cho tôi. Đó là một thiếu nữ thuộc làng Grabova ở gần đó và cô tên là Argjiro. Chúng tôi thành hôn vào năm 1928 lúc vợ tôi 18 tuổi.

Biết lẽ thật Kinh-thánh

Dạo đó tôi than phiền với một người anh em bà con về Giáo hội Chính thống. Là người ở Mỹ về thăm nhà, anh ấy trả lời: “Ở bên Mỹ, gần nhà anh có một nhóm người không thuộc nhà thờ nào, nhưng họ học Kinh-thánh”. Ý nghĩ cho rằng một người có thể học hỏi Kinh-thánh mà không theo giáo hội nào cả khiến tôi thích lắm. Bởi vậy tôi xin anh ấy gửi cho tôi vài ấn phẩm giải thích Kinh-thánh.

Tôi quên bẵng đi cuộc nói chuyện đó cho đến khoảng một năm sau khi tôi nhận được một bưu kiện từ Milwaukee, Wisconsin, gửi sang. Ở trong có cuốn The Harp of God bằng tiếng Albania và tạp chí Tháp Canh bằng tiếng Hy Lạp. Tôi đọc lướt qua cuốn sách và thấy nói về giáo hội chân chính. Điều này làm tôi khó chịu. Tôi tự nhủ thầm: ‘Mình không muốn dính líu tới giáo hội nào cả’. Vì vậy tôi không đọc hết cuốn sách.

Vào năm 1929, tôi đi lính và được phái đến thành phố Tiranë, thủ đô Albania. Tại đó tôi gặp Stathi Muçi, đang đọc Kinh-thánh tiếng Hy Lạp. Tôi hỏi: “Anh có đi nhà thờ không?” Anh ấy đáp: “Không. Tôi đã bỏ nhà thờ rồi. Tôi là một Học viên Kinh-thánh Quốc tế”. Tôi cùng với một người lính khác đi họp với anh Stathi vào ngày Chủ nhật. Tại đó tôi được biết là giáo hội chân chính không phải là một tòa nhà hay là một tôn giáo, nhưng được cấu thành bởi các tôi tớ được xức dầu của đấng Christ. Bây giờ tôi mới hiểu sách The Harp of God nói gì.

Nasho Idrizi và Spiro Vruho từ Mỹ trở về Albania vào giữa thập niên 1920 và phổ biến lẽ thật của Kinh-thánh mà họ học được bên Mỹ. Tôi bắt đầu đi họp ở Tiranë cùng với nhóm Học viên Kinh-thánh ít ỏi đó. Chẳng bao lâu tôi thấy rõ là tôi đã tìm được tổ chức của Đức Giê-hô-va. Vì vậy tôi làm báp têm vào ngày 4-8-1930 ở một con sông gần đó.

Sau đó tôi trở về Mbreshtan để làm nghề đóng giày. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tôi cũng bắt đầu chia sẻ lẽ thật của Kinh-thánh mà tôi đã học được với người khác. Tôi nói với họ: “Giê-su Christ không giống hình tượng trong nhà thờ đâu. Ngài đang sống!”

Rao giảng dù bị chống đối

Ahmed Bey Zogu lên nắm quyền năm 1925, tự tôn làm Vua Zog I vào năm 1928, và cai trị cho đến năm 1939. Viên Bộ trưởng bộ nhân quyền của ông cho phép chúng tôi hoạt động với tư cách tín đồ đấng Christ. Tuy nhiên, chúng tôi gặp rắc rối. Đó là vì Musa Juka, tổng trưởng bộ nội vụ, là vây cánh của giáo hoàng tại Rô-ma. Ông Juka ra lệnh thừa nhận chỉ ba tôn giáo—Hồi giáo, Chính thống giáo và Công giáo La Mã. Cảnh sát tìm cách tịch thâu sách báo của chúng tôi và cấm rao giảng, nhưng họ vẫn không ngăn cản chúng tôi được.

Trong thập niên 1930 tôi thường đi thăm viếng Berat, một thành phố lớn tại Albania. Ở đó có Mihal Sveci đang hướng dẫn công việc rao giảng. Chúng tôi sắp đặt những chuyến rao giảng khắp nước. Có lần tôi được phái đi đến thị trấn Shkodër trong vòng hai tuần và tôi đã phát được nhiều sách báo. Năm 1935 một nhóm chúng tôi mướn một xe buýt để rao giảng tại thị trấn Këlcyrë. Rồi chúng tôi sắp xếp một chuyến rao giảng lớn hơn tại Albania cho các thị trấn Përmet, Leskovik, Ersekë, Korçë, Pogradec và Elbasan. Chúng tôi xong chuyến rao giảng tại Tiranë vừa đúng lúc để cử hành Lễ Kỷ niệm sự chết của đấng Christ.

Chúng tôi được vững mạnh về thiêng liêng nhờ có thức ăn thiêng liêng đầy đủ, vậy chúng tôi không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi. Từ năm 1930 đến năm 1939, tôi đều đặn nhận được Tháp Canh bằng tiếng Hy Lạp. Tôi cũng có mục tiêu là đọc Kinh-thánh ít nhất mỗi ngày một giờ, và đã quen làm vậy được chừng 60 năm trước khi mắt tôi không còn thấy rõ nữa. Chỉ gần đây mới có cả cuốn Kinh-thánh bằng tiếng Albania, bởi vậy tôi mừng là đã học tiếng Hy Lạp từ hồi còn nhỏ. Các Nhân-chứng khác dạo ấy cũng đã học tiếng Hy Lạp để có thể đọc nguyên cuốn Kinh-thánh.

Năm 1938, Argjiro làm báp têm. Đến năm 1939 chúng tôi sanh được bảy con; tổng cộng chúng tôi có 10 đứa. Buồn thay, ba đứa trong số bảy đứa đầu chết yểu.

Những nỗi gian nan trong Thế Chiến II

Tháng 4 năm 1939, chỉ ít lâu trước khi Thế Chiến II bùng nổ, quân đội Phát-xít Ý tấn công Albania. Chẳng bao lâu sau công việc của Nhân-chứng Giê-hô-va bị cấm, nhưng nhóm nhỏ chúng tôi gồm độ 50 người công bố về Nước Trời cứ tiếp tục rao giảng. Khoảng 15.000 sách lớn và sách nhỏ của chúng tôi bị tịch thâu và tiêu hủy trong Thế Chiến II.

Jani Komino lúc đó có một kho lớn trữ sách báo thông với nhà anh ấy. Khi quân đội Ý biết được là sách in tại Hoa Kỳ thì họ giận lắm. Họ nói: “Mấy ông là người tuyên truyền. Hoa Kỳ là quân địch của Ý!” Các anh trẻ sốt sắng là Thomai và Vasili Cama bị bắt giam, và khi người ta biết được rằng sách mà họ phân phát đến từ anh Komino, anh này cũng bị bắt nốt. Ít lâu sau tôi bị cảnh sát mời đến gặp họ để thẩm vấn.

Họ hỏi: “Ông biết mấy người này không?”

Tôi nói: “Tôi biết họ”.

“Ông có hoạt động với họ không?”

Tôi đáp: “Có. Chúng tôi là Nhân-chứng Giê-hô-va. Chúng tôi không có chống lại chính phủ. Chúng tôi trung lập”.

“Ông có phân phát sách báo này không?”

Khi tôi nói có, họ còng tay tôi lại, và tôi bị bỏ tù vào ngày 6-7-1940. Trong tù tôi bị nhốt chung với năm người khác cùng làng—Josef Kaci, Llukan Barko, Jani Komino và các anh em Cama. Trong tù chúng tôi gặp ba Nhân-chứng khác—Gori Naçi, Nikodhim Shyti và Leonidas Pope. Tất cả chín người chúng tôi đều bị nhốt chật ních trong một xà lim rộng 1,8 m, dài 3,7 m!

Vài ngày sau, chúng tôi bị xiềng chung nhau và bị điệu đến thành phố Përmet. Ba tháng sau chúng tôi bị giải đến trại giam tại Tiranë và bị giam thêm 8 tháng nữa mà không được xử.

Cuối cùng, chúng tôi bị đưa ra tòa án quân sự. Tôi và anh Shyti bị kết án 27 tháng tù. Anh Komino bị 24 tháng và 10 tháng sau thì những người kia được thả ra. Chúng tôi bị giải đi trại giam Gjirokastër. Ở đó anh Gole Flloko vận động cho chúng tôi được thả ra năm 1943. Sau đó gia đình tôi dọn về thành phố Përmet, nơi mà tôi được làm giám thị của một hội thánh nhỏ.

Mặc dù công việc của chúng tôi bị cấm và Thế Chiến II diễn ra khốc liệt tại các nước láng giềng, chúng tôi tiếp tục làm hết sức mình để chu toàn sứ mạng rao giảng thông điệp về Nước Trời (Ma-thi-ơ 24:14). Năm 1944 có tổng cộng 15 Nhân-chứng bị bỏ tù. Tuy vậy, trong những lúc khó khăn này, chúng tôi không bao giờ cảm thấy bị Đức Giê-hô-va bỏ rơi.

Bị thử thách về vấn đề trung lập

Mặc dù chiến tranh chấm dứt vào năm 1945, chúng tôi vẫn tiếp tục gặp khó khăn và thậm chí còn nhiều hơn trước. Trong cuộc bầu cử ngày 2-12-1946, chính phủ cưỡng bách mọi người đi bỏ phiếu. Ai mà cả gan không chịu đi bỏ phiếu thì bị xem là kẻ thù của Chính phủ. Những người trong hội thánh của chúng tôi tại Përmet bắt đầu hỏi: “Chúng ta phải làm gì đây?”

Tôi đáp: “Nếu anh chị tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, thì không cần phải hỏi tôi để biết mình phải làm gì. Anh chị đã biết là dân của Đức Giê-hô-va đứng trung lập. Họ không thuộc về thế gian” (Giăng 17:16).

Ngày bầu cử đến. Đại biểu của chính phủ đến nhà chúng tôi. Họ bắt đầu một cách thản nhiên: “Thôi chúng ta hãy uống một ít cà phê rồi cùng nhau nói chuyện. Ông biết hôm nay là ngày gì không?”

Tôi đáp: “Tôi biết, hôm nay có bầu cử”.

Một quan chức nói: “Ông nên đi lẹ lên, kẻo trễ đấy”.

Tôi đáp: “Không, tôi không có tính đi. Chúng tôi đã bỏ phiếu cho Đức Giê-hô-va rồi”.

“Được rồi, vậy hãy đến bầu cho phe đối lập”.

Tôi giải thích là Nhân-chứng Giê-hô-va tuyệt đối giữ trung lập. Khi càng nhiều người biết đến lập trường của chúng tôi, họ càng làm áp lực mạnh hơn nữa. Chính quyền ra lệnh chúng tôi phải ngưng hội họp, vì vậy chúng tôi bắt đầu họp lén lút.

Trở về quê cũ của chúng tôi

Năm 1947 tôi và gia đình tôi trở về Mbreshtan. Ít lâu sau, vào một buổi chiều tháng 12 rét buốt, tôi bị kêu lên văn phòng cảnh sát mật vụ Sigurimi. Viên công an hỏi tôi: “Ông có biết tại sao tôi gọi ông lên trình diện không?”

Tôi đáp: “Tôi nghĩ là vì ông đã nghe người nào tố cáo tôi. Nhưng Kinh-thánh nói rằng thế gian sẽ ghét chúng tôi, vì thế tôi không lấy làm ngạc nhiên về những lời tố cáo” (Giăng 15:18, 19).

Ông ấy gắt lên: “Thôi đừng lôi Kinh-thánh ra nói với ta. Ta sẽ đập bể đầu mi đấy”.

Viên công an và thuộc hạ của ông bỏ đi, nhưng bắt tôi đứng ở ngoài trời lạnh lẽo. Một lúc sau ông ấy kêu tôi vào văn phòng trở lại và ra lệnh cho tôi ngưng hội họp trong nhà. Ông ấy hỏi: “Làng mi có bao nhiêu dân?”

Tôi nói: “Một trăm hai mươi”.

“Họ đạo gì?”

“Chính thống giáo Albania”.

“Còn mi?”

“Tôi là Nhân-chứng Giê-hô-va”.

“Một trăm hai mươi người đi một đàng còn mi thì đi đàng khác à?” Đoạn ông ra lệnh cho tôi thắp nến trong nhà thờ. Khi tôi nói tôi sẽ không làm việc đó, ông ấy bắt đầu lấy roi đánh tôi. Cuối cùng, mãi cho tới khoảng một giờ khuya tôi mới được thả ra.

Không còn nhận được sách báo gì nữa

Sau khi Thế Chiến II kết thúc, chúng tôi bắt đầu nhận được Tháp Canh một lần nữa qua đường bưu điện, nhưng cuối cùng tạp chí không được phát đến nhà nữa. Rồi, một hôm nọ lúc 10 giờ tối, tôi bị gọi lên bót cảnh sát. Người ta bảo tôi: “Một tạp chí tiếng Hy Lạp đến đây, và chúng tôi muốn biết tạp chí này nói gì”.

Tôi nói: “Tôi không rành tiếng Hy Lạp. Người hàng xóm của tôi biết rõ hơn tôi. Có lẽ ông ấy có thể giúp ông”.

Một viên cảnh sát đưa ra vài tạp chí Tháp Canh bằng tiếng Hy Lạp và nói: “Không, chúng tôi muốn ông giải thích cái này đây”.

Tôi thốt lên: “Ồ, mấy cái này là của tôi. Dĩ nhiên, tôi có thể giải thích cho ông. Ông thấy không, mấy báo này ở Brooklyn, Nữu Ước, gửi qua. Bên đó có trụ sở trung ương của Nhân-chứng Giê-hô-va. Tôi là Nhân-chứng Giê-hô-va. Nhưng hình như họ gửi nhầm địa chỉ. Đáng lý các tờ báo này phải đến tay tôi, nay lại đến tay các ông”.

Họ không chịu giao các tạp chí cho tôi, và kể từ lúc đó cho đến năm 1991, hơn 40 năm sau, chúng tôi đã không nhận được bất cứ sách báo nào về Kinh-thánh tại Albania cả. Trong suốt khoảng thời gian đó, chúng tôi vẫn tiếp tục rao giảng, chỉ dùng Kinh-thánh mà thôi. Năm 1949 có độ 20 Nhân-chứng bị ở tù; một số người bị án 5 năm tù.

Càng thêm khó khăn

Trong thập niên 1950, dân chúng bị bắt buộc phải có giấy tờ chứng nhận họ ủng hộ quân đội. Nhưng Nhân-chứng Giê-hô-va từ chối giấy tờ đó. Vì thế, tôi và anh Komino phải vào tù thêm hai tháng nữa.

Trong thời gian Nhà nước cho phép một số tôn giáo nào đó tồn tại, chúng tôi được tự do phần nào. Tuy nhiên, năm 1967 tất cả các tôn giáo đều bị cấm cả, biến Albania thành một nước chính thức theo chế độ vô thần hoàn toàn. Các Nhân-chứng cố tiếp tục nhóm họp, nhưng rất là khó khăn. Vài người chúng tôi may một cái túi đặc biệt trong lớp vải lót áo ngoài để có thể giấu một cuốn Kinh-thánh nhỏ trong đó. Rồi chúng tôi đi ra ngoài đồng để đọc Kinh-thánh.

Nhân-chứng tại Tiranë bị bắt gặp đọc Kinh-thánh và ba người bị xử án 5 năm tù khổ sai ở những địa phương hẻo lánh. Vì vậy mà gia đình họ điêu đứng. Những người nào trong chúng tôi mà sống trong những làng nhỏ xa xôi hẻo lánh thì không bị đày đi chỗ khác vì không bị coi là mối đe dọa trầm trọng. Nhưng vì vị thế trung lập nên chúng tôi bị xóa tên khỏi danh sách những người được nhận thực phẩm. Bởi vậy, đời sống rất khó khăn. Ngoài ra, hai đứa con khác của chúng tôi chết. Tuy vậy, chúng tôi không bao giờ cảm thấy bị Đức Giê-hô-va bỏ rơi.

Sự sợ hãi bao trùm khắp nước Albania. Ai nấy đều bị theo dõi và cảnh sát mật vụ làm báo cáo về bất cứ người nào dám cả gan phát biểu ý kiến khác với quan niệm của đảng đang nắm quyền. Bởi vậy chúng tôi rất cẩn thận khi viết báo cáo về hoạt động rao giảng. Chúng tôi chỉ có thể gặp gỡ để khuyến khích lẫn nhau về thiêng liêng nếu trong mỗi nhóm có hai hoặc ba người mà thôi. Thế nhưng, chúng tôi không bao giờ ngừng rao giảng.

Để cố tình gây hoang mang trong hàng ngũ anh em, cảnh sát mật vụ phao tin đồn là một Nhân-chứng có uy tín ở Tiranë là một tên gián điệp. Điều này làm mất lòng tin cậy và làm xáo trộn sự hợp nhất của chúng tôi đôi chút. Vì không có sách báo hiện hành giải thích Kinh-thánh và cũng không có liên lạc với tổ chức hữu hình của Đức Giê-hô-va, một ít người đâm ra sợ sệt.

Ngoài ra, nhà cầm quyền còn phao tin đồn là Spiro Vruho, một trưởng lão tín đồ đấng Christ rất được kính nể tại Albania, đã tự tử. Họ nói: “Mấy ông thấy không, ngay cả Vruho còn đầu hàng kìa”. Sau đó người ta biết rõ là anh Vruho thật ra đã bị ám sát chết.

Năm 1975, tôi và Argjiro sống với con trai chúng tôi ít tháng tại Tiranë. Trong mùa bầu cử, nhà chức trách sở tại gây áp lực cho chúng tôi bằng cách hăm dọa: “Nếu ông không đi bỏ phiếu, chúng tôi sẽ làm con ông bị mất việc”.

Tôi trả lời: “Con tôi làm việc này được 25 năm nay rồi. Mấy ông có hồ sơ với đầy đủ chi tiết về nó và gia đình nó. Hơn bốn chục năm nay tôi đâu có bỏ phiếu. Điều này thường được ghi trong hồ sơ. Nếu không có ghi thì hồ sơ của các ông không được đầy đủ. Nếu có ghi thì các ông không trung thành với đảng vì đã để cho con tôi làm việc bao nhiêu năm nay”. Khi nghe nói vậy, nhà chức trách nói rằng nếu chúng tôi trở về Mbreshtan thì họ sẽ bỏ qua vấn đề này.

Những thay đổi bất ngờ

Năm 1983 chúng tôi dọn nhà từ Mbreshtan đến thành phố Laç. Ít lâu sau đó, vào năm 1985, nhà độc tài qua đời. Ông đã nắm quyền kể từ khi có cuộc cưỡng bách tuyển cử đầu tiên năm 1946. Cuối cùng, bức tượng của ông nổi bật ở công trường chính tại Tiranë đã bị hạ xuống.

Trong suốt các thập niên hoạt động của chúng tôi bị cấm, nhiều Nhân-chứng đã bị đối xử tàn nhẫn, và vài người bị giết. Một người đàn ông nọ nói với vài Nhân-chứng ở ngoài đường: “Hồi thời Cộng sản nắm quyền tất cả chúng tôi đều đã bỏ Đức Chúa Trời. Chỉ có Nhân-chứng Giê-hô-va mới trung thành với ngài dù bị thử thách và khổ sở”.

Khi chúng tôi có nhiều tự do hơn, có chín người làm báo cáo rao giảng năm 1991. Vào tháng 6 năm 1992, một tháng sau khi lệnh cấm được bãi bỏ, 56 người tham gia công việc rao giảng. Đầu năm đó chúng tôi quá đỗi vui mừng khi thấy có 325 người đến dự Lễ Kỷ niệm sự chết của đấng Christ. Kể từ lúc đó, số người rao giảng gia tăng lên đến hơn 600 người và có tổng cộng 3.491 người đến dự Lễ Kỷ niệm vào ngày 14-4-1995! Trong những năm gần đây, tôi vui mừng khôn xiết khi thấy nhiều người trẻ gia nhập hội thánh chúng tôi.

Argjiro đã trung thành với Đức Giê-hô-va và chung thủy với tôi trong nhiều năm. Khi tôi ở tù hoặc đi xa để rao giảng, vợ tôi đã nhẫn nại chăm sóc gia đình mà không than phiền. Một đứa con trai và con dâu của chúng tôi đã làm báp têm năm 1993, làm chúng tôi thật vui mừng.

Chỉ ủng hộ Nước Đức Chúa Trời mà thôi

Tôi thích thú khi thấy tổ chức Đức Giê-hô-va tại Albania rất hợp nhất và được thịnh vượng về thiêng liêng. Tôi cảm thấy giống như cụ già Si-mê-ôn tại Giê-ru-sa-lem. Trước khi chết, ông được ân phước quí báu là nhìn thấy đấng Mê-si mà người ta mong đợi từ lâu (Lu-ca 2:30, 31). Bây giờ, khi có ai hỏi tôi thích chính thể nào hơn hết, tôi trả lời: “Tôi không thích chế độ Cộng sản, cũng không thích Tư bản. Dù dân hay là chính phủ làm điền chủ cũng không thành vấn đề. Chính phủ xây đường xá, dẫn điện lực về làng mạc xa xôi và giữ gìn an ninh trật tự một phần nào. Tuy nhiên, chính phủ của Đức Giê-hô-va, tức Nước của ngài ở trên trời, mới là giải pháp duy nhất cho các vấn đề khó khăn mà xứ Albania cũng như những nước khác trên thế giới gặp phải”.

Những gì tôi tớ Đức Chúa Trời đang thực hiện trên khắp đất trong khi rao giảng về Nước Đức Chúa Trời không phải là công việc của bất cứ một người nào. Đây là công việc của Đức Chúa Trời. Chúng ta là tôi tớ ngài. Dù chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn tại Albania và qua nhiều năm không có sự liên lạc với tổ chức hữu hình của Đức Giê-hô-va, ngài đã không bao giờ bỏ rơi chúng tôi. Chúng tôi luôn luôn có thánh linh ngài. Ngài hướng dẫn chúng tôi từng bước một. Suốt đời tôi, tôi đã thấy điều đó.

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ