THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w11 1/10 trg 26-31
  • Thành Giê-ru-sa-lem xưa bị hủy diệt khi nào?—Phần 1

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Thành Giê-ru-sa-lem xưa bị hủy diệt khi nào?—Phần 1
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2011
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • “Bảy mươi năm” dành cho ai?
  • Khi nào “bảy mươi năm” bắt đầu?
  • Khi nào “bảy mươi năm” chấm dứt?
  • Sự ghi chép của các sử gia cổ đại chính xác đến đâu?
  • Danh sách của Ptolemy
  • Kết luận dựa trên bằng chứng
  • Thành Giê-ru-sa-lem xưa bị hủy diệt khi nào?—Phần 2
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2011
  • Bài học số 3—Xác định những biến cố trong dòng thời gian
    Thánh Chức Nước Trời—2003
  • Hướng dẫn cách tra các câu Kinh Thánh
    Đề tài khác
  • Dòng thời gian của Phần 2
    Hãy can đảm bước đi với Đức Chúa Trời
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2011
w11 1/10 trg 26-31

Thành Giê-ru-sa-lem xưa bị hủy diệt khi nào?​—Phần 1

Tại sao quan trọng? Bằng chứng cho thấy gì?

Đây là bài thứ nhất của loạt bài đăng trong hai số Tháp Canh liên tiếp, thảo luận những câu hỏi chuyên sâu xoay quanh thời điểm thành Giê-ru-sa-lem cổ xưa bị hủy diệt. Hai bài này đưa ra những lời giải đáp dựa trên Kinh Thánh và được nghiên cứu kỹ nhằm giải tỏa thắc mắc cho một số độc giả.

“Nói chung, các sử gia và nhà khảo cổ công nhận thành Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt năm 586 hoặc 587 TCNa. Vậy, tại sao Nhân Chứng Giê-hô-va nói sự kiện đó xảy ra năm 607 TCN? Lời khẳng định đó dựa vào đâu?”.

Một độc giả đã thắc mắc như thế. Tại sao phải quan tâm đến năm chính xác thành Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lôn là Nebuchadnezzar (Nê-bu-cát-nết-sa) II san bằng? Thứ nhất, sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của dân Đức Chúa Trời. Một sử gia nói nó dẫn đến “một tai họa, đúng hơn là một đại họa”. Đó là sự sụp đổ của đền thờ từng là trung tâm thờ phượng Đức Chúa Trời Toàn Năng trong hơn 400 năm. Một người viết Thi-thiên trong Kinh Thánh kêu than: “Lạy Đức Chúa Trời, các nước đã... làm cho đền thánh Ngài thành ô uế và gây cho Giê-ru-sa-lem đổ nát”.—Thi-thiên 79:1, Bản Dịch Mớib.

Thứ hai, khi biết “đại họa” bắt đầu năm nào và hiểu việc tái lập sự thờ phượng thật ở Giê-ru-sa-lem làm ứng nghiệm một lời tiên tri của Kinh Thánh ra sao, bạn sẽ thêm tin cậy tính xác thực của Lời Đức Chúa Trời. Vậy, tại sao Nhân Chứng Giê-hô-va tin sự kiện ấy xảy ra vào thời điểm chênh lệch đến 20 năm so với năm nhiều người công nhận? Nói đơn giản là vì chính những bằng chứng trong Kinh Thánh.

“Bảy mươi năm” dành cho ai?

Nhiều năm trước sự hủy diệt, nhà tiên tri người Do Thái là Giê-rê-mi cho biết một thông tin quan trọng giúp xác định thời điểm xảy ra biến cố đó. Ông cảnh báo “hết thảy dân-cư Giê-ru-sa-lem” như sau: “Cả đất nầy sẽ trở nên hoang-vu gở-lạ, các nước nầy sẽ phục-sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm” (Giê-rê-mi 25:1, 2, 11). Sau đó, nhà tiên tri truyền thêm lời phán của Đức Giê-hô-va: “Sau bảy mươi năm ở xứ Ba-by-lon, các người sẽ được Ta đưa về thành Giê-ru-sa-lem như Ta đã hứa” (Giê-rê-mi 29:10, Trịnh Văn Căn). “Bảy mươi năm” có nghĩa gì? Làm sao thời kỳ này giúp xác định thời điểm thành Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt?

Thay vì nói 70 năm “ở xứ Ba-by-lôn”, nhiều bản dịch nói “cho Ba-by-lôn” (BDM). Vì thế, một số sử gia cho rằng thời kỳ 70 năm áp dụng cho đế quốc Ba-by-lôn. Theo lịch sử thế tục, người Ba-by-lôn cai trị xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem cổ xưa khoảng 70 năm, từ khoảng 609 đến 539 TCN, khi thủ đô Ba-by-lôn bị chiếm đóng.

Tuy nhiên, Kinh Thánh nói rõ 70 năm là án phạt mà Đức Chúa Trời áp dụng cho dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, dân đã lập giao ước là vâng lời Ngài (Xuất Ê-díp-tô Ký 19:3-6). Khi họ không chịu từ bỏ đường lối xấu, Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ sai... Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đến nghịch cùng đất nầy, nghịch cùng dân-cư nó, và các nước ở chung-quanh” (Giê-rê-mi 25:4, 5, 8, 9). Dù các nước kế cận cũng sẽ phải chịu cơn thịnh nộ của Ba-by-lôn, Giê-rê-mi gọi sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem và 70 năm lưu đày sau đó là “hình phạt con gái dân tôi”, vì Giê-ru-sa-lem đã “phạm tội trọng”.—Ca-thương 1:8; 3:42; 4:6, BDM.

Vậy theo Kinh Thánh, thời kỳ 70 năm là án phạt nặng nề giáng trên dân Giu-đa, và Đức Chúa Trời dùng Ba-by-lôn làm công cụ để thi hành án phạt này. Thế nhưng, Ngài phán với dân Do Thái: “Khi bảy mươi năm sẽ mãn..., ta sẽ... khiến các ngươi trở về đất nầy”, tức là xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.—Giê-rê-mi 29:10.

Khi nào “bảy mươi năm” bắt đầu?

E-xơ-ra là một sử gia sống vào thời mà “bảy mươi năm” đã kết thúc. Dưới sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, ông viết về Nê-bu-cát-nết-sa: “Phàm ai thoát khỏi gươm, thì người bắt đem qua Ba-by-lôn; chúng làm tôi-mọi cho người và cho con trai người cho đến đời nước Phe-rơ-sơ [Ba Tư] hưng-khởi; để cho ứng-nghiệm lời của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng Giê-rê-mi mà phán ra, tức cho đến khi xứ được hưởng các năm sa-bát của nó; vì trọn lúc xứ bị bỏ hoang, thì dường như giữ sa-bát, cho đến khi mãn hạn bảy mươi năm”.—2 Sử-ký 36:20, 21.

Như vậy, 70 năm là thời kỳ xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem “được hưởng các năm sa-bát”. Điều này có nghĩa là xứ sẽ không được trồng trọt, tức không có ai gieo hạt hay cắt tỉa vườn nho (Lê-vi Ký 25:1-5). Do tội bất trung (có thể gồm việc không giữ tất cả các năm Sa-bát), dân Đức Chúa Trời chịu án phạt là xứ sẽ không được trồng trọt và bị hoang vu suốt 70 năm.—Lê-vi Ký 26:27, 32-35, 42, 43.

Khi nào xứ Giu-đa trở nên hoang vu và không được trồng trọt? Lưu ý là quân Ba-by-lôn, dưới sự chỉ huy của Nê-bu-cát-nết-sa, đã tấn công xứ hai lần, vào khác thời điểm. Vậy, khi nào 70 năm bắt đầu? Chắc chắn không phải sau lần đầu Nê-bu-cát-nết-sa vây hãm thành Giê-ru-sa-lem. Tại sao? Dù lần đó Nê-bu-cát-nết-sa có bắt dân Giê-ru-sa-lem lưu đày sang Ba-by-lôn, ông vẫn để lại nhiều người trong xứ. Ông cũng chưa tàn phá thành. Nhiều năm sau đợt lưu đày đầu tiên, những người còn sót lại, “những thường-dân”, vẫn sinh sống trong xứ Giu-đa (2 Các Vua 24:8-17). Nhưng rồi có sự thay đổi lớn.

Một cuộc nổi loạn của người Do Thái đã khiến quân Ba-by-lôn trở lại (2 Các Vua 24:20; 25:8-10). Họ san bằng Giê-ru-sa-lem, kể cả đền thờ, và bắt nhiều người lưu đày sang Ba-by-lôn. Trong vòng hai tháng, “cả dân-sự [những người còn lại trong xứ], từ nhỏ đến lớn, và những quan tướng, bèn chỗi dậy, đi đến xứ Ê-díp-tô, bởi vì sợ người Canh-đê [“Ba-by-lôn”, New International version] báo-thù” (2 Các Vua 25:25, 26). Trong năm đó, vào tháng thứ bảy theo lịch Do Thái (tháng Tishri, tương đương cuối tháng 9, đầu tháng 10 dương lịch), khi xứ đã bị hoang vu và không có ai trồng trọt, mới có thể nói xứ bắt đầu hưởng các năm Sa-bát. Qua tiên tri Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời phán với người Do Thái trốn sang Ai Cập: “Các ngươi có thấy mọi tai-vạ mà ta đã giáng cho Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa. Kìa, những thành ấy ngày nay hoang-vu không dân ở” (Giê-rê-mi 44:1, 2). Vì vậy, chúng ta có mọi lý do để tin rằng sự kiện này là khởi đầu của thời kỳ 70 năm. Nhưng đó là năm nào? Để trả lời, chúng ta cần xem khi nào thời kỳ đó chấm dứt.

Khi nào “bảy mươi năm” chấm dứt?

Nhà tiên tri Đa-ni-ên, người sống đến khi “nước Phe-rơ-sơ hưng-khởi”, đã có mặt tại Ba-by-lôn và tính khi nào 70 năm sẽ chấm dứt. Ông viết: “Ta, Đa-ni-ên, bởi các sách biết rằng số năm mà lời Đức Giê-hô-va đã phán cùng đấng tiên-tri Giê-rê-mi, để cho trọn sự hoang-vu thành Giê-ru-sa-lem, là bảy mươi năm”.—Đa-ni-ên 9:1, 2.

E-xơ-ra suy ngẫm về những lời tiên tri của Giê-rê-mi và ông liên kết thời điểm chấm dứt “bảy mươi năm” với thời điểm “Đức Giê-hô-va... cảm-động lòng Si-ru [Cyrus], vua Phe-rơ-sơ, rao-truyền [chiếu chỉ] trong khắp nước mình” (2 Sử-ký 36:21, 22). Khi nào dân Do Thái được tự do? Chiếu chỉ ra lệnh giải phóng họ được ban bố vào “năm thứ nhứt đời Si-ru, vua Phe-rơ-sơ trị-vì”. (Xin xem khung “Một năm then chốt trong lịch sử”). Thế nên, vào mùa thu năm 537 TCN, dân Do Thái đã về đến Giê-ru-sa-lem để tái lập sự thờ phượng thật.—E-xơ-ra 1:1-5; 2:1; 3:1-5.

Như vậy, theo Kinh Thánh, thời kỳ 70 năm chấm dứt vào năm 537 TCN. Tính ngược trở lại thì thời kỳ đó bắt đầu năm 607 TCN.

Tuy nhiên, nếu bằng chứng trong Kinh Thánh cho thấy Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt năm 607 TCN, tại sao nhiều chuyên gia cho rằng sự kiện ấy xảy ra năm 587 TCN? Họ dựa vào hai nguồn tài liệu: sự ghi chép của các sử gia cổ đại và danh sách các vua của Ptolemy. Những nguồn thông tin đó có đáng tin cậy hơn Kinh Thánh không? Hãy cùng xem.

Sự ghi chép của các sử gia cổ đại chính xác đến đâu?

Các sử gia sống gần thời điểm Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt đưa ra những thông tin không nhất quán về các vua của Tân Ba-by-lônc. (Xin xem khung “Các vua Tân Ba-by-lôn”). Niên đại lịch sử dựa trên ghi chép của họ không hòa hợp với Kinh Thánh. Tuy nhiên, sự ghi chép của họ chính xác đến đâu?

Một trong những sử gia sống gần thời kỳ Tân Ba-by-lôn nhất là Berossus, người Ba-by-lôn và là “thầy tế của thần Bên”. Khoảng năm 281 TCN, ông viết tác phẩm Babyloniaca. Bản gốc của tác phẩm này đã mất, chỉ còn vài phần được bảo tồn nhờ các sử gia khác ghi lại trong tác phẩm của họ. Berossus nói là ông sử dụng “những sách được lưu giữ cẩn thận ở Ba-by-lôn”1. Ông có thật sự là một sử gia đáng tin cậy không? Hãy xem một ví dụ.

Berossus viết vua A-si-ri là San-chê-ríp kế thừa “ngôi của anh trai”; “sau ông, con trai ông [Esarhaddon (Ê-sạt-ha-đôn) cai trị] 8 năm; và tiếp đó là Sammuges [Shamash-shuma-ukin] 21 năm” (III, 2.1, 4). Tuy nhiên, các tư liệu lịch sử Ba-by-lôn được viết từ lâu trước thời Berossus cho biết San-chê-ríp nối ngôi cha là Sargon (Sa-gôn) II, không phải anh trai; Ê-sạt-ha-đôn cai trị 12 năm, không phải 8 năm; Shamash-shuma-ukin cai trị 20 năm, không phải 21 năm. Dù thừa nhận Berossus tham khảo Biên niên sử Ba-by-lôn, học giả R. J. van der Spek viết: “Điều này không ngăn cản ông tự thêm thắt và suy diễn”2.

Các học giả khác nghĩ thế nào về Berossus? Ông S. M. Burstein, người nghiên cứu kỹ các tác phẩm của Berossus, viết: “Trước đây, Berossus thường được xem là một sử gia”. Tuy nhiên, ông kết luận: “Xét về công việc ghi chép lịch sử, [Berossus] không xứng đáng được gọi là một sử gia. Chỉ trong vài phần còn lại của Babyloniaca cũng đã có khá nhiều sai sót không ngờ về các sự kiện đơn giản... Đối với một sử gia, những sai sót như thế không thể chấp nhận được, nhưng thật ra mục đích của Berossus không phải là lịch sử”3.

Sau khi xem xét những điều trên, bạn nghĩ sao? Sự tính toán của Berossus có luôn chính xác không? Còn những sử gia cổ đại đã xác định niên đại lịch sử chủ yếu dựa trên tác phẩm của Berossus thì sao? Kết luận của họ có đáng tin cậy không?

Danh sách của Ptolemy

Để bảo vệ quan điểm là Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt năm 587 TCN, người ta cũng dùng Danh sách các vua của Claudius Ptolemy, nhà thiên văn học sống vào thế kỷ thứ hai công nguyên. Danh sách của Ptolemy được xem là tài liệu chính để xác định niên đại lịch sử cổ xưa, bao gồm thời kỳ Tân Ba-by-lôn.

Ptolemy soạn thảo danh sách ấy vào khoảng 600 năm sau thời kỳ Tân Ba-by-lôn. Vậy làm sao ông xác định khi nào vị vua đầu tiên trong danh sách ấy bắt đầu cai trị? Ptolemy giải thích rằng qua việc dùng những cách tính thuộc ngành thiên văn, một phần dựa vào hiện tượng nguyệt thực, “chúng tôi đã tính ngược trở lại khởi điểm của triều đại vua Nabonassar”, vua đầu tiên trong danh sách4. Dù vậy, ông Christopher Walker, làm việc cho Bảo tàng Anh Quốc, nói rằng danh sách của Ptolemy “được thiết kế nhằm cung cấp cho những nhà thiên văn học một trình tự thời gian nhất quán”, nhưng “không cho các sử gia văn bản chính xác về sự lên ngôi và băng hà của các vua”5.

Một trong những người ủng hộ Ptolemy nhiệt tình nhất là giáo sư Leo Depuydt viết: “Từ lâu, Danh sách [của Ptolemy] được công nhận là chính xác về thiên văn học, nhưng điều này không có nghĩa là nó chính xác về sử học”. Về danh sách này, ông Depuydt nói thêm: “Đối với các vua đầu tiên [bao gồm các vua của Tân Ba-by-lôn], cần đối chiếu Danh sách ấy với bộ tư liệu bằng chữ hình nêm để xác định thời điểm cai trị của từng vua”.6

“Bộ tư liệu bằng chữ hình nêm”, giúp xác định mức độ chính xác về lịch sử của danh sách ấy, là gì? Đó là những tài liệu do các thầy ký lục sống trong hoặc gần thời kỳ Tân Ba-by-lôn sao chép. Nó bao gồm Biên niên sử Ba-by-lôn, những danh sách các vua và những bảng tài chính.7

Khi đối chiếu danh sách của Ptolemy với bộ tư liệu bằng chữ hình nêm thì kết quả là gì? Khung “So sánh danh sách của Ptolemy với các bảng cổ xưa” (xem bên dưới) đối chiếu một phần danh sách ấy với một tài liệu bằng chữ hình nêm. Lưu ý là Ptolemy chỉ liệt kê bốn vua giữa Kandalanu và Nabonidus, nhưng Danh sách các vua Uruk, một phần trong bộ tư liệu bằng chữ hình nêm, cho thấy có bảy vua giữa hai vua đó. Phải chăng triều đại của họ quá ngắn và không đáng nhắc đến? Theo những bảng tài chính bằng chữ hình nêm, một trong những vua đó đã cai trị bảy năm8.

Cũng có bằng chứng khác từ các tài liệu bằng chữ hình nêm là trước vua Nabopolassar (vua đầu tiên trong thời kỳ Tân Ba-by-lôn), có một vua khác (Ashur-etel-ilani) cai trị bốn năm tại xứ Ba-by-lôn. Ngoài ra, trong hơn một năm, không có vua nào cai trị xứ.9 Thế nhưng, những thông tin này không có trong danh sách của Ptolemy.

Tại sao Ptolemy bỏ qua một số vua? Dường như ông không xem họ là những nhà cai trị chính thức của Ba-by-lôn10. Chẳng hạn, ông loại ra Labashi-Marduk, một vua của Tân Ba-by-lôn. Nhưng theo các tài liệu bằng chữ hình nêm, những vua không được Ptolemy nhắc đến thật sự đã cai trị xứ Ba-by-lôn.

Nhìn chung, danh sách của Ptolemy được coi là chính xác. Tuy nhiên, có nên dùng một danh sách không đầy đủ như thế làm chuẩn mực để xác định niên đại lịch sử?

Kết luận dựa trên bằng chứng

Tóm lại: Kinh Thánh nói rõ là có một thời kỳ lưu đày dài 70 năm. Có bằng chứng xác đáng cho thấy dân Do Thái bị lưu đày về đến quê hương vào năm 537 TCN, đa số học giả cũng đồng ý với điều này. Nếu từ năm đó tính ngược trở lại thì năm Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt là 607 TCN. Dù ghi chép của các sử gia cổ đại và danh sách của Ptolemy không khớp với năm này, nhưng còn nhiều điều phải bàn về tính chính xác của những tài liệu đó. Thật sự, hai nguồn thông tin ấy không đủ cơ sở để bác bỏ thời điểm được xác định dựa trên Kinh Thánh.

Tuy nhiên, vẫn còn những thắc mắc khác. Có thật là không có bằng chứng lịch sử nào ủng hộ năm căn cứ trên Kinh Thánh là 607 TCN? Nói sao về các tài liệu bằng chữ hình nêm đã được xác định niên đại, trong đó có nhiều tài liệu được những người tận mắt chứng kiến chép lại? Chúng đưa ra những bằng chứng nào? Chúng ta sẽ xem xét những câu hỏi này trong số kế tiếp.

[Chú thích]

a Hai năm này được nói đến trong các nguồn tài liệu ngoài Kinh Thánh. Để đơn giản, chúng tôi chỉ nhắc đến năm 587 TCN trong loạt bài này. TCN là “trước công nguyên”.

b Nhân Chứng Giê-hô-va xuất bản một bản dịch Kinh Thánh đáng tin cậy, gọi là New World Translation of the Holy Scriptures (Kinh Thánh—Bản dịch Thế Giới Mới). Tuy nhiên, nếu không phải là Nhân Chứng Giê-hô-va, có thể bạn thích dùng những bản dịch khác khi xem xét các đề tài Kinh Thánh. Những câu Kinh Thánh trong bài này được trích từ những bản dịch Kinh Thánh đã được nhiều người công nhận.

c Đế quốc Tân Ba-by-lôn bắt đầu với triều đại của Nabopolassar, cha Nê-bu-cát-nết-sa, và kết thúc với triều đại của Nabonidus. Các học giả lưu ý đến thời kỳ Tân Ba-by-lôn vì gần hết 70 năm hoang vu nằm trong khoảng thời gian này.

[Khung/​Hình nơi trang 28]

MỘT NĂM THEN CHỐT TRONG LỊCH SỬ

Năm 539 TCN, là năm Si-ru II chinh phục Ba-by-lôn, được xác định dựa trên:

▪ Các tư liệu lịch sử cổ xưa và các bảng bằng chữ hình nêm: Diodorus thuộc Sicily (khoảng 80-20 TCN) viết rằng Si-ru trở thành vua Ba Tư vào “năm đầu tiên của Olympiad [khoảng thời gian bốn năm giữa hai kỳ Olympic] thứ 55” (Historical Library, quyển IX, 21). Đó là năm 560 TCN. Sử gia Hy Lạp là Herodotus (khoảng 485-425 TCN) nói rằng Si-ru đã bị giết “sau 29 năm cai trị”. Như vậy, Si-ru băng hà vào năm thứ 30 đời ông trị vì, tức năm 530 TCN (Histories, quyển I, Clio, 214). Các bảng bằng chữ hình nêm cho thấy trước khi băng hà, Si-ru cai trị Ba-by-lôn chín năm. Từ năm 530 TCN tính ngược trở lại chín năm sẽ dẫn đến 539 TCN là năm Si-ru chinh phục Ba-by-lôn.

Xác nhận của bảng bằng chữ hình nêm: Một bảng đất sét về thiên văn học của người Ba-by-lôn (BM 33066) xác nhận năm Si-ru băng hà là 530 TCN. Dù bảng này có một số sai sót về vị trí các thiên thể nhưng nó miêu tả hai hiện tượng nguyệt thực xảy ra vào năm thứ bảy triều vua Cambyses II, con trai và là người kế vị Si-ru. Hai hiện tượng này trùng khớp với hai hiện tượng nguyệt thực có thể được thấy ở Ba-by-lôn vào 16 tháng 7 năm 523 TCN và 10 tháng 1 năm 522 TCN. Điều này đưa đến kết luận là năm thứ bảy đời vua Cambyses II trị vì bắt đầu vào mùa xuân năm 523 TCN. Như vậy, triều đại của ông chính thức bắt đầu vào năm 529 TCN. Vì thế, năm cuối Si-ru trị vì là 530 TCN, suy ra 539 TCN là năm ông bắt đầu cai trị Ba-by-lôn.

[Nguồn tư liệu nơi trang 28]

Tablet: © The Trustees of the British Museum

[Khung nơi trang 31]

SƠ LƯỢC

▪ Các sử gia thế tục thường cho rằng Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt năm 587 TCN.

▪ Theo niên đại Kinh Thánh, sự hủy diệt đó xảy ra năm 607 TCN.

▪ Kết luận của các sử gia thế tục chủ yếu dựa trên sự ghi chép của các sử gia cổ đại và danh sách của Ptolemy.

▪ Sự ghi chép của các sử gia cổ đại có những sai sót đáng kể và không phải lúc nào cũng hòa hợp với thông tin trên những bảng đất sét.

[Khung nơi trang 31]

Chú giải

1. Babyloniaca (Chaldaeorum Historiae), quyển một, 1.1.

2. Studies in Ancient Near Eastern World View and Society, trang 295.

3. The Babyloniaca of Berossus, trang 8.

4. Almagest, III, 7, do G. J. Toomer dịch, từ Ptolemy’s Almagest, xuất bản năm 1998, trang 166. Ptolemy biết các nhà thiên văn học Ba-by-lôn đã dùng toán học để tính các thời điểm xảy ra nguyệt thực trong quá khứ và tương lai vì họ khám phá rằng sau mỗi 18 năm, các hiện tượng nguyệt thực có cùng đặc điểm lại tái xuất hiện.—Almagest, IV, 2.

5. Mesopotamia and Iran in the Persian Period, trang 17, 18.

6. Journal of Cuneiform Studies, tập 47, 1995, trang 106, 107.

7. Chữ hình nêm là dạng chữ bằng ký hiệu do thầy ký lục dùng bút sắc nhọn tạo trên bề mặt của bảng đất sét mềm.

8. Vua Sin-sharra-ishkun cai trị bảy năm. Có 57 bảng tài chính đề ngày tháng từ lúc ông lên ngôi cho đến hết triều đại của ông. Xin xem Journal of Cuneiform Studies, tập 35, 1983, trang 54-59.

9. Bảng tài chính C.B.M. 2152 có ghi năm thứ tư đời vua Ashur-etel-ilani cai trị (Legal and Commercial Transactions Dated in the Assyrian, Neo-Babylonian and Persian Periods—Chiefly From Nippur, tác giả là A.T. Clay, 1908, trang 74). Ngoài ra, Lời khắc Harran của vua Nabonidus, (H1B), I, dòng 30, đã liệt kê tên vị vua này ngay trước vua Nabopolassar (trong Anatolian Studies, tập VIII, 1958, trang 35, 47). Về thời kỳ không có vua, xin xem Biên niên sử 2, dòng 14, trong Assyrian and Babylonian Chronicles, trang 87, 88.

10. Người ta nghĩ Ptolemy chỉ liệt kê các vua Ba-by-lôn, và một số học giả cho rằng ông bỏ qua một vài vị vua vì các vua ấy được gọi bằng tước hiệu “vua A-si-ri”. Tuy nhiên, khi xem khung nơi trang 30, một số vua trong danh sách của Ptolemy cũng có tước hiệu “vua A-si-ri”. Những bảng tài chính, những thư bằng chữ hình nêm và những lời khắc cho thấy rõ rằng các vua Ashur-etel-ilani, Sin-shumu-lishir và Sin-sharra-ishkun đã cai trị xứ Ba-by-lôn.

[Biểu đồ/​Hình nơi trang 29]

(Để có thông tin đầy đủ, xin xem ấn phẩm)

CÁC VUA TÂN BA-BY-LÔN

Nếu sự ghi chép của các sử gia này đều chính xác, tại sao số liệu trong đó khác nhau?

Các vua

Nabopolassar

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (21)

POLYHISTOR 105-? TCN (20)

JOSEPHUS 37-?100 CN (—)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (21)

Nebuchadnezzar II

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (43)

POLYHISTOR 105-? TCN (43)

JOSEPHUS 37-?100 CN (43)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (43)

Amel-Marduk

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (2)

POLYHISTOR 105-? TCN (12)

JOSEPHUS 37-?100 CN (18)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (2)

Neriglissar

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (4)

POLYHISTOR 105-? TCN (4)

JOSEPHUS 37-?100 CN (40)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (4)

Labashi-Marduk

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (9 tháng)

POLYHISTOR 105-? TCN (—)

JOSEPHUS 37-?100 CN (9 tháng)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (—)

Nabonidus

BEROSSUS Khoảng 350-270 TCN (17)

POLYHISTOR 105-? TCN (17)

JOSEPHUS 37-?100 CN (17)

PTOLEMY khoảng 100-170 CN (17)

(#) = Số năm cai trị của các vua (theo các sử gia cổ đại)

[Nguồn tư liệu]

Photograph taken by courtesy of the British Museum

[Biểu đồ/​Các hình nơi trang 30]

(Để có thông tin đầy đủ, xin xem ấn phẩm)

SO SÁNH DANH SÁCH CỦA PTOLEMY VỚI CÁC BẢNG CỔ XƯA

Ptolemy bỏ qua một số vua. Tại sao?

DANH SÁCH CỦA PTOLEMY

Nabonassar

Nabu-nadin-zeri (Nadinu)

Mukin-zeri và Pul

Ululayu (Shalmaneser V) “vua A-si-ri”

Merodach-baladan

Sargon II “vua A-si-ri”

Giai đoạn đầu không có vua

Bel-ibni

Ashur-nadin-shumi

Nergal-ushezib

Mushezib-Marduk

Giai đoạn thứ hai không có vua

Esarhaddon “vua A-si-ri”

Shamash-shuma-ukin

Kandalanu

Nabopolassar

Nebuchadnezzar

Amel-Marduk

Neriglissar

Labashi-Marduk

Nabonidus

Cyrus

Cambyses

DANH SÁCH CÁC VUA URUK TRÊN CÁC BẢNG CỔ

Kandalanu

Sin-shumu-lishir

Sin-sharra-ishkun

Nabopolassar

Nebuchadnezzar

Amel-Marduk

Neriglissar

Nabonidus

[Hình]

Biên niên sử Ba-by-lôn là một phần của bộ tư liệu bằng chữ hình nêm giúp đánh giá danh sách của Ptolemy chính xác đến đâu

[Nguồn tư liệu]

Photograph taken by courtesy of the British Museum

[Nguồn hình ảnh nơi trang 31]

Photograph taken by courtesy of the British Museum

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ