“Hãy đem hết thảy phần mười vào kho”
“Khá lấy điều nầy mà thử ta,... xem ta có mở các cửa-sổ trên trời cho các ngươi chăng” (MA-LA-CHI 3:10).
1. a) Trong thế kỷ thứ năm trước công nguyên, Đức Giê-hô-va nói lời mời nào cho dân sự của Ngài? b) Trong thế kỷ thứ nhất công nguyên, việc Đức Giê-hô-va đến đền thờ để phán xét đưa đến kết quả nào?
TRONG thế kỷ thứ năm trước công nguyên, những người Y-sơ-ra-ên đã không trung thành với Đức Giê-hô-va. Họ không đóng thuế và họ đem những thú vật tồi tàn đến dâng tại đền thờ. Mặc dầu vậy, Đức Giê-hô-va hứa là nếu họ đóng trọn thuế vào kho thì Ngài sẽ đổ các ân phước xuống cho đến khi họ không còn thiếu gì nữa (Ma-la-chi 3:8-10). Khoảng 500 năm sau đó, Đức Giê-hô-va đại diện bởi Giê-su với tư cách sứ giả của giao ước, đã tới đền thờ ở Giê-ru-sa-lem để phán xét (Ma-la-chi 3:1). Y-sơ-ra-ên nói chung đã bị xét thấy là rất thiếu sót, nhưng những người nào trở lại cùng Đức Giê-hô-va thì được ân phước dồi dào (Ma-la-chi 3:7). Họ được xức dầu để trở thành những con thiêng liêng của Đức Giê-hô-va, hợp thành sự sáng tạo mới là “dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 6:16; Rô-ma 3:25, 26).
2. Khi nào Ma-la-chi 3:1-10 có được sự ứng nghiệm thứ hai, và chúng ta có lời mời làm gì liên quan đến việc này?
2 Gần 1.900 năm sau đó, vào năm 1914, Giê-su đã được lên ngôi làm Vua của Nước Đức Chúa Trời ở trên trời, và những lời được soi dẫn nơi Ma-la-chi 3:1-10 sắp sửa có một sự ứng nghiệm thứ hai. Liên quan đến biến cố thật quan trọng này, các tín đồ đấng Christ ngày nay được mời đóng trọn thuế vào kho. Nếu làm vậy, chúng ta cũng sẽ được hưởng những ân phước cho đến khi không còn thiếu gì nữa.
3. Ai là sứ giả sửa soạn đường cho Đức Giê-hô-va a) trong thế kỷ thứ nhất? b) trước Thế Chiến thứ nhất?
3 Về việc Ngài đến đền thờ, Đức Giê-hô-va đã nói: “Nầy, ta sai sứ-giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta” (Ma-la-chi 3:1). Trong sự ứng nghiệm đầu tiên ở thế kỷ thứ nhất, Giăng Báp-tít đã đến với dân Y-sơ-ra-ên và rao giảng sự ăn năn về tội lỗi (Mác 1:2, 3). Nhưng có một công việc sửa soạn nào không, liên quan đến việc Đức Giê-hô-va đến lần thứ hai nơi đền thờ của Ngài? Có. Trong những thập niên trước Thế Chiến thứ nhất, những Học viên Kinh-thánh đã xuất hiện trên sân khấu quốc tế và dạy dỗ những giáo lý thanh sạch của Kinh-thánh cùng vạch trần những dạy dỗ sai lầm làm sỉ nhục Đức Chúa Trời, chẳng hạn thuyết Chúa Ba Ngôi và giáo lý về lửa địa ngục. Họ cũng cảnh cáo về sự cuối cùng của Thời kỳ dân ngoại sắp đến vào năm 1914. Họ mang sự sáng của lẽ thật và nhiều người đã nghe và hưởng ứng (Thi-thiên 43:3; Ma-thi-ơ 5:14, 16).
4. Vấn đề nào phải được giải quyết trong ngày của Chúa?
4 Năm 1914 bắt đầu thời kỳ mà Kinh-thánh gọi là “ngày của Chúa” (Khải-huyền 1:10). Nhiều biến cố quan trọng phải xảy ra trong thời kỳ này, kể cả lớp người “đầy-tớ trung-tín và khôn-ngoan” được nhận diện và được bổ nhiệm “coi-sóc tất cả gia-tài [của Chủ]” (Ma-thi-ơ 24:45-47). Hồi đó, vào năm 1914, có hàng ngàn tôn giáo tự xưng theo đấng Christ. Vậy nhóm nào sẽ được Chủ, tức Giê-su Christ, nhìn nhận là đầy tớ trung tín và khôn ngoan của ngài? Vấn đề đó phải được giải quyết khi Đức Giê-hô-va đến thăm đền thờ.
Đến đền thờ thiêng liêng
5, 6. a) Đức Giê-hô-va đã đến đền thờ nào để phán xét? b) Các đạo tự xưng theo đấng Christ đã bị Đức Giê-hô-va kết án thế nào?
5 Tuy nhiên, Ngài sẽ đến đền thờ nào? Rõ ràng không phải là đền thờ theo nghĩa đen tại Giê-ru-sa-lem. Đền thờ chót tại đây đã bị hủy phá vào năm 70 công nguyên. Tuy vậy, Đức Giê-hô-va có một đền thờ lớn hơn nữa. Đền thờ Giê-ru-sa-lem ngày xưa là hình bóng cho đến thờ lớn này. Phao-lô nói về đền thờ lớn hơn này và cho thấy nó thật sự vĩ đại thế nào, với một nơi thánh ở trên trời và một sân ở trên đất đây (Hê-bơ-rơ 9:11, 12, 24; 10:19, 20). Chính là tại đền thờ thiêng liêng vĩ đại này mà Đức Giê-hô-va đã đến để làm công việc phán xét. (So sánh Khải-huyền 11:1; 15:8).
6 Khi nào việc này đã xảy ra? Theo những bằng cớ xác thực rõ ràng, thì việc này đã xảy ra vào năm 1918.a Kết quả là gì? Về phần các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ, Đức Giê-hô-va đã thấy một tổ chức có máu đầy nơi tay, một hệ thống tôn giáo thối nát đã đi gian dâm với thế gian này, liên kết với những kẻ giàu có và áp bức người nghèo khó, dạy dỗ những giáo lý của tà giáo thay vì thực hành sự thờ phượng trong sạch (Gia-cơ 1:27; 4:4). Qua miệng nhà tiên tri Ma-la-chi, Đức Giê-hô-va đã cảnh cáo: “Ta sẽ đến gần các ngươi đặng làm sự đoán-xét, và ta sẽ vội-vàng làm chứng nghịch cùng những kẻ đồng-bóng, tà-dâm, những kẻ thề dối, những kẻ gạt tiền-công của người làm thuê, hiếp-đáp kẻ góa-bụa và kẻ mồ-côi” (Ma-la-chi 3:5). Các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đã làm tất cả những tội này và còn hơn thế nữa. Vào khoảng năm 1919, mọi sự tỏ ra rõ ràng là Đức Giê-hô-va đã phán quyết rằng các tôn giáo ấy sẽ bị hủy diệt cùng với các tôn giáo khác trong Ba-by-lôn Lớn, đế quốc tôn giáo giả trên khắp thế giới. Từ đó trở đi, lời kêu gọi được vang ra cho những người thành thật: “Hỡi dân ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn” (Khải-huyền 18:1, 4).
7. Ai là người được Giê-su nhìn nhận là đầy tớ trung tín và khôn ngoan của ngài?
7 Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan? Bắt đầu là trong thế kỷ thứ nhất có một nhóm nhỏ đã hưởng ứng sự làm chứng của Giăng Báp-tít và của Giê-su, sứ giả của giao ước. Trong thế kỷ chúng ta ngày nay, có vài ngàn người đã hưởng ứng công việc sửa soạn của những Học viên Kinh-thánh trong những năm trước 1914. Những người này đã phải chịu đựng nhiều thử thách nặng nề trong Thế chiến thứ nhất, nhưng họ đã chứng tỏ họ một lòng với Đức Giê-hô-va.
Một công việc tẩy sạch
8, 9. Hồi năm 1918, lớp người đầy tớ trung tín và khôn ngoan đã cần được tẩy sạch về những phương diện nào, và Đức Giê-hô-va đã nói lời hứa nào về vấn đề này?
8 Tuy nhiên, ngay cả nhóm người này cũng cần được tẩy sạch. Một số người đã kết thân với họ, nhưng rồi tỏ ra là những kẻ thù nghịch của đạo và đã phải bị đuổi ra (Phi-líp 3:18). Một số khác thì không bằng lòng nhận lãnh các trách nhiệm liên quan đến việc phụng sự Đức Giê-hô-va và đã trôi giạt đi (Hê-bơ-rơ 2:1). Ngoài ra còn có những thực hành tôn giáo sai lầm còn lại và cần phải được loại bỏ. Về phương diện tổ chức nữa, lớp người đầy tớ trung tín và khôn ngoan cũng cần được rửa sạch. Họ cần phải học và áp dụng cho đúng về địa vị trung lập đối với thế gian này. Và trong khi thế gian càng ngày càng thêm thối nát, họ cần phải nỗ lực tranh đấu để giữ cho những sự ô uế về luân lý và thiêng liêng không được len vào các hội-thánh. (So sánh Giu-đe 3, 4).
9 Đúng vậy, công việc tẩy sạch là cần thiết, nhưng Đức Giê-hô-va đầy yêu thương đã hứa về Giê-su sau khi được lên ngôi: “Ngài sẽ ngồi như kẻ luyện bạc và làm cho sạch; Ngài sẽ chùi các con trai Lê-vi, làm cho chúng nó sạch như vàng và bạc; chúng nó sẽ dâng của-lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công-bình” (Ma-la-chi 3:3). Kể từ năm 1918, Đức Giê-hô-va đã thực hiện lời hứa của Ngài và dùng Giê-su, sứ giả của giao ước, để rửa sạch dân sự của Ngài.
10. Dân sự của Đức Chúa Trời mang lễ vật thuộc loại nào, và Đức Giê-hô-va đã nói với họ lời mời nào?
10 Các anh em được xức dầu của đấng Christ và đám đông vô số người sau đó đến kết hợp với họ để phụng sự Đức Giê-hô-va, tất cả đã được hưởng lợi ích về việc Đức Giê-hô-va đã hành động như người thợ luyện kim và như kẻ luyện bạc (Khải-huyền 7:9, 14, 15). Với tư cách một tổ chức, tất cả đã đến và hiện còn đang đến để dâng của-lễ cho Đức Giê-hô-va trong sự công bình. Và của-lễ của họ dâng đã làm “đẹp lòng Đức Giê-hô-va, như những ngày xưa, và như những năm thượng-cổ” (Ma-la-chi 3:4). Đó là với những người này mà Đức Giê-hô-va đã nói lời mời có tính cách tiên tri: “Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương-thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn-quân phán, xem ta có mở các cửa-sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!” (Ma-la-chi 3:10)
Các lễ vật và thuế
11. Tại sao ta không phải đem các lễ vật theo hệ thống Luật pháp Môi-se nữa?
11 Trong thời Ma-la-chi, dân sự của Đức Chúa Trời đem dâng những lễ vật và thuế theo nghĩa đen, chẳng hạn ngũ cốc, trái cây và súc vật. Ngay trong thời Giê-su, những người Y-sơ-ra-ên trung thành vẫn đem những lễ vật, hiểu theo nghĩa đen, đến đền thờ. Tuy nhiên, sau khi Giê-su chết đi thì tất cả đã thay đổi. Luật pháp được bãi bỏ, kể cả lệnh đem dâng lễ vật và đóng thuế (Ê-phê-sô 2:15). Giê-su đã làm ứng nghiệm hình bóng tiên tri về lễ vật dưới Luật pháp (Ê-phê-sô 5:2; Hê-bơ-rơ 10:1, 2, 10). Vậy thì, ngày nay các tín đồ đấng Christ có thể đem lễ vật và thuế bằng cách nào?
12. Tín đồ đấng Christ dâng lễ vật và của-lễ hy sinh thiêng liêng thuộc loại nào?
12 Đối với họ, các lễ vật trước tiên là thuộc loại thiêng liêng. (So sánh Phi-líp 2:17; II Ti-mô-thê 4:6). Thí dụ, Phao-lô nói về công việc rao giảng như là một lễ vật: “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Giê-su mà hằng dâng tế-lễ bằng lời ngợi-khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông-trái của môi-miếng xưng danh Ngài ra”. Ông cũng nói đến một lễ vật thiêng liêng thuộc loại khác nữa: “Chớ quên việc lành và lòng bố-thí, vì sự tế-lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 13:15, 16). Khi các bậc cha mẹ khuyến khích con cái họ tham gia công việc khai thác, ta có thể nói rằng họ cũng dâng con cái lên cho Đức Giê-hô-va, giống như Giép-thê đã dâng con gái của ông làm “của-lễ thiêu” cho Đức Chúa Trời, là Đấng đã cho ông được thắng trận (Các Quan Xét 11:30, 31, 39).
13. Tại sao các tín đồ đấng Christ không bị đòi hỏi phải đưa một phần mười lợi tức của họ?
13 Thế còn về thuế thì sao? Tín đồ đấng Christ có bổn phận phải dành một phần mười lợi tức của họ và đem cho tổ chức của Đức Giê-hô-va, tương tự như điều thực hành trong một số các nhà thờ tự xưng theo đấng Christ không? Không, đây không phải là một đòi hỏi. Trong Kinh-thánh không có câu nào nói đó là một luật cho tín đồ đấng Christ. Khi Phao-lô thâu tiền đóng góp cho những người cần được giúp trong vùng Giu-đê, ông không nói đến một tỉ lệ rõ rệt nào. Thay vì thế, ông nói: “Mỗi người nên tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn-nàn hay là vì ép-uổng; vì Đức Chúa Trời yêu kẻ thí-của cách vui lòng” (II Cô-rinh-tô 9:7). Khi nói về những người phụng sự cách đặc biệt, Phao-lô nói rằng trong khi họ rất đáng được trợ giúp bởi những món tiền đóng góp tình nguyện, nhưng ông thì sẵn sàng làm việc và sống tự túc (Công-vụ các Sứ-đồ 18:3, 4; I Cô-rinh-tô 9:13-15). Vậy không có thuế nào hết được chỉ định để trợ giúp những người ấy.
14. a) Tại sao đem thuế đến không tượng trưng việc chúng ta dâng tất cả cho Đức Giê-hô-va? b) Thuế tượng trưng cho cái gì?
14 Rõ ràng đối với tín đồ đấng Christ, thuế thập phân tượng trưng hay tiêu biểu cho một cái gì. Bởi vì nói đến một phần mười và trong Kinh-thánh số mười thường tượng trưng cho sự trọn vẹn trên đất, vậy thì thuế thập phân có phải là tượng trưng cho việc chúng ta đem hết mình dâng cho Đức Giê-hô-va không? Không. Khi chúng ta dâng mình cho Đức Giê-hô-va và biểu hiệu sự dâng mình bằng phép báp têm trong nước, đó là lúc chúng ta đem dâng tất cả chúng ta cho Ngài. Kể từ lúc chúng ta dâng mình, chúng ta không có một cái gì mà không thuộc về Đức Giê-hô-va rồi. Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va cho phép những cá nhân có thể dùng những gì thuộc về họ. Bởi vậy, thuế tiêu biểu cho phần gì của chúng ta mà chúng ta đem đến cho Đức Giê-hô-va, hoặc là dùng trong việc phụng sự Ngài, để chứng tỏ lòng yêu thương của chúng ta đối với Ngài và việc chúng ta nhìn nhận sự kiện là chúng ta thuộc về Ngài. Thuế thời nay không phải chỉ là một phần mười. Trong nhiều trường hợp có thể là ít hơn. Trong các trường hợp khác, có thể là nhiều hơn. Mỗi người đem dâng cái gì tùy theo lòng người đó thúc đẩy và hoàn cảnh cho phép.
15, 16. Thuế thiêng liêng của chúng ta bao gồm những gì?
15 Thuế thiêng liêng này bao gồm những gì? Một là chúng ta đem dâng cho Đức Giê-hô-va thì giờ và nghị lực của chúng ta. Thì giờ mà chúng ta đi nhóm họp, tham dự các hội nghị và đại hội, đi rao giảng, tất cả là một cái gì đem dâng cho Đức Giê-hô-va—một phần của thuế chúng ta trả vậy. Thì giờ và nghị lực chúng ta dùng để đi thăm viếng những người đau ốm và giúp đỡ người khác—đó cũng là một phần khác của thuế chúng ta trả. Khi chúng ta giúp đỡ trong công việc xây cất các Phòng Nước Trời và tham gia trong việc giữ gìn và quét dọn phòng họp, đó cũng là một phần của thuế chúng ta trả.
16 Thuế của chúng ta cũng bao gồm các sự đóng góp về tài chính. Với sự gia tăng khác thường của tổ chức của Đức Giê-hô-va trong những năm vừa qua, các nhu cầu về tài chính cũng đã gia tăng nhiều. Cần phải xây cất những Phòng Nước Trời mới, cùng những cơ sở chi nhánh mới và Phòng Hội nghị mới, kể cả việc giữ gìn những phòng ốc đã xây cất rồi. Rồi còn việc trả chi phí cho những người tình nguyện làm công việc đặc biệt—những người này thường đã phải làm nhiều hy sinh cá nhân để có thể tình nguyện như thế—cũng là một thử thách lớn. Năm 1992 phí tổn để chi tiêu cho các giáo sĩ, giám thị lưu động và khai thác đặc biệt lên đến hơn 45 triệu Mỹ-kim, tất cả số tiền này đều là do sự đóng góp tình nguyện.
17. Vậy chúng ta nên đem dâng gì về thuế thiêng liêng?
17 Thế chúng ta nên đem dâng gì về thuế thiêng liêng? Đức Giê-hô-va không đặt ra một tỉ lệ nào. Tuy nhiên, lòng sốt sắng, tình yêu thương chân thật đối với Đức Giê-hô-va và các anh em, cũng như việc ý thức được tình trạng khẩn cấp của công việc cứu mạng người, sẽ khuyến khích chúng ta đem dâng trọn thuế thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta cảm thấy được thúc giục phụng sự Đức Giê-hô-va càng nhiều càng tốt. Nếu chúng ta đem cho cách hà tiện hay miễn cưỡng, hoặc về chúng ta hoặc về tài lợi của chúng ta, thì đó cũng giống như chúng ta ăn trộm Đức Chúa Trời. (So sánh Lu-ca 21:1-4).
Được ân phước dư dật
18, 19. Bởi vì dân sự của Đức Giê-hô-va đã đóng trọn phần thuế thiêng liêng, họ đã được những ân phước nào?
18 Kể từ năm 1919, dân sự của Đức Giê-hô-va đã đem cho rộng rãi về thì giờ, năng lực và tài chánh của họ cho công việc rao giảng. Họ thật sự đã đóng trọn thuế đem vào kho. Do đó Đức Giê-hô-va đã thực hiện lời hứa của Ngài và đã đổ các ân phước xuống cho đến khi không còn thiếu gì nữa. Chúng ta có thể thấy điều này rõ nhất trong sự gia tăng về nhân số. Từ ít ngàn người tín đồ được xức dầu phụng sự Đức Giê-hô-va khi Ngài đến đền thờ vào năm 1918, họ đã gia tăng cho đến ngày nay con số những người xức dầu cùng với bạn đồng hành là chiên khác đã lên tới hơn bốn triệu người trong 229 xứ khác nhau (Ê-sai 60:22). Dân sự cũng được ân phước vì có gia tăng liên tục trong sự hiểu biết về lẽ thật. Lời tiên tri đối với họ càng chắc chắn hơn. Họ tin cậy rằng Đức Giê-hô-va sẽ thực hiện ý định của Ngài và lòng tin đó nay rất vững chắc (II Phi-e-rơ 1:19). Thật sự họ là một dân tộc “được Đức Giê-hô-va dạy-dỗ” (Ê-sai 54:13).
19 Qua miệng Ma-la-chi, Đức Giê-hô-va đã nói tiên tri về một ân phước khác nữa: “Bấy giờ những kẻ kính-sợ Đức Giê-hô-va nói cùng nhau, thì Đức Giê-hô-va để ý mà nghe; và một sách để ghi-nhớ được chép trước mặt Ngài cho những kẻ kính-sợ Đức Giê-hô-va và tưởng đến danh Ngài” (Ma-la-chi 3:16). Trong tất cả các tổ chức tôn giáo tự xưng theo đấng Christ, chỉ có một mình Nhân-chứng Giê-hô-va tưởng nghĩ đến danh Ngài và tôn vinh danh đó giữa các nước (Thi-thiên 34:3). Họ sung sướng biết bao vì chắc chắn rằng Đức Giê-hô-va sẽ nhớ đến lòng trung thành của họ!
20, 21. a) Các tín đồ thật của đấng Christ có được một sự liên lạc đầy ân phước như thế nào? b) Nói về đạo đấng Christ, thì chúng ta thấy càng ngày càng có một sự khác biệt nào rõ ràng hơn?
20 Lớp người xức dầu còn sót lại là dân tộc đặc biệt của Đức Chúa Trời, và đám đông vô số người đến kết hợp với họ cũng được gặt hái với họ những ân phước của sự thờ phượng thanh sạch (Xa-cha-ri 8:23). Qua miệng Ma-la-chi, Đức Giê-hô-va vạn quân hứa: “Những kẻ ấy sẽ thuộc về ta, làm cơ-nghiệp riêng của ta trong ngày ta làm; và ta sẽ tiếc chúng nó như một người tiếc con trai mình hầu-việc mình” (Ma-la-chi 3:17). Thật là một ân phước lớn được Đức Giê-hô-va trìu mến họ như thế!
21 Thật vậy, càng ngày càng thấy sự khác biệt giữa tín đồ thật của đấng Christ và các tín đồ giả tỏ ra rõ ràng hơn. Trong khi dân sự của Đức Giê-hô-va cố gắng gìn giữ các tiêu chuẩn của Ngài, các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ càng ngày càng sa đọa nhiều hơn trong sự ô uế của thế gian này. Đúng vậy, lời của Đức Giê-hô-va đã chứng tỏ là thật: “Các ngươi sẽ... phân-biệt giữa kẻ công-bình và kẻ gian-ác, giữa kẻ hầu-việc Đức Chúa Trời và kẻ không hầu-việc Ngài” (Ma-la-chi 3:18).
22. Chúng ta có thể tin cậy được hưởng những ân phước nào nếu chúng ta tiếp tục đóng trọn phần thuế?
22 Ngày phán xét của các tín đồ giả của đấng Christ sắp đến rồi. “Vì nầy, ngày đến, cháy như lò lửa. Mọi kẻ kiêu-ngạo, mọi kẻ làm sự gian-ác sẽ như rơm-cỏ; Đức Giê-hô-va vạn-quân phán: Ngày ấy đến, thiêu-đốt chúng nó” (Ma-la-chi 4:1). Dân sự của Đức Giê-hô-va biết rằng, khi đó Ngài sẽ che chở họ như Ngài đã che chở dân tộc thiêng liêng của Ngài hồi năm 70 công nguyên (Ma-la-chi 4:2). Họ sung sướng biết bao có được sự bảo đảm này! Vậy nên, cho tới khi đó, tất cả chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn và lòng yêu thương đối với Đức Giê-hô-va bằng cách đóng phần thuế trọn vẹn vào nhà kho. Khi đó chúng ta có thể tin cậy rằng Ngài sẽ tiếp tục đổ phước xuống cho chúng ta cho tới khi không còn thiếu gì nữa.
[Chú thích]
a Muốn tìm hiểu thêm, xin đọc Tháp Canh, các số ra ngày 1-12-1987, trg 23; và 1-1-1988, trg 8-13.
Bạn có thể giải thích không?
◻ Trong thời nay, khi nào Đức Giê-hô-va đã đến đền thờ với vị sứ giả của giao ước?
◻ Ai là đầy tớ trung tín và khôn ngoan, và họ cần được tẩy sạch thế nào sau 1918?
◻ Tín đồ thật của đấng Christ đem dâng cho Đức Giê-hô-va các lễ vật thiêng liêng nào?
◻ Tín đồ đấng Christ được khuyến khích đem thuế nào vào kho?
◻ Dân sự của Đức Chúa Trời được vui hưởng những ân phước nào do việc đóng thuế thiêng liêng?
[Hình nơi trang 15]
Các thuế thiêng liêng bao gồm việc chúng ta dâng năng lực và tài lợi để xây cất các Phòng Nước Trời
[Hình nơi trang 16]
Vì Đức Giê-hô-va ban ân phước cho dân sự Ngài, cho nên cần xây cất thêm nhiều, kể cả các Phòng Nước Trời và Phòng Hội nghị