THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w96 1/9 trg 8-13
  • Luật pháp trước thời Đấng Christ

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Luật pháp trước thời Đấng Christ
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Luật pháp Môi-se và mục đích
  • Một Luật pháp biểu lộ lòng nhân từ và trắc ẩn
  • Lạm dụng Luật pháp
  • Sự ô nhiễm của Đạo người Pha-ri-si
  • Rút tỉa bài học từ sự rồ dại của người Pha-ri-si
  • “Luật pháp Đức Giê-hô-va là hoàn hảo”
    Hãy đến gần Đức Giê-hô-va
  • Luật Pháp của Đấng Christ
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
  • Ý nghĩa của Luật pháp Môi-se đối với bạn
    Hợp nhất trong sự Thờ phượng Đức Chúa Trời có Một và Thật
  • Chúng ta có phải theo Mười Điều Răn không?
    Bạn có thể Sống đời đời trong Địa-đàng trên Đất
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
w96 1/9 trg 8-13

Luật pháp trước thời Đấng Christ

“Tôi yêu-mến luật-pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy-gẫm luật-pháp ấy” (THI-THIÊN 119:97).

1. Điều gì điều khiển sự vận chuyển của các thiên thể?

TỪ THUỞ thơ ấu, rất có thể Gióp hay ngắm những vì sao với lòng đầy thán phục. Có lẽ ông được cha mẹ dạy cho biết tên các chùm sao lớn và các định luật điều khiển sự vận chuyển của các chòm sao trên trời. Tưởng cũng nên nhớ vào thời xưa người ta dựa vào cách vận chuyển đều đặn của các chòm sao to lớn để đánh dấu sự thay đổi của thời tiết. Nhưng mỗi lần ngắm nhìn bầu trời với lòng đầy thán phục, Gióp không hề biết sức mạnh phi thường nào đã khiến những ngôi sao này tụ lại với nhau. Vì vậy, ông không trả lời được khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời hỏi ông: “Ngươi có biết luật của các từng trời sao?” (Gióp 38:31-33). Đúng vậy, các vì sao vận chuyển theo định luật—những định luật thật chính xác và phức tạp đến độ các khoa học gia hiện đại không thấu hiểu hết.

2. Tại sao ta có thể nói rằng luật pháp điều khiển muôn vật?

2 Đức Giê-hô-va là Đấng Lập luật Tối cao trong vũ trụ. Mọi điều ngài làm đều theo quy luật. Con yêu quí của ngài, “Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên”, trung thành vâng phục luật pháp của Cha ngài trước khi vũ trụ vật chất hiện hữu! (Cô-lô-se 1:15). Các thiên sứ cũng được luật pháp hướng dẫn (Thi-thiên 103:20). Luật pháp chi phối ngay cả thú vật khiến chúng làm theo bản năng mà Đấng Tạo hóa đã phú sẵn cho chúng (Châm-ngôn 30:24-28; Giê-rê-mi 8:7).

3. Tại sao loài người cần luật pháp? (b) Bằng cách nào Đức Giê-hô-va đã điều khiển dân Y-sơ-ra-ên?

3 Còn loài người thì sao? Mặc dù chúng ta được ban cho sự thông minh, đạo đức và tính thiêng liêng, chúng ta vẫn cần một số luật pháp của Đức Chúa Trời để hướng dẫn chúng ta cách dùng những khả năng này. Thủy tổ chúng ta là A-đam và Ê-va là người hoàn toàn, nên họ chỉ cần một vài điều luật để hướng dẫn họ. Lòng yêu quý đối với Cha trên trời đáng lý phải khiến họ vui lòng vâng phục ngài. Nhưng họ đã cãi lời (Sáng-thế Ký 1:26-28; 2:15-17; 3:6-19). Bởi vậy con cháu họ là những tạo vật tội lỗi nên cần có nhiều điều luật hơn nữa để hướng dẫn. Trong quá khứ, Đức Giê-hô-va yêu thương đáp ứng nhu cầu này. Ngài ban cho Nô-ê những luật lệ rõ rệt để ông truyền lại cho gia đình (Sáng-thế Ký 9:1-7). Nhiều thế kỷ sau đó, qua Môi-se, Đức Chúa Trời ban cho nước Y-sơ-ra-ên mới được thành lập một bộ luật chi tiết. Đây là lần đầu tiên mà Đức Giê-hô-va cai trị cả nước bằng luật pháp của ngài. Xem xét Luật pháp đó sẽ giúp chúng ta hiểu rằng Luật pháp của Đức Chúa Trời đóng vai trò quan trọng trong đời sống của tín đồ đấng Christ ngày nay.

Luật pháp Môi-se và mục đích

4. Tại sao con cháu của Áp-ra-ham gặp thử thách trong việc sanh ra Dòng dõi đã hứa?

4 Sứ đồ Phao-lô là một người nghiên cứu uyên thâm về Luật đã hỏi: “Vậy thì làm sao có luật-pháp?” (Ga-la-ti 3:19). Để trả lời, chúng ta cần phải nhớ lại lời hứa của Đức Giê-hô-va với bạn ngài là Áp-ra-ham, theo đó, Dòng dõi của ông sẽ đem lại ân phước lớn lao cho mọi dân tộc (Sáng-thế Ký 22:18). Nhưng lời hứa này đưa ra một thử thách: không phải tất cả con cháu của Áp-ra-ham tức dân Y-sơ-ra-ên đều yêu mến Đức Giê-hô-va. Dần dần theo thời gian, phần đông đã tỏ ra cứng cổ và ương ngạnh—một số người hầu như bất trị! (Xuất Ê-díp-tô Ký 32:9; Phục-truyền Luật-lệ Ký 9:7). Đối với những người như thế, việc họ thuộc vào dân của Đức Chúa Trời chỉ vì họ sinh ra trong dân ấy chứ không phải vì họ lựa chọn.

5. a) Đức Giê-hô-va dùng Luật pháp Môi-se để dạy dân Y-sơ-ra-ên điều gì? b) Luật pháp đã được soạn thảo thế nào để ảnh hưởng đến hạnh kiểm của người tuân theo luật?

5 Bằng cách nào một dân tộc như thế có thể sinh ra Dòng dõi được Đức Chúa Trời hứa và được lợi ích nhờ Dòng dõi ấy? Thay vì kiểm soát họ như những người máy, Đức Giê-hô-va dùng luật pháp để dạy họ (Thi-thiên 119:33-35; Ê-sai 48:17). Thật vậy, “luật pháp” theo tiếng Hê-bơ-rơ là toh·rahʹ, có nghĩa là “dạy”. Luật pháp này dạy gì? Chủ yếu là dạy cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng họ cần đấng Mê-si, là đấng chuộc họ khỏi tình trạng tội lỗi (Ga-la-ti 3:24). Luật pháp này cũng dạy họ biết kính sợ và vâng lời Đức Chúa Trời. Phù hợp với lời hứa Áp-ra-ham nhận được, dân Y-sơ-ra-ên phải làm chứng về Đức Giê-hô-va cho mọi dân khác. Thế nên Luật pháp này phải dạy cho họ một qui tắc cao quý về cách ăn ở phản ảnh các đức tính tốt của Đức Giê-hô-va; Luật này sẽ giúp dân Y-sơ-ra-ên lánh xa những thực hành đồi bại của các nước lân bang (Lê-vi Ký 18:24, 25; Ê-sai 43:10-12).

6. a) Luật pháp Môi-se có khoảng bao nhiêu điều luật, và tại sao chúng ta không nên nghĩ con số đó là quá nhiều? (Xem cước chú). b) Chúng ta có thể hiểu thấu điều gì qua việc học hỏi Luật pháp Môi-se?

6 Như vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Luật pháp Môi-se có nhiều điều luật—hơn 600 điều luậta. Bộ luật thành văn này quy định về các lĩnh vực thờ phượng, trị an, luân lý, công lý, ngay cả việc ăn uống và vệ sinh. Tuy nhiên, phải chăng Luật pháp này chỉ gồm một số điều lệ lạnh lùng và khô khan? Hoàn toàn không phải! Việc học hỏi Luật pháp này sẽ giúp chúng ta hiểu thấu cá tính đầy yêu thương của Đức Giê-hô-va. Chúng ta hãy xem một số thí dụ.

Một Luật pháp biểu lộ lòng nhân từ và trắc ẩn

7, 8. a) Luật pháp này nhấn mạnh lòng nhân từ và trắc ẩn như thế nào? b) Đức Giê-hô-va đã áp dụng Luật pháp một cách nhân từ trong trường hợp của Đa-vít như thế nào?

7 Luật pháp này nhấn mạnh lòng nhân từ và trắc ẩn, nhất là đối với những người khốn cùng và thất thế. Những người góa bụa và con mồ côi được đặc biệt che chở (Xuất Ê-díp-tô Ký 22:22-24). Thú vật làm việc không bị hành hạ. Quyền sở hữu căn bản được tôn trọng (Phục-truyền Luật-lệ Ký 24:10; 25:4). Trong khi buộc kẻ sát nhân phải đền mạng, Luật pháp lại tỏ ra nhân từ đối với những trường hợp vô ý làm chết người (Dân-số Ký 35:11). Các quan xét người Y-sơ-ra-ên được toàn quyền định đoạt việc xử phạt cho một số tội phạm, tùy theo thái độ của người phạm tội. (So sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 22:7; Lê-vi Ký 6:1-7).

8 Đức Giê-hô-va nêu ra gương mẫu cho các quan xét bằng cách áp dụng cứng rắn Luật pháp khi cần nhưng tỏ lòng thương xót khi có thể. Vua Đa-vít là người phạm tội tà dâm và giết người, nhưng đã được thương xót. Không phải là ông không bị trừng phạt, bởi vì Đức Giê-hô-va không che chở ông khỏi những hậu quả thảm hại do tội ông gây ra. Tuy nhiên, vì giao ước về Nước Trời và vì Đa-vít là người có lòng thương xót và tỏ thái độ thật sự ăn năn, nên ông không bị xử tử (I Sa-mu-ên 24:4-7; II Sa-mu-ên 7:16; Thi-thiên 51:1-4; Gia-cơ 2:13).

9. Tình yêu thương đóng vai trò nào trong Luật pháp Môi-se?

9 Hơn nữa, Luật pháp Môi-se nhấn mạnh tình yêu thương. Hãy tưởng tượng một quốc gia ngày nay có đạo luật đòi hỏi phải có tình yêu thương! Vì thế, Luật pháp Môi-se không những cấm giết người; mà còn bảo: “Hãy yêu-thương kẻ lân-cận ngươi như mình” (Lê-vi Ký 19:18); không những cấm đối đãi bất công với khách kiều ngụ; mà còn bảo: “Hãy thương-yêu người như mình, vì các ngươi đã làm khách kiều-ngụ trong xứ Ê-díp-tô” (Lê-vi Ký 19:34). Luật pháp cũng không những cấm ngoại tình, mà còn bảo người chồng phải làm cho vợ vui nữa! (Phục-truyền Luật-lệ Ký 24:5). Chỉ riêng trong sách Phục-truyền Luật-lệ Ký, chữ Hê-bơ-rơ nói lên đức tính yêu thương được dùng đến 20 lần. Đức Giê-hô-va bảo đảm với dân Y-sơ-ra-ên là ngài yêu thương họ—trong quá khứ, hiện tại và tương lai (Phục-truyền Luật-lệ Ký 4:37; 7:12-14). Thật vậy, điều răn lớn nhất của Luật pháp Môi-se là: “Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính-mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” (Phục-truyền Luật-lệ Ký 6:5). Giê-su nói rằng toàn bộ Luật pháp dựa vào điều răn này, đi đôi với điều răn là phải yêu thương người lân cận (Lê-vi Ký 19:18; Ma-thi-ơ 22:37-40). Thảo nào người viết Thi-thiên ghi lại: “Tôi yêu-mến luật-pháp Chúa biết bao!” (Thi-thiên 119:97).

Lạm dụng Luật pháp

10. Phần đông dân Do Thái xem Luật pháp Môi-se như thế nào?

10 Thật là thảm hại biết bao khi phần đông dân Y-sơ-ra-ên thiếu sự quí trọng đối với Luật pháp Môi-se! Dân này không vâng theo, làm ngơ và quên hẳn đi luật pháp. Họ làm ô nhiễm sự thờ phượng thanh sạch bằng những thực hành tôn giáo ghê tởm của các dân khác (II Các Vua 17:16, 17; Thi-thiên 106:13, 35-38). Họ còn phản bội Luật pháp qua nhiều cách khác nữa.

11, 12. a) Sau thời của E-xơ-ra, những nhóm lãnh đạo tôn giáo đã gây thiệt hại như thế nào? (Xem khung). b) Tại sao các ra-bi xưa cảm thấy cần phải “dựng lên hàng rào bao quanh Luật pháp”?

11 Luật pháp này bị thương tổn nhiều nhất do chính những kẻ tự nhận là dạy dỗ và gìn giữ Luật pháp gây ra. Điều này xảy ra sau thời của người sao chép trung thành là E-xơ-ra trong thế kỷ thứ năm trước công nguyên. E-xơ-ra kịch liệt bài trừ những ảnh hưởng bại hoại của các dân khác và nhấn mạnh việc đọc và dạy Luật pháp này (E-xơ-ra 7:10; Nê-hê-mi 8:5-8). Một số thầy dạy Luật tự cho mình theo gương của E-xơ-ra và đã thiết lập cái được gọi là “Nhà Hội Lớn”. Trong số những điều nêu ra trong ấy có lời chỉ dẫn: “Dựng lên hàng rào bao quanh Luật pháp”. Những thầy này lý luận rằng Luật pháp giống như một khu vườn quí. Vi phạm luật lệ là xâm nhập khu vườn. Để ngăn chặn tình trạng này, họ đã đặt thêm các luật khác nữa, tức “Luật Truyền khẩu”.

12 Một số người có thể biện luận rằng các nhà lãnh đạo Do Thái có quyền nghĩ thế. Sau thời của E-xơ-ra dân Do Thái bị các cường quốc ngoại bang đô hộ, đặc biệt là Hy Lạp. Để chống lại ảnh hưởng về triết lý và văn hóa của Hy Lạp, các nhóm lãnh đạo tôn giáo trong vòng những người Do Thái đã nổi lên (Hãy xem khung, trang 10). Dần dần vài nhóm này trở thành kình địch và vượt lên trên chức tế lễ dòng Lê-vi với tư cách là thầy dạy Luật pháp. (So sánh Ma-la-chi 2:7). Đến năm 200 trước công nguyên, luật truyền khẩu bắt đầu ảnh hưởng đến đời sống của dân Do Thái. Lúc đầu những luật này không được viết ra, vì sợ người ta sẽ xem những luật đó tương đương với Luật thành văn. Nhưng dần dần, lối suy nghĩ của con người đã đặt lên trên lối suy nghĩ của Đức Chúa Trời, thế là cuối cùng “hàng rào” thay vì bảo vệ thì lại phá hủy “khu vườn”.

Sự ô nhiễm của Đạo người Pha-ri-si

13. Các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã biện hộ cho việc đặt ra nhiều luật lệ như thế nào?

13 Các ra-bi lý luận rằng vì bộ luật Torah, hoặc Luật pháp Môi-se là hoàn hảo, nên bộ luật này phải có giải đáp cho mọi câu hỏi được nêu lên. Ý niệm này không thật sự chính đáng. Trên thực tế, ý niệm này tạo ra cơ hội cho các ra-bi dùng lập luận khéo léo của loài người làm cho người ta nghĩ rằng Lời Đức Chúa Trời là nền tảng của những luật lệ về mọi vấn đề—một số có tính cách cá nhân, còn một số khác thì không quan trọng.

14. a) Các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã thổi phồng quá đáng lời răn trong Kinh-thánh về việc tách rời khỏi các dân như thế nào? b) Điều gì cho thấy rằng luật lệ của các ra-bi không giúp dân Do Thái tránh khỏi các ảnh hưởng của người ngoại đạo?

14 Rất nhiều lần, các nhà lãnh đạo tôn giáo lấy những câu châm ngôn Kinh-thánh và thổi phồng chúng lên quá đáng. Chẳng hạn như Luật pháp Môi-se đề xướng việc tách rời ra khỏi các dân, nhưng các ra-bi lại giảng là bất luận điều gì không thuộc về người Do Thái đều đáng khinh bỉ. Họ dạy người Do Thái không được để bò của mình tại một nhà trọ của dân ngoại, bởi vì dân ngoại “bị nghi là hành dâm với thú vật”. Một người đàn bà Do Thái không được đỡ đẻ cho người đàn bà ngoại đạo, bởi vì làm như thế không khác gì bà đã “giúp cho đứa bé sinh ra để thờ hình tượng”. Vì có những nghi ngờ chính đáng về nơi tập thể dục của Hy Lạp, các ra-bi cấm triệt mọi hình thức tập thể thao. Lịch sử chứng minh rằng các cấm đoán này đã không bảo vệ được người Do Thái khỏi những tín ngưỡng của dân ngoại. Thật ra, chính người Pha-ri-si đã dạy giáo lý ngoại đạo của Hy Lạp về linh hồn bất tử! (Ê-xê-chi-ên 18:4).

15. Các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái bóp méo những luật về sự tẩy uế và loạn luân như thế nào?

15 Người Pha-ri-si cũng bóp méo luật lệ về sự tẩy uế. Người ta nói rằng nếu có dịp người Pha-ri-si ắt sẽ tẩy uế mặt trời. Họ còn đưa ra luật là một người có thể bị ô uế nếu chậm trễ “đi tiểu tiện”! Rửa tay trở thành một nghi thức phức tạp, với những qui luật là phải rửa tay nào trước và như thế nào. Đàn bà bị đặc biệt xem là ô uế. Dựa vào nguyên tắc của Kinh-thánh chớ “đến gần” thân nhân phái nữ (đúng ra luật này cấm loạn luân), các ra-bi lại cấm người chồng không được đi phía sau vợ mình; cũng không được nói chuyện với vợ ngoài chợ (Lê-vi Ký 18:6).

16, 17. Điều răn phải giữ ngày Sa-bát hàng tuần đã được luật truyền khẩu khai triển như thế nào, và hậu quả là gì?

16 Luật truyền khẩu đặc biệt có tiếng là coi thường tính chất thiêng liêng của luật Sa-bát. Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên một lệnh giản dị: Chớ làm công việc chi hết vào ngày thứ bảy trong tuần (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:8-11). Tuy nhiên, luật truyền khẩu khai triển thêm 39 loại việc làm bị cấm, kể cả việc thắt hay gỡ một cái nút, may hai đường chỉ, viết xuống hai mẫu tự Hê-bơ-rơ, v.v.. Rồi mỗi loại công việc bị cấm này lại có vô số các qui luật khác nữa. Cái nút nào được hay không được gỡ? Luật truyền khẩu trả lời cho những câu hỏi này bằng những phép tắc tùy hứng. Việc chữa bệnh được xem là một việc làm bị cấm. Thí dụ, không được băng bó chân tay bị gãy trong ngày Sa-bát. Một người đau răng có thể dùng giấm để nêm thức ăn, nhưng không được mút nước giấm qua kẽ răng. Vì làm như thế có thể trị khỏi chứng đau răng!

17 Vì bị chôn vùi dưới hàng trăm luật lệ do loài người đặt ra, nên luật Sa-bát mất đi ý nghĩa quan trọng đối với hầu hết dân Do Thái. Khi Giê-su Christ, “Chúa ngày Sa-bát” làm phép lạ tuyệt diệu vào ngày Sa-bát khiến dân chúng vui thích, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si lại không động lòng. Họ chỉ quan tâm đến việc ngài dường như đã xem thường phép tắc của họ (Ma-thi-ơ 12:8, 10-14).

Rút tỉa bài học từ sự rồ dại của người Pha-ri-si

18. Việc luật truyền khẩu và truyền thống được thêm vào Luật pháp Môi-se đã có ảnh hưởng gì? Hãy cho thí dụ.

18 Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng những luật lệ và truyền thống đặt thêm này đã bấu víu vào Luật pháp Môi-se giống như những con hàu bám chặt vào một chiếc tàu. Chủ tàu ra công sức để cạo bỏ những sinh vật gây phiền toái này vì chúng làm chậm đi tốc độ đồng thời hủy phá sơn chống sét của tàu. Tương tự như thế, luật truyền khẩu và các truyền thống làm cho Luật pháp mất hiệu lực và dễ bị lạm dụng. Tuy nhiên, thay vì cạo bỏ những luật lệ rườm rà, các ra-bi lại tiếp tục thêm vào nữa. Đến lúc đấng Mê-si đến để làm trọn luật pháp, thì “chiếc tàu” đã bị “những con hàu” bao phủ đến độ gần như bị chìm. (So sánh Châm-ngôn 16:25). Thay vì bảo vệ giao ước Luật pháp, các nhà lãnh đạo tôn giáo này đã rồ dại vi phạm Luật pháp. Tại sao “hàng rào” luật pháp của họ lại thất bại?

19. a) Tại sao “hàng rào bao quanh Luật pháp” thất bại? b) Điều gì cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái không có đức tin chân thật?

19 Các nhà lãnh đạo của đạo Do Thái không hiểu rằng muốn diệt sự đồi bại là phải diệt từ lòng con người chứ không phải từ những trang giấy của các sách luật (Giê-rê-mi 4:14). Bí quyết để thành công là tình yêu thương—yêu thương Đức Giê-hô-va, luật pháp và các nguyên tắc công bình của ngài. Tình yêu thương như thế sinh ra một sự ghét tương ứng với những gì Đức Giê-hô-va ghét (Thi-thiên 97:10; 119:104). Những người có lòng đầy yêu thương như thế sẽ giữ được lòng trung thành đối với luật pháp của Đức Giê-hô-va trong thế gian bại hoại này. Các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái có đặc ân lớn trong việc dạy dỗ người ta để cổ động và khuyên giục lòng yêu thương như thế. Tại sao họ không làm được như vậy? Rõ ràng là họ thiếu đức tin (Ma-thi-ơ 23:23). Nếu họ tin tưởng rằng quyền lực thánh linh của Đức Giê-hô-va có thể động lòng những người trung thành, họ sẽ không thấy cần phải kiểm soát khắt khe đời sống của người khác (Ê-sai 59:1; Ê-xê-chi-ên 34:4). Vì thiếu đức tin, nên họ không giúp người khác có được đức tin; họ gây thêm gánh nặng cho người ta với những điều răn do loài người đặt ra (Ma-thi-ơ 15:3, 9; 23:4).

20, 21. a) Một đầu óc khư khư theo truyền thống ảnh hưởng toàn bộ đến đạo Do Thái như thế nào? b) Từ những gì đã xảy ra cho Do Thái giáo, chúng ta rút tỉa được bài học nào?

20 Các nhà lãnh đạo Do Thái đó không khuyến khích người ta có tình yêu thương. Truyền thống của họ sinh ra một tôn giáo với đầy những luật lệ đặt nặng bề ngoài, với sự vâng lời máy móc để phô trương—là cội rễ sinh ra sự giả hình (Ma-thi-ơ 23:25-28). Những phép tắc của họ làm phát sinh muôn vàn lý do để đoán xét người khác. Vì thế người Pha-ri-si kiêu ngạo và độc đoán cảm thấy có quyền chỉ trích chính Giê-su Christ. Họ quên đi mục tiêu chính yếu của Luật pháp và chối bỏ đấng Mê-si thật. Hậu quả là ngài phải nói với dân Do Thái: “Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang!” (Ma-thi-ơ 23:38; Ga-la-ti 3:23, 24).

21 Chúng ta rút tỉa được bài học gì? Rõ ràng là một đầu óc khắt khe, khư khư theo truyền thống không phát huy sự thờ phượng thanh sạch của Đức Giê-hô-va! Nhưng phải chăng điều đó có nghĩa là những người thờ phượng Đức Giê-hô-va ngày nay không có bất cứ luật lệ nào khác trừ khi những luật này được ghi rõ ràng trong Kinh-thánh? Không phải vậy. Để có lời giải đáp trọn vẹn, chúng ta hãy xem xét Giê-su đã thay thế Luật pháp Môi-se bằng một luật mới và còn tốt hơn như thế nào.

[Chú thích]

a Dĩ nhiên, con số này vẫn còn rất ít nếu so với hệ thống pháp lý của các quốc gia ngày nay. Thí dụ, vào đầu thập niên 1990, bộ luật liên bang Hoa Kỳ có hơn 125.000 trang, mỗi năm lại có thêm hàng ngàn luật lệ mới.

Bạn có thể giải thích không?

◻ Muôn vật được Luật pháp của Đức Chúa Trời chi phối như thế nào?

◻ Mục đích chính của Luật pháp Môi-se là gì?

◻ Điều gì cho thấy Luật pháp Môi-se nhấn mạnh lòng nhân từ và trắc ẩn?

◻ Tại sao các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái thêm vào Luật pháp Môi-se vô số các luật lệ khác nữa, và hậu quả là gì?

[Khung nơi trang 10]

Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo

Thầy thông giáo: Họ xem mình như là người nối nghiệp của E-xơ-ra và là người diễn giải Luật pháp. Theo sách A History of the Jews (Lịch sử của người Do Thái): “Không phải tất cả các thầy thông giáo đều có tinh thần cao thượng. Họ cố làm rõ những ẩn ý của luật pháp nhưng lại khiến nó trở thành những công thức vô nghĩa và những giới hạn vô lý. Những điều này cô đọng lại thành tập quán mà chẳng bao lâu đã trở nên độc đoán cứng cỏi”.

Người Hasidim: Danh xưng này có nghĩa là “những người sùng đạo” hoặc “những người thánh thiện”. Trước tiên vào khoảng 200 năm trước công nguyên họ được nói đến như là một nhóm có thế lực về mặt chính trị, cuồng tín bảo vệ sự thánh khiết của Luật pháp chống lại ảnh hưởng bạo ngược của Hy Lạp. Người Hasidim được chia ra thành ba nhóm: Pha-ri-si, Sa-đu-sê và Ét-xê-ni.

Người Pha-ri-si: Một số học giả tin rằng danh này được đặt theo từ ngữ “Những người được tách riêng ra” hay “Những người tách biệt”. Họ rất cuồng tín, cố muốn tách biệt khỏi dân ngoại. Dĩ nhiên, họ cũng thấy nhóm họ là riêng biệt và trổi hơn những người dân thường gốc Do Thái, là những người dốt nát không biết các luật truyền khẩu phức tạp. Một sử gia viết về những người Pha-ri-si này: “Nói chung, họ đối đãi người lớn như trẻ con vậy. Họ công thức hóa và qui định những chi tiết tỉ mỉ về việc cử hành các nghi lễ”. Một học giả khác viết: “Đạo của người Pha-ri-si đặt ra cả rừng luật lệ, chi phối đủ mọi mặt. Hậu quả tất nhiên là họ biến chuyện nhỏ thành chuyện to và ngược lại (Ma-thi-ơ 23:23)”.

Người Sa-đu-sê: Nhóm này kết hợp chặt chẽ với giới quí tộc và các thầy tế lễ. Họ kịch liệt chống lại các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Họ cho rằng luật truyền khẩu không hiệu lực bằng Luật thành văn và lý lẽ của luật truyền khẩu bị thua kém khi xét qua những gì sách Mishnah trình bày: “Người ta chấp hành nghiêm chỉnh lời của các thầy thông giáo hơn là lời của Luật pháp”. Sách Talmud bao gồm nhiều lời khen ngợi luật truyền khẩu, về sau còn dám nói: “Lời lẽ của các thầy thông giáo... cao trọng hơn là lời lẽ của sách Torah”.

Người Ét-xê-ni: Nhóm người này sống theo lối khổ hạnh tách mình ra khỏi cộng đồng. Theo cuốn The Interpreter’s Dictionary of the Bible (Tự điển thông giải Kinh-thánh) thì người Ét-xê-ni thậm chí còn riêng biệt hơn cả người Pha-ri-si và “đôi khi thực hành đạo Pha-ri-si còn hơn chính cả người Pha-ri-si nữa”.

[Hình nơi trang 8]

Có lẽ cha mẹ của Gióp đã dạy ông về những định luật chi phối các chòm sao

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ