THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w96 1/8 trg 21-25
  • Hết lòng nhìn chăm chú vào giải thưởng

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Hết lòng nhìn chăm chú vào giải thưởng
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Thánh chức trọn thời gian
  • Lên đường tới nhiệm sở
  • Nhiệm sở mới
  • Trở về Hoa Kỳ
  • Học Trường Ga-la-át thêm một lần nữa
  • Được chỉ định đi Ác Hen Ti Na
  • Lại trở về Hoa Kỳ
  • Trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời—Một đời sống an toàn và hạnh phúc
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2003
  • Quyết tâm tiếp tục phụng sự Đấng Tạo Hóa
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2005
  • Cha mẹ dạy chúng tôi yêu thương Đức Chúa Trời
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1999
  • Noi theo dấu chân của cha mẹ
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
w96 1/8 trg 21-25

Hết lòng nhìn chăm chú vào giải thưởng

DO EDITH MICHAEL KỂ LẠI

Vào đầu thập niên 1930, khi gia đình chúng tôi sống ở ngoại ô thành phố St. Louis, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ, thì có một Nhân-chứng Giê-hô-va đến nhà chúng tôi. Ngay lúc đó, dây phơi đồ bị đứt và hết thảy quần áo trắng tinh của mẹ đều rơi xuống bùn. Muốn cho bà Nhân-chứng sớm ra về, mẹ nhận mấy sách của bà và cất lên kệ, rồi quên bẳng đi.

ĐÓ LÀ những năm kinh tế bị kiệt quệ, và cha bị mất việc. Một ngày nọ cha hỏi trong nhà có sách gì đọc không. Mẹ cho cha biết về mấy cuốn sách kia. Cha lấy ra đọc, và sau một thời gian, cha hô to: “Mình à, đây là lẽ thật đấy!”

Mẹ đáp: “Ôi, đạo đó cũng chỉ muốn lấy tiền người ta, có khác gì mấy đạo kia đâu”. Tuy nhiên, cha giục mẹ ngồi xuống và cùng nhau tra cứu các câu Kinh-thánh. Khi làm thế, mẹ cũng bắt đầu tin. Sau đó, cha mẹ đi tìm các Nhân-chứng và biết được là họ mướn một phòng ở gần trung tâm St. Louis để nhóm họp; phòng này cũng được dùng để tổ chức những buổi khiêu vũ và những buổi lễ khác.

Cha mẹ dẫn tôi đi theo—lúc đó tôi cỡ ba tuổi—và chúng tôi tìm được phòng này, nhưng lúc đó đang có một buổi khiêu vũ. Cha hỏi thăm giờ nào có nhóm họp và chúng tôi đã trở lại. Chúng tôi cũng bắt đầu đi dự buổi học Kinh-thánh hàng tuần gần nơi chúng tôi ở. Buổi học được tổ chức tại nhà của bà Nhân-chứng đã thăm viếng chúng tôi hồi lúc đầu. Bà hỏi: “Tại sao ông bà không cho các con trai cùng đi theo luôn?” Mẹ ngượng, không muốn nói đó là vì các con không có giày mang. Cuối cùng mẹ đã nói ra, và các Nhân-chứng tặng chúng tôi mấy đôi giày, và các anh em của tôi bắt đầu cùng chúng tôi đi dự các buổi họp.

Mẹ được giao cho một khu vực gần nhà để đi rao giảng, và mẹ bắt đầu làm thánh chức từ nhà này sang nhà kia. Tôi cũng đi theo, núp đằng sau mẹ. Trước khi mẹ biết lái xe, chúng tôi thường đi bộ hơn một cây số để đón xe buýt đi đến các buổi họp ở St. Louis. Dù trời mưa tuyết, chúng tôi không bao giờ bỏ các buổi họp.

Năm 1934, cha mẹ tôi làm báp têm. Tôi cũng muốn làm báp têm nữa, và tôi cứ đòi như thế cho đến khi mẹ nhờ một anh Nhân-chứng lớn tuổi đến nói chuyện với tôi. Anh hỏi tôi nhiều câu hỏi theo cách mà tôi có thể hiểu được. Rồi anh nói lại với cha mẹ là không nên cản tôi làm báp têm; làm thế có thể có hại cho sự phát triển về thiêng liêng của tôi. Thế là tôi làm báp têm mùa hè sau đó, khi tôi được sáu tuổi.

Tôi quí mến sách mỏng Home and Happiness, và đi đâu tôi cũng mang nó theo, ngay cả khi ngủ tôi cũng để nó dưới gối. Nhiều lần tôi nài mẹ đọc cho tôi nghe đến khi tôi thuộc làu nguyên sách mỏng đó. Bìa sau của sách có hình một cô bé trong Địa đàng với con sư tử. Tôi tự cho mình là cô bé đó. Hình đó đã giúp tôi chăm chú nhìn vào giải thưởng là được sống trong thế giới mới của Đức Chúa Trời.

Tôi rất nhút nhát, nhưng ngay dù run rẩy, tôi vẫn luôn luôn trả lời tại Buổi học Tháp Canh của hội thánh.

Buồn thay, vì sợ mất việc làm, nên cha ngưng kết hợp với các Nhân-chứng. Các anh em tôi cũng vậy.

Thánh chức trọn thời gian

Mẹ cho các anh chị tiên phong, hoặc những người đi truyền giáo trọn thời gian, đậu xe kéo của họ ở sân sau nhà, và khi đi học về tôi đi rao giảng chung với họ. Ít lâu sau, tôi muốn làm công việc tiên phong, nhưng cha phản đối, nghĩ rằng tôi nên học thêm nữa. Cuối cùng, mẹ thuyết phục cha cho tôi làm tiên phong. Thế là vào tháng 6-1943, khi tôi 14 tuổi, tôi bắt đầu làm thánh chức trọn thời gian. Để giúp trang trải các chi phí gia đình, tôi làm việc bán thời gian, và có khi cũng làm việc trọn thời gian. Tuy vậy, tôi đạt được mục tiêu mỗi tháng là rao giảng 150 giờ.

Sau này, tôi tìm được một chị cùng tôi làm tiên phong, chị Dorothy Craden. Chị bắt đầu làm tiên phong vào tháng 1-1943, khi lên 17 tuổi. Chị từng là người Công giáo mộ đạo, nhưng sau khi học Kinh-thánh được sáu tháng, chị làm báp têm. Trong nhiều năm, chúng tôi khuyến khích nhau và làm vững lòng nhau. Chúng tôi thân nhau còn hơn là chị em ruột nữa.

Bắt đầu năm 1945, chúng tôi cùng nhau làm công việc tiên phong tại những thị trấn nhỏ ở Missouri, nơi không có hội thánh. Ở thị trấn Bowling Green, chúng tôi sửa sang một phòng họp; mẹ tới giúp chúng tôi. Rồi mỗi tuần chúng tôi đi thăm từng nhà ở thị trấn đó và mời người ta đến nghe bài diễn văn công cộng do các anh từ St. Louis được mời đến để nói bài giảng. Mỗi tuần có khoảng 40 đến 50 người đến dự. Sau này, chúng tôi cũng làm y như vậy ở tiểu bang Louisiana, nơi đó chúng tôi mướn một đền thờ của Hội Tam điểm. Để có tiền mướn các phòng họp, chúng tôi bày ra vài hộp đóng góp, và mỗi tuần có đủ để trang trải mọi chi phí.

Sau đó, chúng tôi đến thành phố Mexico, Missouri, nơi chúng tôi mướn một phòng ở đằng sau cửa tiệm. Chúng tôi sửa sang phòng này lại để cho hội thánh nhỏ ở đây dùng. Chúng tôi thì ở trong mấy phòng tiếp giáp nhau cùng trong tòa nhà đó. Chúng tôi cũng giúp sắp xếp cho các anh đến Mexico để cho bài giảng. Kế tiếp, chúng tôi đi đến thủ đô, Jefferson City, nơi mà mỗi sáng trong tuần chúng tôi viếng thăm các công chức tại văn phòng của họ. Chúng tôi ở trong căn phòng tầng trên của Phòng Nước Trời chung với chị Stella Willie, chị đối đãi với chúng tôi như mẹ con vậy.

Sau đó, ba người chúng tôi đi đến Festus và Crystal City, hai thành phố kế cận nhau. Chúng tôi sống trong căn phòng mà trước kia là một chuồng gà, ở sau nhà của một gia đình chú ý đến Kinh-thánh. Vì chưa có anh nào đã làm báp têm, nên chúng tôi điều khiển tất cả các buổi họp. Để có việc làm bán thời gian, chúng tôi đi bán mỹ phẩm. Nói về vật chất, thì chúng tôi chỉ có ít thôi. Thật ra, chúng tôi không có tiền để sửa đôi giày bị thủng, nên mỗi sáng chúng tôi lấy một miếng các tông mới đút vào, và buổi tối thì mỗi người chúng tôi phải giặt cái áo đầm duy nhất của mình.

Đầu năm 1948, khi tôi 19 tuổi, tôi và Dorothy được mời dự khóa 12 của Trường Kinh-thánh Ga-la-át của Hội Tháp Canh nhằm đào tạo giáo sĩ. Sau khóa học dài năm tháng, một trăm học viên đều tốt nghiệp vào ngày 6-2-1949. Dịp ấy thật vui mừng làm sao. Trước đó, cha mẹ tôi đã dọn sang tiểu bang California, tuy đường xa mẹ vẫn đến để có mặt.

Lên đường tới nhiệm sở

Hai mươi tám anh chị tốt nghiệp được chỉ định đi xứ Italy—sáu người, gồm cả tôi và Dorothy, được gửi đến thành phố Milan. Vào ngày 4-3-1949, chúng tôi rời New York trên chiếc tàu có tên Vulcania của Italy. Chuyến đi mất 11 ngày, và vì biển động nên phần đông chúng tôi bị say sóng. Anh Benanti ra hải cảng Genoa đón chúng tôi và đưa chúng tôi về Milan bằng xe lửa.

Khi đến nhà giáo sĩ ở Milan, chúng tôi thấy có hoa trong mỗi phòng của một cô bé người Italy đã tặng chúng tôi. Nhiều năm sau, cô gái này, Maria Merafina đi học trường Ga-la-át, rồi trở về Italy và ở chung với tôi trong một nhà giáo sĩ!

Buổi sáng sau khi đến Milan, chúng tôi nhìn ra cửa sổ phòng tắm. Ở trên con đường phía sau có một chung cư lớn bị đổ nát vì bom. Một oanh tạc cơ của Mỹ thả nhầm một trái bom giết hết tất cả 80 gia đình sống ở chung cư đó. Có một lần nọ, máy bay oanh tạc nhắm vào nhà máy, nhưng quả bom lại trúng một trường học và giết chết 500 trẻ em. Vì thế, người dân ở đây không thích người Mỹ cho lắm.

Người ta đã chán ghét chiến tranh rồi. Nhiều người nói rằng nếu có một cuộc chiến tranh khác bắt đầu, họ sẽ không núp vào hầm trú ẩn nữa, nhưng thà ở nhà, mở hơi ga rồi chết tại chỗ. Chúng tôi trấn an họ là chúng tôi không đại diện cho Mỹ hay bất cứ chính phủ nào do loài người lập nên, nhưng đại diện cho Nước Đức Chúa Trời, là chính phủ sẽ chấm dứt mọi chiến tranh cùng với mọi đau khổ do chiến tranh gây ra.

Trong thành phố Milan rộng lớn, hội thánh duy nhất gồm khoảng 20 người nhóm họp tại nhà giáo sĩ. Lúc ấy khu vực rao giảng chưa được sắp xếp, nên chúng tôi bắt đầu làm chứng trong một chung cư lớn. Tại căn nhà đầu, chúng tôi gặp ông Giandinotti, là người muốn vợ mình ngưng đi nhà thờ, nên ông nhận sách báo của chúng tôi. Bà Giandinotti là người thành thật và có nhiều câu hỏi. Bà nói: “Khi các chị biết được tiếng Italy thì tôi sẽ rất mừng, vì khi ấy các chị có thể dạy tôi Kinh-thánh”.

Nhà của họ có trần cao và đèn lại không được sáng lắm, nên buổi tối bà thường đặt ghế trên bàn để gần ánh sáng mà ngồi đọc Kinh-thánh. Bà hỏi: “Nếu tôi học Kinh-thánh với các chị thì tôi vẫn có thể đi nhà thờ không?” Chúng tôi nói chính bà nên quyết định điều đó. Thế là bà vẫn đi nhà thờ sáng Chủ nhật, còn buổi chiều thì đi dự buổi họp với chúng tôi. Thế rồi một ngày kia bà nói: “Thôi, tôi sẽ không đi nhà thờ nữa”.

Chúng tôi hỏi bà “tại sao?”

“Vì họ không dạy Kinh-thánh, và nhờ học hỏi Kinh-thánh với các chị mà tôi tìm được lẽ thật”. Bà này làm báp têm và giúp nhiều bà hay đi nhà thờ mỗi ngày học hỏi Kinh-thánh. Sau này chị ấy nói lại với chúng tôi rằng nếu như chúng tôi bảo chị phải ngưng đi nhà thờ, thì chắc chị đã bỏ học và có lẽ không bao giờ biết được lẽ thật.

Nhiệm sở mới

Sau này, tôi và Dorothy, cùng với bốn anh chị giáo sĩ khác, được chỉ định đi đến thành phố Trieste cũng ở nước Italy, lúc ấy có lực lượng Anh và Mỹ đóng quân tại đó. Ở đây chỉ có khoảng mười Nhân-chứng, nhưng con số này đã gia tăng. Chúng tôi rao giảng ở vùng Trieste trong vòng ba năm, và khi rời thành phố đó thì có 40 người công bố Nước Trời, trong số đó có 10 người làm tiên phong.

Nhiệm sở kế của chúng tôi là thành phố Verona, nơi không có hội thánh nào. Nhưng khi giáo hội gây áp lực với các nhà cầm quyền, chúng tôi buộc phải rời nơi đó. Tôi và Dorothy được chỉ định đến thành phố Rome. Nơi đó chúng tôi mướn một căn phòng có bàn ghế sẵn, và chúng tôi rao giảng trong khu gần tòa Vatican. Trong thời gian chúng tôi sống ở đó thì Dorothy đi sang xứ Lebanon để cùng anh John Chimiklis kết hôn. Hai chị em chúng tôi đã ở bên nhau gần suốt 12 năm nên tôi nhớ chị nhiều.

Vào năm 1955, Hội mở thêm một nhà giáo sĩ trên con đường New Appian Way ở một khu khác của thành phố Rome. Một trong bốn giáo sĩ ở trong nhà đó là chị Maria Merafina, là cô gái trước kia đã để hoa trong phòng cho chúng tôi vào đêm chúng tôi tới Milan. Một hội thánh mới được thành lập trong khu này của thành phố. Sau kỳ hội nghị quốc tế ở Rome vào mùa hè đó, tôi có đặc ân đi dự hội nghị địa hạt ở Nuremberg, Đức. Thật xúc động làm sao khi được gặp những anh chị đã bền bỉ chịu đựng quá nhiều dưới chế độ của Hitler!

Trở về Hoa Kỳ

Vào năm 1956, vì có vấn đề sức khỏe, nên tôi đã phải tạm nghỉ và trở về Hoa Kỳ. Nhưng tôi vẫn luôn luôn nhìn chăm chú vào giải thưởng là được phụng sự Đức Giê-hô-va ngay bây giờ và cho đến mãi mãi trong thế giới mới của ngài. Tôi dự định là sẽ trở lại nước Italy. Tuy nhiên, tôi gặp anh Orville Michael. Anh phục vụ tại trụ sở trung ương của Nhân-chứng Giê-hô-va ở Brooklyn, New York. Chúng tôi lấy nhau sau kỳ hội nghị quốc tế năm 1958 ở New York City.

Ít lâu sau, chúng tôi dọn xuống Front Royal, tiểu bang Virginia, nơi chúng tôi vui mừng phục vụ với một hội thánh nhỏ. Chúng tôi ở trong một căn nhà nhỏ ở phía sau Phòng Nước Trời. Cuối cùng, vào tháng 3-1960, chúng tôi buộc phải trở lại Brooklyn tìm việc làm để trang trải mấy món nợ. Chúng tôi làm công việc quét dọn ở vài ngân hàng khác nhau vào buổi tối để có thể tiếp tục làm thánh chức trọn thời gian.

Trong lúc chúng tôi ở Brooklyn, cha tôi qua đời, và mẹ chồng tôi bị một cơn đột quỵ nhẹ. Thế là chúng tôi quyết định dọn đến tiểu bang Oregon để gần mẹ tôi và mẹ chồng của tôi. Cả hai chúng tôi tìm được việc làm bán thời gian và tiếp tục làm tiên phong tại đó. Vào mùa thu 1964, vợ chồng chúng tôi cùng với mẹ tôi và mẹ chồng tôi, lái xe xuyên lục địa Hoa Kỳ để dự buổi họp thường niên của Hội Tháp Canh ở Pittsburgh, Pennsylvania.

Trong thời gian chúng tôi viếng thăm tiểu bang Rhode Island, một anh giám thị vòng quanh, Arlen Meier, và vợ anh khuyến khích chúng tôi dọn đến thủ đô Providence, nơi cần nhiều người công bố Nước Trời hơn. Cả mẹ lẫn mẹ chồng tôi đều khuyên chúng tôi nhận nhiệm sở mới này, nên khi trở về Oregon, chúng tôi bán đi hầu hết đồ đạc trong nhà và dọn đi.

Học Trường Ga-la-át thêm một lần nữa

Vào mùa hè 1965, chúng tôi dự hội nghị địa hạt ở vận đồng trường Yankee Stadium. Tại đó, vợ chồng chúng ghi tên xin vào Trường Ga-la-át. Khoảng một tháng sau, chúng tôi ngạc nhiên khi nhận được mẫu đơn, và chúng tôi phải điền trong vòng 30 ngày. Tôi lo không biết có nên đi xa xứ hay không vì sức khỏe của mẹ không được tốt. Nhưng mẹ khuyến khích tôi: “Con hãy điền những đơn này đi. Con biết là con nên luôn luôn nhận bất cứ đặc ân phụng sự nào mà Đức Giê-hô-va ban cho con!”

Thế là xong chuyện. Chúng tôi điền đơn và gửi về Hội. Chúng tôi thật ngạc nhiên làm sao khi được mời dự khóa 42, bắt đầu ngày 25-4-1966! Lúc ấy Trường Ga-la-át đang đặt tại Brooklyn, New York. Chưa đầy năm tháng sau, 106 học viên chúng tôi tốt nghiệp vào ngày 11-9-1966.

Được chỉ định đi Ác Hen Ti Na

Sau lễ tốt nghiệp được hai ngày, chúng tôi lấy chuyến bay hàng không Peru đến Ác Hen Ti Na. Khi tới Buenos Aires, giám thị chi nhánh là anh Charles Eisenhower, ra phi trường đón chúng tôi. Anh giúp chúng tôi làm thủ tục hải quan và rồi đưa chúng tôi đến chi nhánh. Chúng tôi có một ngày để sắp xếp và ổn định; sau đó, chúng tôi bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha. Trong tháng đầu, chúng tôi dành 11 giờ mỗi ngày để học tiếng Tây Ban Nha. Tháng kế tiếp, chúng tôi dành bốn giờ mỗi ngày để học ngôn ngữ và bắt đầu đi rao giảng.

Chúng tôi ở Buenos Aires được năm tháng rồi được chỉ định đi Rosario, một thành phố lớn về phía bắc cách Buenos Aires khoảng bốn tiếng bằng xe lửa. Sau khi phục vụ ở đó được 15 tháng, chúng tôi lại được phái đi xa hơn về phía bắc là Santiago del Estero, một thành phố thuộc tỉnh bang nóng ở vùng sa mạc. Trong lúc chúng tôi ở đó, vào tháng 1-1973, mẹ tôi qua đời. Đã bốn năm trời tôi không được gặp mặt mẹ. Nhưng điều đã nâng đỡ tôi trong thời kỳ đau buồn đó là hy vọng vững chắc về sự sống lại, cũng như vì biết rằng mẹ tôi muốn tôi phục vụ nơi mà tôi đã được chỉ định (Giăng 5:28, 29; Công-vụ các Sứ-đồ 24:15).

Dân Santiago del Estero rất thân thiện, và nhiều người chịu học hỏi Kinh-thánh. Khi chúng tôi đến nơi vào năm 1968, có khoảng 20 hay 30 người dự các buổi họp, nhưng tám năm sau thì có hơn một trăm người trong hội thánh chúng tôi. Ngoài ra, trong những thị xã gần đó còn có hai hội thánh mới, mỗi hội thánh có từ 25 đến 50 người công bố.

Lại trở về Hoa Kỳ

Vì vấn đề sức khỏe, vào năm 1976 chúng tôi được chỉ định trở lại Hoa Kỳ để làm công việc tiên phong đặc biệt—ở Fayetteville, tiểu bang North Carolina. Nơi đó có nhiều người nói tiếng Tây Ban Nha đến từ Trung Mỹ và Nam Mỹ, Cộng hòa Đo-mi-ni-cân, Puerto Rico và ngay cả từ Tây Ban Nha nữa. Chúng tôi có nhiều học hỏi Kinh-thánh, và dần dần một hội thánh tiếng Tây Ban Nha được thành lập. Chúng tôi phục vụ tại nhiệm sở này gần tám năm.

Tuy nhiên, chúng tôi cần ở gần mẹ chồng hơn, vì mẹ khá lớn tuổi và lại tàn tật. Mẹ ở Portland, Oregon, nên chúng tôi được chỉ định đi hội thánh tiếng Tây Ban Nha ở Vancouver, Washington, không xa Portland bao nhiêu. Hội thánh hãy còn nhỏ khi chúng tôi đến vào tháng 12-1983, nhưng nay chúng tôi thấy có nhiều người mới.

Tính đến tháng 6-1996, tôi đã phục vụ trọn thời gian được 53 năm, và đến ngày 1-1-1996 thì chồng tôi phục vụ được 55 năm. Trong nhiều năm qua, tôi đã có đặc ân giúp hàng trăm người nhận được sự hiểu biết về lẽ thật trong Lời Đức Chúa Trời và dâng đời sống mình cho Đức Giê-hô-va. Nhiều người trong số này nay làm trưởng lão và làm những người rao giảng trọn thời gian.

Đôi lúc có người hỏi rằng tôi có tiếc là đã không có con hay không. Sự thật thì Đức Giê-hô-va đã ban cho tôi ân phước là có nhiều con cháu thiêng liêng. Đúng vậy, đời sống của tôi thật phong phú và thỏa đáng trong công việc phụng sự Đức Giê-hô-va. Tôi có thể đồng cảm với cô con gái của Giép-thê, vì cô phụng sự trọn đời trong đền thờ, và vì có đặc ân phụng sự quí giá như thế nên cô đã không bao giờ sanh con (Các Quan Xét 11:38-40).

Tôi vẫn còn nhớ khi tôi dâng mình cho Đức Giê-hô-va lúc hãy còn là một đứa bé. Ngày nay hình ảnh Địa đàng minh họa đó vẫn còn sống động trong tâm trí của tôi không kém gì thuở xưa. Tôi vẫn hết lòng nhìn chăm chú vào giải thưởng của cuộc sống vô tận trong thế giới mới của Đức Chúa Trời. Đúng vậy, tôi ước ao được phụng sự Đức Giê-hô-va không chỉ vỏn vẹn 50 năm, mà còn muốn phụng sự ngài đời đời—dưới sự trị vì của Nước Trời.

[Các hình nơi trang 23]

Dorothy Craden, tay trên vai tôi, và các anh chị cùng làm tiên phong vào năm 1943

[Các hình nơi trang 23]

Ở Rome, Italy, với các chị cùng làm giáo sĩ vào năm 1953

[Hình nơi trang 25]

Với chồng tôi

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ