Cuốn sách của Đức Chúa Trời
“Chẳng hề có lời tiên-tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh-Linh cảm-động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời” (II PHI-E-RƠ 1:21).
1, 2. a) Tại sao một số người thắc mắc không biết Kinh-thánh có thích hợp với đời sống hiện đại không? b) Chúng ta có thể dùng ba bằng chứng nào để chứng minh Kinh-thánh là sách của Đức Chúa Trời?
KINH-THÁNH có thích hợp cho những người sống trước thềm thế kỷ 21 không? Một số người nghĩ là không. Bác sĩ Eli S. Chesen giải thích tại sao ông cảm thấy Kinh-thánh đã lỗi thời: “Không ai sẽ tán thành việc dùng một sách giáo khoa hóa học ấn hành năm 1924 để dạy lớp hóa học ngày nay, vì người ta đã tiến bộ rất nhiều kể từ thời đó”. Bề ngoài thì lập luận này nghe có vẻ hợp lý. Nói cho cùng thì kể từ thời Kinh-thánh được viết ra, loài người đã biết được rất nhiều về khoa học, sức khỏe tâm thần, và cách cư xử của con người. Vì vậy, một số người tự hỏi: ‘Một sách xưa như thế tránh sao khỏi bị sai lầm về khoa học? Làm thế nào sách đó có lời khuyên thực dụng cho đời sống hiện đại?’
2 Chính Kinh-thánh cho chúng ta câu trả lời. Nơi II Phi-e-rơ 1:21, chúng ta biết được là những nhà tiên tri trong Kinh-thánh “bởi Đức Thánh-Linh cảm-động mà [họ] đã nói bởi Đức Chúa Trời”. Do đó, Kinh-thánh chứng tỏ là sách của Đức Chúa Trời. Thế thì chúng ta thuyết phục người khác thế nào để họ tin? Chúng ta hãy xem xét ba bằng chứng cho thấy Kinh-thánh là Lời Đức Chúa Trời: 1) Kinh-thánh chính xác về khoa học, 2) Kinh-thánh có những nguyên tắc vượt thời gian, thực dụng cho đời sống hiện đại, và 3) Kinh-thánh có những lời tiên tri đặc biệt đã ứng nghiệm, được chứng minh bằng sự thật lịch sử.
Một sách phù hợp với khoa học
3. Tại sao Kinh-thánh không bị đe dọa bởi những khám phá của khoa học?
3 Kinh-thánh không phải là sách dạy về khoa học, nhưng là sách nói sự thật, và sự thật đứng vững trước thử thách của thời gian (Giăng 17:17). Kinh-thánh không bị đe dọa bởi những khám phá của khoa học. Khi Kinh-thánh đề cập đến vấn đề khoa học, thì hoàn toàn tránh khỏi các giả thuyết “khoa học” cổ xưa, những điều bị chứng tỏ là huyền thoại. Thật vậy, Kinh-thánh nói những lời không những chính xác về khoa học, mà còn đi ngược hẳn với niềm tin phổ thông thời bấy giờ. Thí dụ, hãy xem xét sự phù hợp giữa Kinh-thánh và y khoa.
4, 5. a) Những thầy thuốc xưa không hiểu gì về bệnh tật? b) Tại sao Môi-se biết rõ cách trị bệnh của các thầy thuốc Ai Cập?
4 Những thầy thuốc thời xưa không hiểu rõ bệnh tật truyền nhiễm thế nào, và họ cũng không nhận biết tầm quan trọng của phép vệ sinh trong việc ngăn ngừa bệnh tật. Khi so với các tiêu chuẩn hiện đại, nhiều cách điều trị thời xưa có vẻ rất man rợ. Một trong những tài liệu y khoa cổ xưa nhất còn tồn tại ngày nay là Cuộn giấy Ebers, một tập biên soạn nguồn kiến thức y học của người Ai Cập có từ khoảng năm 1550 TCN. Cuộn giấy này liệt kê 700 cách điều trị nhiều bệnh khác nhau, “từ việc bị cá sấu cắn cho đến việc đau móng chân”. Đa số các phương thuốc này vô hiệu nghiệm, nhưng một số khác còn rất nguy hại nữa. Để chữa một vết thương, một phương thuốc họ dùng là trộn phân người với những chất khác và thoa lên.
5 Tài liệu này ghi lại những phương thuốc của người Ai Cập được viết cùng khoảng thời gian với những quyển sách đầu của Kinh-thánh, kể cả Luật Môi-se. Môi-se sinh năm 1593 TCN và lớn lên tại Ai Cập (Xuất Ê-díp-tô Ký 2:1-10). Vì được nuôi dưỡng trong nhà của Pha-ra-ôn, Môi-se “được học cả sự khôn-ngoan của người Ê-díp-tô” (Công-vụ các Sứ-đồ 7:22). Ông biết các “thầy thuốc” ở Ai Cập (Sáng-thế Ký 50:1-3). Những cách điều trị nguy hại hay vô hiệu quả của họ có ảnh hưởng đến các sách ông viết không?
6. Luật Môi-se có quy luật gì về vệ sinh được ngành y khoa hiện đại xem là hợp lý?
6 Ngược lại, Luật Môi-se bao hàm những quy luật vệ sinh rất hợp lý theo y khoa hiện đại. Thí dụ, một luật áp dụng ở các trại đòi hỏi phải lấp phân dưới đất ở ngoài trại quân (Phục-truyền Luật-lệ Ký 23:13). Đây là một biện pháp ngừa bệnh hết sức tân tiến. Luật này giữ cho nguồn nước không bị ô nhiễm và cũng che chở dân khỏi bệnh lỵ trực trùng Shigella truyền qua ruồi và những bệnh tiêu chảy khác. Những bệnh này hiện còn giết hại hàng triệu người mỗi năm, hầu hết ở những nước đang phát triển.
7. Luật Môi-se có những quy luật gì về vệ sinh giúp ngăn ngừa bệnh lây ra thêm?
7 Luật Môi-se cũng đưa ra những quy luật vệ sinh khác nhằm giúp dân Y-sơ-ra-ên ngừa bệnh lây lan ra thêm. Người nào bị bệnh hoặc tình nghi là mắc bệnh truyền nhiễm thì phải cách ly (Lê-vi Ký 13:1-5). Quần áo hay bình lọ nào chạm phải con vật chết (có lẽ vì bệnh tật) phải đem rửa sạch trước khi dùng lại hay phải tiêu hủy đi (Lê-vi Ký 11:27, 28, 32, 33). Bất cứ người nào đụng đến xác chết thì bị xem là ô uế và phải được tẩy sạch. Điều này bao gồm việc giặt quần áo và tắm rửa. Trong thời gian bảy ngày bị xem là ô uế, người ấy phải tránh chung đụng với người khác (Dân-số Ký 19:1-13).
8, 9. Tại sao có thể nói quy tắc vệ sinh trong Luật Môi-se rất tiến bộ so với thời bấy giờ?
8 Quy tắc vệ sinh này cho thấy sự khôn ngoan rất tiến bộ so với thời bấy giờ. Y học thời nay biết rõ về sự truyền nhiễm và việc ngừa bệnh. Thí dụ, y học tiến bộ trong thế kỷ 19 đã dẫn đến việc khử trùng—giữ sạch sẽ làm giảm sự nhiễm trùng. Kết quả là sự nhiễm trùng và chết sớm đã giảm đi rất nhiều. Tại nhiều nước Âu Châu và Hoa Kỳ, những người sinh vào năm 1900 có tuổi thọ trung bình chưa tới 50. Từ đó trở đi, tuổi thọ này đã gia tăng rất nhiều, không những nhờ sự tiến bộ y khoa trong việc kiểm soát bệnh tật mà còn nhờ tình trạng sinh sống và vệ sinh tốt hơn.
9 Vậy mà hàng ngàn năm trước khi ngành y học biết được cách bệnh tật lan truyền, Kinh-thánh đã đưa ra những biện pháp hợp lý để ngừa bệnh, đó là một sự che chở để chống lại bệnh tật. Chúng ta không ngạc nhiên là Môi-se có thể nói rằng những người Y-sơ-ra-ên nói chung sống vào thời bấy giờ đã thọ 70 hay 80 tuổi (Thi-thiên 90:10). Làm sao Môi-se biết được những quy luật vệ sinh đó? Chính Kinh-thánh giải thích: Luật Pháp “được ban ra bởi mấy thiên-sứ” (Ga-la-ti 3:19). Đúng vậy, Kinh-thánh không phải là sách ghi sự khôn ngoan của loài người, nhưng là sách của Đức Chúa Trời.
Cuốn sách thực dụng cho đời sống hiện đại
10. Dù Kinh-thánh được viết xong cách nay gần 2.000 năm, lời khuyên trong đó vẫn đúng như thế nào?
10 Các sách cẩm nang thường trở thành lỗi thời và chẳng bao lâu phải sửa đổi hay thay thế. Nhưng Kinh-thánh thật sự độc nhất vô nhị. Thi-thiên 93:5 nói: “Các chứng-cớ Ngài rất là chắc-chắn [đáng tin cậy, NW]”. Mặc dù Kinh-thánh được viết xong cách đây gần 2.000 năm, những lời Kinh-thánh vẫn áp dụng được, và mang lại hiệu quả đồng đều cho mọi người, bất kể màu da và quốc gia chúng ta sinh sống. Chúng ta hãy xem xét vài thí dụ về lời khuyên vượt thời gian, “rất đáng tin cậy” của Kinh-thánh.
11. Cách đây vài chục năm, nhiều bậc cha mẹ đã được thuyết phục để tin gì về cách sửa dạy con cái?
11 Cách đây vài chục năm, nhiều bậc cha mẹ—nghe theo những “khái niệm mới mẻ” về cách dạy dỗ con cái—tưởng rằng mình “bị cấm không được cấm”. Họ sợ rằng con cái sẽ bực bội và bị khủng hoảng tinh thần nếu cha mẹ đặt quy luật cho nó. Dù có thiện ý, nhưng nhiều nhà cố vấn về cách dạy dỗ con cái cứ nhất định là các bậc cha mẹ chỉ nên sửa trị con cái một cách hết sức dịu dàng. Tờ The New York Times báo cáo là nhiều nhà chuyên môn đó bây giờ lại “khuyến khích các bậc cha mẹ nên tỏ ra khắt khe một chút, nắm lại quyền kiểm soát”.
12. Danh từ Hy Lạp được dịch là “sự sửa-phạt” có nghĩa gì và tại sao con cái cần sự sửa phạt đó?
12 Tuy nhiên, từ xưa đến nay, Kinh-thánh vẫn cho lời khuyên rõ ràng, thăng bằng về cách dạy dỗ con cái. Kinh-thánh khuyên: “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con-cái mình giận-dữ, hãy dùng sự sửa-phạt khuyên-bảo của Chúa mà nuôi-nấng chúng nó” (Ê-phê-sô 6:4). Danh từ Hy Lạp được dịch là “sự sửa-phạt” có nghĩa là “sự dạy bảo, huấn luyện, chỉ dẫn”. Kinh-thánh nói rằng sự sửa phạt, hoặc chỉ dẫn, cho thấy tình thương của cha mẹ (Châm-ngôn 13:24). Con cái phát triển tốt khi được hướng dẫn rõ ràng về mặt đạo đức để giúp chúng biết phân biệt phải trái. Sửa dạy con cái một cách thích hợp sẽ giúp chúng cảm thấy an toàn; và cho thấy cha mẹ chăm lo cho chúng và quan tâm đến việc chúng nên người. (So sánh Châm-ngôn 4:10-13).
13. a) Nói về vấn đề sửa phạt, Kinh-thánh lưu ý cha mẹ đến điều gì? b) Sự sửa phạt nào mà Kinh-thánh tán thành?
13 Nhưng Kinh-thánh lưu ý các bậc cha mẹ đến khía cạnh này của vấn đề sửa dạy. Cha mẹ không bao giờ nên lạm dụng quyền hành (Châm-ngôn 22:15). Không nên trừng phạt con cái một cách độc ác. Một gia đình sống theo nguyên tắc Kinh-thánh không hành động hung bạo (Thi-thiên 11:5). Họ cũng không làm đau lòng con cái bằng lời cay nghiệt, luôn chỉ trích và mỉa mai nhức nhối, vì những điều này có thể làm con chán nản. (So sánh Châm-ngôn 12:18). Kinh-thánh cảnh giác một cách khôn ngoan: “Cha mẹ đừng trách mắng con cái quá nặng nề, khiến chúng nản lòng” (Cô-lô-se 3:21, Bản Diễn Ý). Kinh-thánh khuyến khích cha mẹ dùng biện pháp phòng ngừa. Phục-truyền Luật-lệ Ký 11:19 khuyên cha mẹ nên lợi dụng những lúc rảnh rỗi để ghi tạc những tiêu chuẩn đạo đức và giá trị thiêng liêng vào lòng con cái. Những lời khuyên rõ ràng, hợp lý về sự dạy con như thế thích hợp với thời xưa cũng như thời nay.
14, 15. a) Ngoài lời khuyên khôn ngoan, Kinh-thánh còn có những điều gì khác? b) Kinh-thánh dạy điều gì có thể giúp mọi người khác chủng tộc và quốc gia xem nhau là bình đẳng?
14 Kinh-thánh không chỉ ghi lại lời khuyên khôn ngoan. Thông điệp của Kinh-thánh động đến lòng người. Hê-bơ-rơ 4:12 nói: “Lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh-nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem-xét tư-tưởng và ý-định trong lòng”. Chúng ta hãy xem xét một trường hợp cho thấy quyền lực thúc đẩy của Kinh-thánh.
15 Loài người ngày nay bị chia rẽ bởi ranh giới chủng tộc, quốc gia và sắc tộc. Những bức tường nhân tạo này gây ra chết chóc cho rất nhiều người vô tội trong chiến tranh trên khắp thế giới. Trái lại, Kinh-thánh dạy dỗ mọi người khác chủng tộc và quốc gia xem nhau bình đẳng. Chẳng hạn Công-vụ các Sứ-đồ 17:26 nói rằng Đức Chúa Trời “đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người”. Điều này cho thấy thật sự chỉ có một chủng tộc mà thôi: chủng tộc loài người! Kinh-thánh khuyến khích chúng ta “trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời”, và nói: “Đức Chúa Trời chẳng hề vị-nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính-sợ Ngài và làm sự công-bình, thì nấy được đẹp lòng Chúa” (Ê-phê-sô 5:1; Công-vụ các Sứ-đồ 10:34, 35). Sự hiểu biết này đã hợp nhất những người thật sự cố gắng sống theo những sự dạy dỗ của Kinh-thánh, và đã tác động sâu xa đến tấm lòng, phá vỡ bức tường nhân tạo chia cách người ta. Sự hiểu biết này có thật sự thực dụng trong thế giới ngày nay không?
16. Hãy kể lại một kinh nghiệm cho thấy Nhân-chứng Giê-hô-va thật sự là đoàn thể anh em quốc tế.
16 Chắc chắn có! Rất nhiều người biết Nhân-chứng Giê-hô-va vì tình anh em quốc tế của họ. Tình thương này đã đoàn kết những người có quá trình, gốc gác khác nhau mà bình thường không sống hòa thuận với nhau được. Thí dụ, trong vụ xung đột sắc tộc tại Rwanda, Nhân-chứng Giê-hô-va bộ lạc này liều mình che chở cho anh em tín đồ đấng Christ bộ lạc kia. Có trường hợp một Nhân-chứng Hutu đã giấu trong nhà một gia đình Tutsi gồm sáu người thuộc hội thánh anh. Đáng buồn là cuối cùng gia đình Tutsi này bị phát hiện và bị giết. Anh Hutu và gia đình anh bị kẻ mưu sát tìm giết, nên họ phải chạy trốn đến Tanzania. Chúng ta nghe tường thuật về nhiều trường hợp tương tự như thế. Nhân-chứng Giê-hô-va sẵn sàng công nhận rằng sở dĩ họ có được sự hợp nhất là vì quyền lực thúc đẩy của thông điệp Kinh-thánh đã động tới lòng họ một cách sâu xa. Sự kiện Kinh-thánh có thể đoàn kết mọi người trong thế gian đầy ghen ghét này là bằng chứng hùng hồn cho thấy Kinh-thánh đến từ Đức Chúa Trời.
Sách có lời tiên tri chính xác
17. Những lời tiên tri của Kinh-thánh khác với sự tiên đoán của người ta như thế nào?
17 II Phi-e-rơ 1:20 nói: “Chẳng có lời tiên-tri nào trong Kinh-thánh lấy ý riêng giải nghĩa được”. Các nhà tiên tri trong Kinh-thánh không phân tích tình hình thế giới để rồi dự báo tùy theo cách họ diễn giải những diễn tiến của thời cuộc. Họ cũng không tiên đoán một cách mù mờ để sau đó có thể diễn giải cho thích hợp với bất cứ biến cố nào xảy ra trong tương lai. Để thí dụ chúng ta hãy xem một lời tiên tri trình bày rất là rõ ràng và đã báo trước về một biến cố mà những người thời bấy giờ hoàn toàn không ngờ đến.
18. Tại sao dân cư thành Ba-by-lôn xưa chắc hẳn đã cảm thấy rất an toàn, nhưng Ê-sai đã tiên tri gì về thành đó?
18 Vào thế kỷ thứ bảy TCN, Ba-by-lôn được xem là thủ phủ vô địch của Đế Quốc Ba-by-lôn. Thành phố nằm ở hai bên bờ sông Ơ-phơ-rát, và sông được dùng làm hào sâu và rộng với một mạng lưới kênh đào. Thành phố cũng có hai tường bảo vệ khổng lồ, yểm trợ bằng những tháp phòng thủ. Vì thế mà dân trong thành cảm thấy rất an toàn. Nhưng vào thế kỷ thứ tám TCN, trước khi Ba-by-lôn đạt đến thời phồn vinh nhất, thì nhà tiên tri Ê-sai báo trước: “Ba-by-lôn... sẽ giống như Sô-đôm và Gô-mô-rơ mà Đức Chúa Trời đã lật-đổ. Nó sẽ chẳng hề có người ở nữa, trải đời nọ sang đời kia không ai ở đó; người A-rạp không đóng trại tại đó, những kẻ chăn cũng chẳng cầm bầy mình ở đó” (Ê-sai 13:19, 20). Hãy lưu ý là lời tiên tri này báo trước Ba-by-lôn không những bị tiêu diệt mà còn bị bỏ hoang luôn. Đây quả là một lời tiên đoán mạnh bạo! Có thể nào Ê-sai viết lời tiên tri này sau khi ông thấy sự hoang vu của Ba-by-lôn không? Lịch sử cho biết là không!
19. Tại sao lời tiên tri của Ê-sai không ứng nghiệm trọn vẹn vào ngày mồng 5 tháng 10, 539 TCN?
19 Vào đêm mồng 5 tháng 10, 539 TCN, Ba-by-lôn thất thủ trước sự tấn công của quân Mê-đi và Phe-rơ-sơ dưới quyền Đại Đế Si-ru. Tuy nhiên, lời tiên tri của Ê-sai không ứng nghiệm trọn vẹn ngay lúc đó. Sau khi Vua Si-ru chiếm lấy Ba-by-lôn thì thành đó vẫn có người ở trong nhiều thế kỷ, dù chỉ là một thành yếu. Vào thế kỷ thứ hai TCN, lúc mà Cuộn Ê-sai tại Biển Chết được chép lại, người Parthia chiếm lấy thành Ba-by-lôn, lúc đó thành này là miếng mồi ngon cho những nước láng giềng tranh giành nhau. Sử gia Do Thái Josephus thuật lại rằng “nhiều người” Do Thái sống ở thành đó vào thế kỷ thứ nhất TCN. Theo cuốn The Cambridge Ancient History, các con buôn ở Palmyra lập một khu buôn bán phồn thịnh ở Ba-by-lôn vào năm 24 CN. Vậy, cho tới thế kỷ thứ nhất CN, thành này vẫn chưa hoang vu trọn vẹn; nhưng sách Ê-sai đã viết xong rất lâu trước đó (I Phi-e-rơ 5:13).
20. Có bằng chứng gì cho thấy Ba-by-lôn cuối cùng đã trở thành một “đống hư-nát”?
20 Ê-sai đã chết trước khi thành Ba-by-lôn bị bỏ hoang. Nhưng đúng như lời tiên tri, thành này cuối cùng trở thành một “đống hư-nát” (Giê-rê-mi 51:37). Theo học giả Hê-bơ-rơ là Jerome (sinh vào thế kỷ thứ tư CN) thì đến thời ông, Ba-by-lôn là một khu săn bắn, nơi ở của “đủ loại thú rừng”, và vẫn còn hoang vu đến ngày nay. Nếu có sự trùng tu nào ở Ba-by-lôn thì cũng chỉ hấp dẫn du khách mà thôi, nhưng “con và cháu” của Ba-by-lôn thì không còn nữa, như lời Ê-sai đã tiên tri (Ê-sai 14:22).
21. Tại sao những nhà tiên tri trung thành có thể tiên tri về tương lai một cách chính xác?
21 Nhà tiên tri Ê-sai không phỏng đoán theo tình hình. Ông cũng không lấy lịch sử mà viết lại thành lời tiên tri. Ê-sai là nhà tiên tri thật. Tất cả các nhà tiên tri trung thành khác trong Kinh-thánh cũng vậy. Tại sao những người này làm được điều mà không ai khác làm được: đó là báo trước chuyện tương lai một cách chính xác? Câu trả lời quá rõ ràng. Các lời tiên tri đến từ Đức Chúa Trời Giê-hô-va, Đấng “đã rao sự cuối-cùng từ buổi đầu-tiên” (Ê-sai 46:10).
22. Tại sao chúng ta nên hết lòng khuyến khích những người ngay thẳng chính mắt xem xét Kinh-thánh?
22 Vậy thì Kinh-thánh có đáng cho chúng ta xem xét không? Chắc chắn có! Nhưng nhiều người chưa tin như vậy. Họ đã có định kiến về Kinh-thánh dù họ chưa từng đọc sách này. Chắc bạn còn nhớ ông giáo sư được đề cập ở phần đầu bài trước. Ông đồng ý học Kinh-thánh, và sau khi xem xét Kinh-thánh một cách kỹ lưỡng, ông kết luận rằng Kinh-thánh là sách của Đức Chúa Trời. Cuối cùng ông làm báp têm để trở thành Nhân-chứng Giê-hô-va, và hiện nay phụng sự với tư cách là một trưởng lão! Chúng ta hãy hết lòng khuyến khích những người ngay thẳng chính mắt xem xét Kinh-thánh để rồi mới có quan điểm riêng về cuốn sách này. Chúng ta hãy tin tưởng rằng nếu họ thành thật xem xét Kinh-thánh, họ sẽ nhận biết đó là cuốn sách độc nhất vô nhị, và quả là cuốn sách cho muôn dân!
Bạn giải thích được không?
◻ Bạn có thể dùng Luật Môi-se để chứng tỏ Kinh-thánh không đến từ loài người như thế nào?
◻ Kinh-thánh có những nguyên tắc vượt thời gian nào thực dụng cho đời sống hiện đại?
◻ Tại sao lời tiên tri nơi Ê-sai 13:19, 20 không thể được viết sau khi biến cố đã xảy ra?
◻ Chúng ta nên khuyến khích những người có lòng ngay thẳng làm gì, và tại sao?
[Khung nơi trang 19]
Còn những điều không chứng minh được thì sao?
Kinh-thánh nói về nhiều điều thiếu bằng chứng cụ thể. Thí dụ, những gì Kinh-thánh nói về lĩnh vực vô hình, chỗ ở của các tạo vật thần linh, khoa học không thể chứng minh hay bác bỏ được. Những điều không thể chứng minh đó có nhất thiết làm cho Kinh-thánh mâu thuẫn với khoa học không?
Một nhà địa chất học về hành tinh đã thắc mắc về điều này khi ông bắt đầu học hỏi Kinh-thánh với Nhân-chứng Giê-hô-va cách đây vài năm. Ông kể lại: “Tôi phải thú nhận rằng mới đầu rất khó chấp nhận Kinh-thánh vì tôi không thể dùng khoa học để chứng minh được vài điều Kinh-thánh nói”. Người có lòng thành thật này tiếp tục học Kinh-thánh và cuối cùng đã tin bằng chứng hiện có chứng tỏ sách này là Lời Đức Chúa Trời. Ông giải thích: “Điều này làm tôi ít muốn chứng minh từng dữ kiện một trong Kinh-thánh nữa. Một người có khuynh hướng theo khoa học phải sẵn lòng xem xét Kinh-thánh theo quan điểm thiêng liêng, nếu không thì không bao giờ có thể chấp nhận lẽ thật. Chúng ta không thể mong khoa học chứng minh mỗi lời của Kinh-thánh, nhưng không có nghĩa là vài điều không chứng minh được là không có thật. Điều quan trọng là khi chứng minh được thì những điều Kinh-thánh nói tỏ ra là chính xác”.
[Hình nơi trang 17]
Môi-se ghi lại những quy luật vệ sinh rất tiến bộ so với thời bấy giờ