THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w97 1/4 trg 20-25
  • Tôi biết lẽ thật của Kinh-thánh ở Ru-ma-ni

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Tôi biết lẽ thật của Kinh-thánh ở Ru-ma-ni
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Thời kỳ đầy khó khăn
  • Tôi mong muốn biết lẽ thật của Kinh-thánh
  • Lẽ thật của Kinh-thánh lan rộng ở Ru-ma-ni
  • Đến Hoa Kỳ
  • Thánh chức của chúng tôi lúc ban đầu tại Hoa Kỳ
  • Sự sửa sai mà tôi cần
  • Xoay xở vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế
  • Giữ vững đức tin của chúng tôi
  • Gia đình trung thành của chúng tôi ở Ru-ma-ni
  • Lẽ thật vẫn quí báu đối với tôi
  • Sung sướng sẵn sàng đi xa hơn nữa
    Tỉnh Thức!—2005
  • Những niềm vui vô song!
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2003
  • Người mang sự sáng đến nhiều dân tộc
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2000
  • Vui mừng và đầy biết ơn bất kể sự mất mát đau lòng
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2001
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
w97 1/4 trg 20-25

Tôi biết lẽ thật của Kinh-thánh ở Ru-ma-ni

DO GOLDIE ROMOCEAN KỂ LẠI

Vào năm 1970, tôi viếng thăm thân nhân ở Ru-ma-ni lần đầu tiên sau gần 50 năm xa cách. Dân chúng sống dưới một chế độ Cộng sản đàn áp, và người ta luôn luôn khuyên tôi phải cẩn thận lời ăn tiếng nói. Rồi khi tôi đứng trong văn phòng chính phủ ở làng quê, một viên chức thúc giục tôi rời khỏi nước ngay lập tức. Trước khi tôi giải thích lý do tại sao tôi phải rời khỏi nước, tôi xin thuật lại làm sao tôi biết lẽ thật của Kinh-thánh ở Ru-ma-ni.

TÔI sinh ngày 3-3-1903, tại làng Ortelec ở miền tây bắc Ru-ma-ni gần thị xã Zalău. Cảnh vật vùng này đẹp đẽ. Nước và không khí trong lành. Chúng tôi trồng trọt và chăn nuôi và không thiếu gì về vật chất. Trong thời thơ ấu của tôi, đất nước còn hòa bình.

Dân chúng rất là sùng đạo. Thật vậy, gia đình tôi thuộc ba tôn giáo khác nhau. Bà nội thuộc Công giáo Chính thống, bà ngoại thì thuộc đạo Cơ đốc (Adventist), còn cha mẹ thì thuộc đạo Báp-tít. Vì tôi không đồng ý với các đạo ấy, nên gia đình nói tôi sẽ trở thành một người vô thần. Tôi nghĩ: ‘Nếu có một Đức Chúa Trời duy nhất, thì phải có một tôn giáo duy nhất mà thôi—chứ không ba tôn giáo trong một gia đình’.

Những điều tôi thấy trong tôn giáo làm tôi hoang mang. Thí dụ, linh mục đến nhà người ta để thu tiền cho nhà thờ. Khi người ta không có tiền để đóng góp, thì ông lấy những cái mền len tốt nhất của họ. Trong nhà thờ Công giáo, tôi nhìn bà nội quì cầu nguyện trước hình của bà Ma-ri. Tôi nghĩ: ‘Tại sao phải cầu nguyện trước một tấm hình?’

Thời kỳ đầy khó khăn

Vào năm 1912, cha dọn đến Hoa Kỳ để kiếm tiền trả nợ. Không lâu sau đó, chiến tranh bùng nổ, và những người đàn ông trong làng phải đi lính—chỉ còn đàn bà, trẻ con và cụ già ở lại. Người Hung-ga-ri thống trị làng chúng tôi một thời gian, nhưng rồi lính Ru-ma-ni trở về và chiếm lại làng quê. Họ ra lệnh cho chúng tôi phải rời nơi đó ngay lập tức. Tuy nhiên, giữa sự hỗn loạn và vội vã chất đồ đạc và trẻ con lên xe bò, tôi bị bỏ lại. Tôi là con lớn nhất trong gia đình có năm đứa con.

Tôi chạy đến một người hàng xóm, một cụ già đã ở lại, và cụ nói: “Cháu chạy về nhà. Khóa cửa lại, và đừng cho ai vào”. Tôi mau mắn vâng lời. Sau khi ăn một chút cháo gà và bắp cải nhồi thịt mà gia đình đã bỏ lại trong lúc vội vã ra đi, tôi quì xuống bên giường và cầu nguyện. Không lâu sau tôi ngủ mê man.

Khi mở mắt ra thì trời đã sáng, và tôi nói: “Ồ, tạ ơn Chúa! Con vẫn còn sống!” Trên các vách tường có đầy những lỗ đạn, vì súng bắn suốt cả đêm. Khi đến làng kế cận, mẹ biết được là tôi không có đi chung với gia đình, nên mẹ nhờ một thanh niên tên George Romocean đi tìm, anh tìm thấy tôi và đem tôi đến để đoàn tụ với gia đình. Không bao lâu sau chúng tôi có thể trở lại làng quê và tiếp tục sống ở đó.

Tôi mong muốn biết lẽ thật của Kinh-thánh

Mẹ muốn tôi làm báp têm để trở thành một người Báp-tít, nhưng tôi không muốn làm thế vì tôi không thể tin là một Đức Chúa Trời đầy yêu thương lại thiêu đốt người ta đời đời nơi địa ngục. Mẹ nói để tìm cách giải thích: “Đó là nếu người ta làm ác”. Nhưng tôi đáp: “Nếu họ làm ác thì hủy diệt họ đi, chứ đừng hành hạ họ. Con còn không hành hạ con chó hay con mèo”.

Tôi nhớ là vào một ngày mùa xuân đẹp trời, lúc đó tôi được 14 tuổi, mẹ bảo tôi dẫn bò ra ngoài đồng cỏ. Khi nằm trên bãi cỏ cạnh bờ sông với rừng cây phía sau, tôi nhìn lên bầu trời và nói: “Đức Chúa Trời ơi, con biết là ngài hiện hữu; nhưng con không thích các tôn giáo này. Chắc hẳn ngài có một tôn giáo thật”.

Tôi thật sự tin là Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của tôi vì chính vào mùa hè năm 1917, hai Học viên Kinh-thánh (tên gọi Nhân-chứng Giê-hô-va lúc đó) đến làng chúng tôi. Họ là những người phân phát sách đạo, hay những người truyền giáo trọn thời gian, và họ đến nhà thờ Báp-tít đang lúc có buổi lễ.

Lẽ thật của Kinh-thánh lan rộng ở Ru-ma-ni

Vài năm trước đó, năm 1911, Carol Szabo và Josif Kiss trở lại Ru-ma-ni để chia sẻ lẽ thật của Kinh-thánh ở đó. Họ đã trở thành Học viên Kinh-thánh ở Hoa Kỳ. Họ định cư ở Tîrgu-Mureş, chừng 160 cây số về phía đông nam của làng chúng tôi. Trong vài năm, hàng trăm người đã hưởng ứng thông điệp Nước Trời và bắt đầu thánh chức rao giảng của tín đồ đấng Christ (Ma-thi-ơ 24:14).

Khi hai Học viên Kinh-thánh trẻ đến nhà thờ Báp-tít ở làng Ortelec, George Romocean, dù chỉ 18 tuổi, đang đứng giảng và đang cố gắng giải thích ý nghĩa của Rô-ma 12:1. Cuối cùng, một anh trẻ phân phát sách đạo đứng dậy và nói: “Hỡi các anh, các bạn, sứ đồ Phao-lô muốn nói gì với chúng ta ở đây?”

Khi nghe thế, tôi thấy rất hứng thú! Tôi nghĩ: ‘Những người này chắc phải biết cách giải thích Kinh-thánh’. Nhưng phần đông những người có mặt la lên: “Tiên tri giả! Chúng tôi biết mấy người là ai rồi!” Sau đó có sự náo động. Nhưng rồi cha của anh George đứng dậy và nói: “Mọi người hãy im đi! Tinh thần này là tinh thần gì—của những kẻ say rượu ư? Nếu hai người này có điều gì muốn nói với chúng ta và các người không muốn nghe, thì tôi mời họ về nhà tôi. Ai muốn đến, xin cứ tự nhiên”.

Tôi phấn khởi chạy về nhà thuật lại cho mẹ nghe điều đã xảy ra. Tôi là một trong những người đã nhận lời mời đến nhà ông Romocean. Vào đêm tối đó khi biết được là Kinh-thánh không có dạy về địa ngục nóng bỏng và được thấy ngay trong bản Kinh-thánh tiếng Ru-ma-ni của tôi danh của Đức Chúa Trời là Giê-hô-va, tôi thấy hứng thú làm sao! Những người phân phát sách đạo sắp đặt để một Học viên Kinh-thánh đến dạy chúng tôi tại nhà của ông Romocean mỗi ngày Chủ Nhật. Mùa hè năm sau, tôi làm báp têm để biểu hiệu sự dâng mình cho Đức Giê-hô-va lúc tôi 15 tuổi.

Với thời gian, hầu như cả gia đình Prodan và gia đình Romocean nhận lẽ thật của Kinh-thánh và dâng mình cho Đức Giê-hô-va. Nhiều người khác ở làng chúng tôi cũng nhận lẽ thật, kể cả một cặp vợ chồng trẻ trước kia dùng nhà họ làm nhà thờ Báp-tít. Sau đó họ sửa nơi đó thành một nơi cho các Học viên Kinh-thánh nhóm họp để học hỏi. Lẽ thật của Kinh-thánh lan rộng nhanh chóng đến những làng phụ cận, và đến năm 1920 thì có khoảng 1.800 người công bố Nước Trời ở Ru-ma-ni!

Đến Hoa Kỳ

Chúng tôi sốt sắng muốn chia sẻ những gì chúng tôi học được với cha là Peter Prodan. Nhưng điều làm chúng tôi ngạc nhiên là chưa kịp viết thư cho cha, thì chúng tôi đã nhận được một lá thư của cha nói rằng cha đã làm báp têm để trở thành tôi tớ của Đức Giê-hô-va. Cha đã học hỏi với các Học viên Kinh-thánh ở Akron, Ohio, và cha muốn tất cả chúng tôi dọn đến Hoa Kỳ. Tuy nhiên, mẹ không muốn rời Ru-ma-ni. Cho nên vào năm 1921, dùng tiền mà cha gởi cho tôi, tôi sang sống với cha ở Akron. George Romocean và một người anh đã xin di trú ở Hoa Kỳ một năm trước đó.

Khi tôi đi tàu đến đảo Ellis, New York, viên chức của sở di trú không biết cách dịch tên tôi là Aurelia sang tiếng Anh, nên ông nói: “Tên cô là Goldie”. Kể từ đó tôi lấy tên Goldie. Ít lâu sau đó, vào ngày 1-5-1921, tôi và anh George Romocean kết hôn. Khoảng một năm sau, cha trở lại Ru-ma-ni và vào năm 1925 cha đem em Mary sang Akron. Rồi cha trở lại Ru-ma-ni để sống gần mẹ và những người khác trong gia đình.

Thánh chức của chúng tôi lúc ban đầu tại Hoa Kỳ

Anh George là một tôi tớ rất trung thành và tận tụy của Đức Giê-hô-va. Từ năm 1922 đến 1932, chúng tôi được ban phước là có bốn đứa con gái dễ thương—Esther, Anne, Goldie Elizabeth và Irene. Một hội thánh Ru-ma-ni được thành lập ở Akron, và lúc đầu các buổi nhóm họp được tổ chức tại nhà chúng tôi. Cuối cùng, mỗi sáu tháng một đại diện từ trụ sở trung ương của các Học viên Kinh-thánh ở Brooklyn, New York, đến thăm hội thánh và ở nhà chúng tôi.

Nhiều ngày Chủ Nhật, chúng tôi đi rao giảng trọn ngày. Chúng tôi đem theo sách báo và đồ ăn trưa, chở các con trên xe hơi kiểu T của hãng Ford, và đi rao giảng cả ngày ở khu vực thôn quê. Rồi chiều tối, chúng tôi đi dự Buổi học Tháp Canh. Các con gái chúng tôi bắt đầu ưa thích công việc rao giảng. Vào năm 1931, tôi có mặt tại Columbus, Ohio, khi các Học viên Kinh-thánh lấy danh hiệu đặc biệt Nhân-chứng Giê-hô-va.

Sự sửa sai mà tôi cần

Một vài năm sau đó, tôi giận anh Joseph F. Rutherford, lúc đó là chủ tịch của Hội Tháp Canh. Một Nhân-chứng mới cảm thấy là anh Rutherford đã đối xử bất công với anh, đã không lắng nghe anh nói hết lời. Tôi cảm thấy là anh Rutherford đã làm sai. Vào một ngày Chủ Nhật nọ, em gái tôi là Mary cùng với chồng là Dan Pestrui đến thăm chúng tôi. Sau bữa ăn, Dan nói: “Chúng ta hãy chuẩn bị đi nhóm họp”.

Tôi nói: “Chúng tôi không đi nhóm họp nữa. Chúng tôi giận anh Rutherford”.

Dan chắp tay sau lưng đi tới đi lui, và rồi nói: “Chị có biết anh Rutherford khi chị làm báp têm không?”

Tôi đáp: “Dĩ nhiên là không. Dượng biết chị làm báp têm ở Ru-ma-ni mà”.

Dan hỏi: “Tại sao chị làm báp têm?”

Tôi trả lời: “Vì chị biết Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật, và chị muốn dâng đời sống mình để phụng sự ngài”.

Dan nói: “Chị đừng bao giờ quên điều đó! Nếu anh Rutherford bỏ lẽ thật, liệu chị có bỏ không?”

Tôi nói: “Không bao giờ!” Điều đó đã làm cho tôi thức tỉnh, và tôi nói: “Nào, mọi người hãy chuẩn bị đi nhóm họp”. Và kể từ đó chúng tôi không hề bỏ nhóm họp. Tôi thật biết ơn Đức Giê-hô-va về lời sửa sai đầy yêu thương của người em rể!

Xoay xở vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế

Thời kỳ khủng hoảng kinh tế vào thập niên 1930 là một thời kỳ đầy khó khăn. Một ngày kia, anh George đi làm về với vẻ mặt rất buồn bã, anh cho biết là anh đã bị xưởng cao su sa thải. Tôi nói: “Anh đừng lo, chúng mình có một người Cha giàu có ở trên trời, và ngài sẽ không bỏ rơi chúng mình đâu”.

Cùng ngày đó anh George gặp một người bạn có một cái giỏ to đầy nấm. Khi anh George biết được người bạn hái nấm ở đâu, anh trở về nhà với một thùng nấm. Rồi anh dùng hết ba đô la còn lại để mua những cái rổ nhỏ. Tôi hỏi: “Sao anh dám làm thế, trong khi chúng mình có các con nhỏ cần sữa?”

Anh nói: “Em đừng lo, cứ làm như anh nói”. Trong vài tuần kế tiếp, chúng tôi có một hãng nhỏ trong nhà, đó là rửa và gói nấm. Chúng tôi đem bán cho những nhà hàng sang và kiếm được từ 30 đến 40 đô la mỗi ngày, đó là món tiền lớn đối với chúng tôi lúc đó. Ông chủ trại cho phép chúng tôi hái nấm trong đồng cỏ của ông nói rằng ông đã sống ở đó 25 năm và chưa bao giờ thấy nhiều nấm đến thế. Không lâu sau, xưởng cao su gọi anh George trở lại làm.

Giữ vững đức tin của chúng tôi

Vào năm 1943, chúng tôi dọn đến Los Angeles, California, và bốn năm sau đó chúng tôi ổn định cuộc sống ở Elsinore. Chúng tôi mở một tiệm thực phẩm ở đó, và cả gia đình chúng tôi thay phiên nhau trông coi. Lúc đó, Elsinore chỉ là một thị trấn nhỏ chừng 2.000 người, và chúng tôi phải đi 30 cây số đến một thị trấn khác để dự buổi họp của tín đồ đấng Christ. Tôi thật vui mừng biết bao khi thấy một hội thánh nhỏ được thành lập ở Elsinore vào năm 1950! Hiện nay có 13 hội thánh trong vùng này.

Vào năm 1950, con gái chúng tôi là Goldie Elizabeth (thường gọi là Beth) tốt nghiệp Trường Kinh-thánh Ga-la-át của Hội Tháp Canh ở South Lansing, New York, và được bổ nhiệm làm giáo sĩ ở Vê-nê-xu-ê-la. Vào năm 1955, con gái út là Irene vui mừng là chồng được mời làm người truyền giáo lưu động trong công việc vòng quanh. Rồi vào năm 1961, sau khi dự Trường Thánh chức Nước Trời ở South Lansing, New York, thì chúng được chỉ định đi Thái Lan. Đôi khi tôi nhớ các con đến nỗi bật khóc, nhưng rồi tôi nghĩ: ‘Đó là điều mà tôi muốn chúng làm’. Thế nên tôi xách cặp đi rao giảng. Tôi luôn luôn vui vẻ khi trở về nhà.

Vào năm 1966, anh George, chồng yêu dấu của tôi, bị nghẽn mạch máu não. Beth từ Vê-nê-xu-ê-la đã trở về vì vấn đề sức khỏe và giúp tôi chăm sóc cho anh George. Năm sau, anh qua đời, và tôi được an ủi vì anh đã trung thành với Đức Giê-hô-va và đã nhận được phần thưởng ở trên trời. Sau đó Beth dọn đến Tây Ban Nha để phục vụ nơi cần có thêm người rao giảng Nước Trời. Con gái lớn của tôi là Esther bị ung thư và chết vào năm 1977, và vào năm 1984, Anne chết vì bị bệnh bạch cầu. Suốt đời cả hai đều là tôi tớ trung thành của Đức Giê-hô-va.

Khoảng thời gian Anne qua đời, thì Beth và Irene đã trở về từ nhiệm sở hải ngoại. Beth và Irene đã giúp chăm sóc cho hai chị, và tất cả chúng tôi đều đau buồn sâu xa. Sau một thời gian tôi nói với các con: “Thôi đủ rồi! Chúng ta đã an ủi người khác bằng những lời hứa quí báu trong Kinh-thánh. Giờ đây chúng ta phải để những lời hứa đó an ủi chúng ta. Sa-tan muốn cướp mất niềm vui của chúng ta trong việc phụng sự Đức Giê-hô-va, nhưng chúng ta không thể để cho hắn làm thế”.

Gia đình trung thành của chúng tôi ở Ru-ma-ni

Vào năm 1970, tôi và em Mary đi thăm gia đình ở Ru-ma-ni, đó là chuyến đi đáng ghi nhớ. Một em gái của chúng tôi đã qua đời, nhưng chúng tôi có dịp viếng thăm em trai là John và em gái là Lodovica, cả hai vẫn còn sống ở làng Ortelec. Khi chúng tôi viếng thăm, thì cha mẹ đã qua đời. Cha mẹ đã giữ trung thành với Đức Giê-hô-va. Nhiều người nói với chúng tôi rằng cha đã là một cột trụ trong hội thánh. Ngay cả một số cháu chắt của cha ở Ru-ma-ni hiện nay cũng là Nhân-chứng. Chúng tôi cũng viếng thăm nhiều bà con bên chồng, họ đã đứng vững trong lẽ thật của Kinh-thánh.

Vào năm 1970, nước Ru-ma-ni ở dưới chế độ Cộng sản độc ác của Nicolae Ceauşescu, và Nhân-chứng Giê-hô-va bị bắt bớ dữ dội. Con của em John là Flore cùng với một số bà con của tôi, bị giam nhiều năm trong trại tập trung vì đức tin theo đạo đấng Christ, và người bà con bên chồng là Gábor Romocean cũng bị giam. Thảo nào khi chúng tôi được giao phó mang thư đến trụ sở trung ương của Nhân-chứng Giê-hô-va ở New York, các anh em Ru-ma-ni nói rằng họ không thể yên lòng cho đến khi biết được là chúng tôi được bình an rời khỏi nước!

Khi biết rằng thị thực (visa) đã hết hạn, chúng tôi đi đến văn phòng chính phủ ở Ortelec. Đó là trưa Thứ Sáu, và chỉ có một viên chức làm việc. Khi biết được chúng tôi đã viếng thăm ai và cháu trai của chúng tôi đã ở trại tập trung, ông nói: “Các bà hãy rời khỏi nơi đây ngay!”

Em tôi trả lời: “Nhưng hôm nay, không có chuyến xe lửa nào chạy cả”.

Ông nói một cách khẩn cấp: “Chả sao. Đi xe buýt, xe lửa, xe tắc-xi, đi bộ. Cứ đi khỏi nơi đây càng sớm càng tốt!”

Khi chúng tôi sắp đi, ông kêu lại và cho biết là có một chuyến xe lửa quân đội không theo giờ giấc cố định sẽ đi ngang đây vào lúc 6 giờ chiều. Thật may mắn làm sao! Trên chuyến xe lửa thường, chúng tôi sẽ bị kiểm soát giấy tờ nhiều lần, nhưng vì xe lửa này chở quân nhân và chúng tôi là hai thường dân duy nhất, nên không ai hỏi giấy thông hành của chúng tôi. Có thể họ tưởng rằng chúng tôi là bà nội hay bà ngoại của những viên chức.

Qua sáng hôm sau, chúng tôi đến Timisoara, và nhờ một người bạn của người bà con giúp đỡ, nên chúng tôi xin được thị thực. Qua ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi nước. Chúng tôi có được nhiều kỷ niệm đẹp và khó quên về các anh em tín đồ trung thành ở Ru-ma-ni.

Trong những năm sau khi viếng thăm Ru-ma-ni, chúng tôi chỉ biết chút ít về hoạt động rao giảng bên kia Bức màn Sắt. Dầu vậy, chúng tôi tin chắc là anh em tín đồ đấng Christ sẽ giữ trung thành với Đức Chúa Trời—dù hoàn cảnh thế nào đi nữa. Và họ quả đã làm vậy! Thật là một niềm vui khôn xiết khi biết rằng Nhân-chứng Giê-hô-va được công nhận là một tổ chức tôn giáo chính thức ở Ru-ma-ni vào tháng 4-1990! Mùa hè năm sau đó, chúng tôi vui mừng khi nghe những báo cáo về các hội nghị tổ chức ở Ru-ma-ni. Có hơn 34.000 người tham dự tại tám thành phố, và có 2.260 người làm báp têm! Ngày nay có hơn 35.000 người tham gia vào công việc rao giảng ở Ru-ma-ni, và năm ngoái có 86.034 người đến dự Lễ Kỷ Niệm sự chết của đấng Christ.

Lẽ thật vẫn quí báu đối với tôi

Trong vòng một vài năm, tôi ngưng dùng các món biểu hiệu tại Lễ Kỷ Niệm. Tôi nhận thấy những anh có đầy đủ khả năng đã không dùng các món biểu hiệu, và tôi lý luận: ‘Sao Đức Giê-hô-va lại cho tôi đặc ân để đồng kế tự với Con ngài ở trên trời trong khi có những diễn giả nói năng trôi chảy như thế mà lại không được gọi?’ Nhưng khi tôi không dùng các món biểu hiệu, tôi cảm thấy rất bối rối trong lòng, như là tôi đang chối bỏ một điều gì đó. Sau khi dùng nhiều thời giờ học hỏi và khẩn thiết cầu nguyện, tôi bắt đầu dùng các món biểu hiệu lại. Tôi thấy bình an và vui mừng trở lại, và đến nay vẫn thế.

Dù giờ đây tôi không thấy chữ để đọc sách nữa, mỗi ngày tôi nghe băng thâu Kinh-thánh, tạp chí Tháp Canh và Tỉnh Thức! (Anh ngữ). Hơn nữa, tôi vẫn còn tham gia vào công việc rao giảng. Thường thường tôi phân phát từ 60 đến 100 tạp chí mỗi tháng, nhưng khi có đợt rao giảng đặc biệt với tạp chí Tỉnh Thức! vào tháng 4 năm ngoái, tôi phân phát được 323 tạp chí. Với sự giúp đỡ của hai con gái, tôi cũng có thể cho bài giảng trong Trường Thánh Chức Thần Quyền. Tôi vui mừng là tôi có thể tiếp tục khuyến khích người khác. Hầu hết mọi người ở Phòng Nước Trời đều gọi tôi là bà ngoại.

Khi nhìn lại gần 79 năm tận tụy phụng sự Đức Giê-hô-va, tôi cám ơn Đức Chúa Trời mỗi ngày vì ngài cho phép tôi biết lẽ thật quí báu của ngài và dùng đời sống tôi trong công việc của ngài. Tôi rất biết ơn là tôi được sống để thấy sự ứng nghiệm của những lời tiên tri tuyệt diệu trong Kinh-thánh báo trước về sự thâu nhóm những người giống như chiên trong những ngày sau rốt (Ê-sai 60:22; Xa-cha-ri 8:23).

[Hình nơi trang 23]

Em Mary và cha đứng, và tôi, anh George và hai con gái, Esther và Anne

[Hình nơi trang 24]

Bên cạnh hai con gái, Beth và Irene, và chồng của Irene và hai con trai của họ. Tất cả đều trung thành phụng sự Đức Giê-hô-va

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ