THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w97 1/11 trg 8-13
  • Tín đồ đấng Christ và thế gian loài người

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Tín đồ đấng Christ và thế gian loài người
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Gương mẫu của Chúa Giê-su
  • Thái độ của Phao-lô đối với những người “ở ngoài”
  • Giúp những người tin thuộc dân ngoại
  • Rao giảng cho “những người chẳng tin”
  • Cố cứu “mọi người” ngày nay
  • Môn đồ Chúa Giê-su thời ban đầu và văn hóa Hy Lạp
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2008
  • Một bản dịch Kinh-thánh đã thay đổi thế giới
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1998
  • Noi gương sứ đồ Phao-lô để tiến bộ về thiêng liêng
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2008
  • Anh chị có quan điểm nào về cánh đồng?
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2020
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
w97 1/11 trg 8-13

Tín đồ đấng Christ và thế gian loài người

“Hãy lấy sự khôn-ngoan ăn-ở với những người ngoại” (CÔ-LÔ-SE 4:5).

 1. Chúa Giê-su đã nói gì về các môn đồ ngài và thế gian?

TRONG lời cầu nguyện với Cha trên trời, Chúa Giê-su nói về các môn đồ: “Họ không thuộc về thế-gian, cũng như Con không thuộc về thế-gian vậy”. Rồi ngài nói thêm: “Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế-gian, nhưng xin Cha gìn-giữ họ cho khỏi đều ác” (Giăng 17:14, 15). Tín đồ đấng Christ không tách rời khỏi thế gian theo nghĩa đen—chẳng hạn, bằng cách sống ẩn dật ở tu viện. Trái lại, đấng Christ “sai họ trong thế-gian” để làm chứng về ngài “cho đến cùng trái đất” (Giăng 17:18; Công-vụ các Sứ-đồ 1:8). Tuy nhiên, ngài nài xin Đức Chúa Trời giữ gìn họ vì Sa-tan, “vua-chúa của thế-gian nầy”, sẽ kích động người ta căm ghét họ vì cớ danh đấng Christ (Giăng 12:31; Ma-thi-ơ 24:9).

 2. a) Kinh-thánh dùng chữ “thế gian” như thế nào? b) Đức Giê-hô-va có thái độ thăng bằng nào đối với thế gian?

2 Trong Kinh-thánh chữ “thế-gian” (Hy Lạp, koʹsmos) thường ám chỉ xã hội loài người không công bình đang “phục dưới quyền ma-quỉ” (I Giăng 5:19). Vì tín đồ đấng Christ tuân theo các tiêu chuẩn của Đức Giê-hô-va và cũng vâng theo mệnh lệnh rao giảng tin mừng về Nước Đức Chúa Trời cho thế gian, vì thế mối quan hệ của họ với thế gian đôi khi gặp khó khăn (II Ti-mô-thê 3:12; I Giăng 3:1, 13). Tuy nhiên, koʹsmos cũng được dùng trong Kinh-thánh để ám chỉ gia đình nhân loại nói chung. Với ý này, Chúa Giê-su nói: “Đức Chúa Trời yêu-thương thế-gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư-mất mà được sự sống đời đời. Vả, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế-gian, chẳng phải để đoán-xét thế-gian đâu, nhưng hầu cho thế-gian nhờ Con ấy mà được cứu” (Giăng 3:16, 17; II Cô-rinh-tô 5:19; I Giăng 4:14). Vậy thì dù ghét những đặc tính của hệ thống gian ác của Sa-tan, Đức Giê-hô-va biểu lộ tình yêu thương đối với loài người bằng cách sai Con ngài xuống đất để cứu những người chịu “ăn-năn” (II Phi-e-rơ 3:9; Châm-ngôn 6:16-19). Những người thờ phượng Đức Giê-hô-va nên để thái độ thăng bằng của ngài đối với thế gian hướng dẫn họ.

Gương mẫu của Chúa Giê-su

 3, 4. a) Nói về sự cai trị, Chúa Giê-su có lập trường gì? b) Chúa Giê-su có quan điểm gì về thế gian loài người?

3 Không lâu trước khi chết, Chúa Giê-su nói với Bôn-xơ Phi-lát: “Nước của ta chẳng phải thuộc về thế-gian nầy” (Giăng 18:36). Phù hợp với những lời này, trước đó Chúa Giê-su đã khước từ lời đề nghị của Sa-tan là cho ngài quyền cai trị các nước thế gian, và ngài đã không để những người Do Thái tôn ngài làm vua (Lu-ca 4:5-8; Giăng 6:14, 15). Tuy nhiên, Chúa Giê-su biểu lộ tình yêu thương lớn lao đối với thế gian loài người. Sứ đồ Ma-thi-ơ tường thuật một ví dụ cho thấy điều này: “Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương-xót, vì họ cùng-khốn, và tan-lạc như chiên không có kẻ chăn”. Vì tình yêu thương mà ngài rao giảng cho người ta ở làng mạc và phố chợ. Ngài dạy dỗ họ và chữa lành những bệnh tật cho họ (Ma-thi-ơ 9:36). Ngài cũng nhạy cảm với những nhu cầu vật chất của những người đến nghe ngài dạy. Chúng ta đọc: “Đức Chúa Jêsus gọi môn-đồ đến mà phán rằng: Ta thương-xót đoàn dân nầy; vì đã ba ngày ở cùng ta, bây giờ không có chi ăn hết. Ta không muốn để họ nhịn đói mà về, e phải mệt lủi dọc đường chăng” (Ma-thi-ơ 15:32). Ngài có lòng yêu thương quan tâm biết bao!

4 Người Do Thái hết sức kỳ thị người Sa-ma-ri, nhưng Chúa Giê-su đã nói chuyện khá lâu với một người đàn bà Sa-ma-ri và dành hai ngày để làm chứng cặn kẽ ở một thành phố Sa-ma-ri (Giăng 4:5-42). Mặc dù Đức Giê-hô-va đã sai ngài đến với “các con chiên lạc-mất của nhà Y-sơ-ra-ên”, đôi lúc Chúa Giê-su đáp lại khi những người ngoại biểu lộ đức tin (Ma-thi-ơ 8:5-13; 15:21-28). Đúng vậy, Chúa Giê-su cho thấy là chúng ta có thể “không thuộc về thế-gian” và đồng thời cũng biểu lộ tình yêu thương đối với thế gian loài người, đối với người ta. Chúng ta có biểu lộ lòng trắc ẩn tương tự đối với những người chúng ta gặp ở gần nhà, tại sở làm hoặc khi chúng ta đi mua sắm không? Chúng ta có quan tâm đến họ—không những về các nhu cầu thiêng liêng mà còn về những nhu cầu khác nếu chúng ta có khả năng để giúp không? Chúa Giê-su đã làm thế, và như vậy đã mở đường để dạy dỗ người ta về Nước Trời. Đành rằng chúng ta không thể làm phép lạ theo nghĩa đen như Chúa Giê-su đã làm. Nhưng nói theo nghĩa bóng, một hành động tử tế thường có sức phi thường để phá tan thành kiến.

Thái độ của Phao-lô đối với những người “ở ngoài”

 5, 6. Sứ đồ Phao-lô cư xử thế nào với những người Do Thái “ở ngoài”?

5 Trong một số lá thư của ông, sứ đồ Phao-lô nói đến những người “ngoại” hay những người “ở ngoài”, có nghĩa là những người không phải tín đồ đấng Christ, dù người Do Thái hoặc Dân Ngoại (I Cô-rinh-tô 5:12; I Tê-sa-lô-ni-ca 4:12; I Ti-mô-thê 3:7). Ông cư xử thế nào với những người đó? Ông “đã trở nên mọi cách cho mọi người, để cứu-chuộc được một vài người không cứ cách nào” (I Cô-rinh-tô 9:20-22). Khi tới một thành phố nào đó, theo lệ thường thì ông rao giảng trước nhất cho những người Do Thái định cư ở đó. Ông tiếp xúc với họ như thế nào? Ông khéo léo và kính cẩn trình bày những bằng chứng rõ ràng từ Kinh-thánh, chứng minh đấng Mê-si đã đến, chịu chết để làm của-lễ hy sinh và được sống lại (Công-vụ các Sứ-đồ 13:5, 14-16, 43; 17:1-3, 10).

6 Qua cách này, Phao-lô đã dùng sự hiểu biết của những người Do Thái về Luật Pháp và các nhà tiên tri để dạy họ về đấng Mê-si và Nước của Đức Chúa Trời. Và ông đã thuyết phục được một số người (Công-vụ các Sứ-đồ 14:1; 17:4). Dù bị những người lãnh đạo Do Thái chống đối, Phao-lô biểu lộ lòng yêu mến nồng hậu đối với những đồng bào Do Thái khi ông viết: “Hỡi anh em, sự ước-ao trong lòng tôi và lời tôi vì dân Y-sơ-ra-ên cầu-nguyện cùng Đức Chúa Trời, ấy là cho họ được cứu. Vì tôi làm chứng cho họ rằng họ có lòng sốt-sắng về Đức Chúa Trời, nhưng lòng sốt-sắng đó là không phải theo trí-khôn” (Rô-ma 10:1, 2).

Giúp những người tin thuộc dân ngoại

 7. Nhiều người nhập đạo phản ứng ra sao khi Phao-lô rao giảng tin mừng cho họ?

7 Những người nhập đạo là những người ngoại đã chịu phép cắt bì và thực hành đạo Do Thái. Rõ ràng, có những người nhập đạo Do Thái ở Rô-ma, An-ti-ốt xứ Sy-ri, Ê-thi-ô-bi và An-ti-ốt xứ Bi-si-đi—thật vậy, ở khắp các cộng đồng Do Thái ở hải ngoại. (Công-vụ các Sứ-đồ 2:8-10; 6:5; 8:27; 13:14, 43; so sánh Ma-thi-ơ 23:15). Khác với nhiều nhà cầm quyền Do Thái, rất có thể những người nhập đạo không kiêu ngạo và không thể kiêu hãnh khoe khoang rằng có tổ tiên là Áp-ra-ham (Ma-thi-ơ 3:9; Giăng 8:33). Trái lại, họ từ bỏ những tà thần và khiêm nhường quay về Đức Giê-hô-va, học biết ít nhiều về ngài và những luật pháp của ngài. Và như người Do Thái, họ đặt hy vọng nơi một đấng Mê-si sắp đến. Vì đã cho thấy rằng họ sẵn sàng thay đổi trong cuộc tìm kiếm lẽ thật nên nhiều người trong họ vui lòng thay đổi thêm nữa và hưởng ứng việc rao giảng của sứ đồ Phao-lô (Công-vụ các Sứ-đồ 13:42, 43). Khi một người đã từng thờ tà thần cải sang đạo đấng Christ, họ được đặc biệt trang bị để làm chứng cho những người ngoại khác vẫn còn thờ tà thần.

 8, 9. a) Ngoài những người nhập đạo, lớp Dân Ngoại nào được thu hút theo đạo Do Thái? b) Nhiều người không cắt bì kính sợ Đức Chúa Trời phản ứng thế nào trước tin mừng?

8 Ngoài những người nhập đạo chịu phép cắt bì, những người ngoại khác được thu hút theo đạo Do Thái. Người ngoại đầu tiên trở thành tín đồ đấng Christ là Cọt-nây. Mặc dù không phải là người nhập đạo, ông là người “đạo-đức,... kính-sợ Đức Chúa Trời” (Công-vụ các Sứ-đồ 10:2). Trong lời bình luận về Công-vụ các Sứ-đồ, giáo sư F. F. Bruce viết: “Những người ngoại đó thường được gọi là “những người kính sợ Đức Chúa Trời”; dù chữ này không nên hiểu theo nghĩa hẹp, nhưng nó vẫn thích hợp. Nhiều người ngoại thời đó, dù không muốn hoàn toàn cải sang đạo Do Thái (điều kiện phải chịu cắt bì đặc biệt ngăn cản những người nam), được thu hút bởi sự thờ phượng của người Do Thái ở nhà hội vì việc thờ một thần đơn giản và những tiêu chuẩn đạo đức của lối sống Do Thái. Một số người trong vòng họ đi đến nhà hội và biết ít nhiều về những lời cầu nguyện và bài Kinh-thánh mà họ nghe người ta đọc bằng tiếng Hy Lạp”.

9 Sứ đồ Phao-lô gặp nhiều người kính sợ Đức Chúa Trời khi rao giảng trong những nhà hội ở Tiểu Á và Hy Lạp. Ở An-ti-ốt xứ Bi-si-đi ông gọi những người có mặt tại nhà hội là “người Y-sơ-ra-ên và các người kính-sợ Đức Chúa Trời” (Công-vụ các Sứ-đồ 13:16, 26). Lu-ca viết là sau khi Phao-lô rao giảng trong ba ngày Sa-bát ở nhà hội tại Tê-sa-lô-ni-ca, “trong bọn họ [người Do Thái] có một vài người được khuyên-dỗ nối theo Phao-lô và Si-la, lại cũng có rất nhiều người Gờ-réc vẫn kính-sợ Đức Chúa Trời, và mấy người đờn-bà sang-trọng trong thành nữa” (Công-vụ các Sứ-đồ 17:4). Rất có thể một số người Gờ-réc này là những người không cắt bì nhưng kính sợ Đức Chúa Trời. Có bằng chứng cho thấy nhiều Dân Ngoại đã kết hợp với cộng đồng Do Thái.

Rao giảng cho “những người chẳng tin”

10. Phao-lô rao giảng thế nào với Dân Ngoại, là những người không biết gì về Kinh-thánh, và kết quả là gì?

10 Trong Kinh-thánh phần tiếng Hy Lạp, chữ “người chẳng tin” có thể ám chỉ những người ở ngoài hội thánh tín đồ đấng Christ nói chung. Thường thì chữ này ám chỉ những người ngoại đạo (Rô-ma 15:31; I Cô-rinh-tô 14:22, 23; II Cô-rinh-tô 4:4; 6:14). Nhiều người không tin ở A-thên được giáo dục về triết lý Hy Lạp nên không biết gì về Kinh-thánh. Điều này có ngăn cản Phao-lô làm chứng cho họ không? Không. Tuy nhiên, ông điều chỉnh cách gợi chuyện của ông. Ông khéo léo trình bày những ý tưởng Kinh-thánh mà không trích dẫn trực tiếp Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ, là điều những người A-thên không biết đến. Ông khôn khéo cho thấy sự tương tự giữa lẽ thật Kinh-thánh và một vài ý tưởng của những nhà thơ khắc kỷ xưa. Và ông trình bày khái niệm về một Đức Chúa Trời thật của muôn dân, một Đức Chúa Trời sẽ đoán xét công bình qua trung gian một đấng đã chết và được sống lại. Do đó, Phao-lô khéo léo rao giảng về đấng Christ cho những người A-thên. Kết quả là gì? Mặc dầu phần đông hoài nghi hoặc ra mặt chế nhạo ông, “có mấy kẻ theo người và tin; trong số đó, có Đê-ni, là một quan tòa nơi A-rê-ô-ba, và một người đờn-bà tên là Đa-ma-ri, cùng các người khác” (Công-vụ các Sứ-đồ 17:18, 21-34).

11. Cô-rinh-tô là một thành phố như thế nào, và có kết quả gì khi Phao-lô rao giảng ở đó?

11 Có một cộng đồng người Do Thái khá lớn ở Cô-rinh-tô nên Phao-lô bắt đầu làm thánh chức tại đó bằng cách rao giảng trong nhà hội. Nhưng khi những người Do Thái chống đối, Phao-lô đi đến Dân Ngoại (Công-vụ các Sứ-đồ 18:1-6). Và dân này trụy lạc làm sao! Cô-rinh-tô là một thành phố thương mại quốc tế tấp nập, nổi tiếng khắp thế giới Hy Lạp và La Mã là có lối sống vô luân. Quả thật, động từ “Cô-rinh-tô hóa” có nghĩa là làm điều vô luân. Tuy nhiên, sau khi những người Do Thái bác bỏ lời rao giảng của sứ đồ Phao-lô, đấng Christ hiện ra và nói với ông: “Đừng sợ chi; song hãy nói...; vì ta có nhiều người trong thành nầy” (Công-vụ các Sứ-đồ 18:9, 10). Đúng như ngài nói, Phao-lô thành lập một hội thánh ở Cô-rinh-tô, mặc dù một số thành viên trước đây theo lối sống của người “Cô-rinh-tô” (I Cô-rinh-tô 6:9-11).

Cố cứu “mọi người” ngày nay

12, 13. a) Khu vực của chúng ta ngày nay giống như khu vực vào thời Phao-lô như thế nào? b) Chúng ta phải có thái độ nào trong những khu vực mà giáo hội tự xưng theo đấng Christ đã được thành lập lâu năm hoặc có nhiều người chán ngán các tổ chức tôn giáo?

12 Ngày nay, cũng như vào thế kỷ thứ nhất, “ân-điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người” (Tít 2:11). Khu vực rao giảng tin mừng đã bành trướng đến tất cả các lục địa và đa số các hải đảo. Và như vào thời Phao-lô, chúng ta gặp đủ “mọi người”. Ví dụ, một số người trong chúng ta rao giảng ở những vùng mà các giáo hội tự xưng theo đấng Christ đã được thành lập từ nhiều thế kỷ. Như những người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất, các thành viên của họ có thể bị ràng buộc bởi những truyền thống tôn giáo. Dù vậy, chúng ta vẫn sẵn sàng tìm kiếm những người có lòng tốt và bồi đắp sự hiểu biết về Kinh-thánh mà họ đã có. Chúng ta không ăn nói trịch thượng với họ hoặc khinh miệt họ dẫu cho đôi lúc các nhà lãnh đạo tôn giáo của họ chống đối và bắt bớ chúng ta. Trái lại, chúng ta nhận biết rằng một số người trong họ có thể có “lòng sốt-sắng về Đức Chúa Trời” dù thiếu sự hiểu biết chính xác. Như Chúa Giê-su và Phao-lô, chúng ta biểu lộ tình yêu thương thật đối với người ta, và chúng ta nhiệt tình muốn họ được cứu (Rô-ma 10:2).

13 Khi đi rao giảng, nhiều người trong chúng ta gặp những người chán ngán các tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, có thể họ vẫn kính sợ Đức Chúa Trời, tin nơi Đức Chúa Trời đến mức độ nào đó và cố ăn hiền ở lành. Giữa thế hệ ngang ngược và càng ngày càng không tin kính này, chẳng lẽ chúng ta lại không vui mừng khi gặp những người tin ít nhiều nơi Đức Chúa Trời hay sao? Chẳng lẽ chúng ta không thiết tha muốn hướng dẫn họ đến một hình thức thờ phượng không giả hình và không dối trá hay sao? (Phi-líp 2:15).

14, 15. Một cánh đồng lớn để rao giảng tin mừng được mở rộng như thế nào?

14 Trong chuyện ví dụ về lưới đánh cá, Chúa Giê-su báo trước là sẽ có khu vực rao giảng lớn (Ma-thi-ơ 13:47-49). Giải thích chuyện ví dụ này, Tháp Canh số ra ngày 15-3-1993 nói ở trang 20: “Trong suốt nhiều thế kỷ, những người theo các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đóng vai trò chính trong việc dịch thuật, sao chép, và phân phát Lời Đức Chúa Trời. Sau này các giáo hội tự xưng theo đấng Christ thành lập hoặc ủng hộ các Thánh Kinh hội, là những hội đã dịch Kinh-thánh ra những thứ tiếng của nhiều vùng xa xôi hẻo lánh. Các giáo hội đó cũng đã gửi các giáo sĩ hiểu biết về y khoa và những thầy giáo ra các nước ngoài hoạt động và họ thu nạp môn đồ gồm những người theo đạo để kiếm cơm gạo. Việc này gom góp đông đảo các loại cá xấu, là những kẻ không được Đức Chúa Trời chấp nhận. Tuy nhiên, việc này ít ra cũng giúp cho hàng triệu người không theo đấng Christ biết đến Kinh-thánh và biết đến một hình thức của đạo đấng Christ tuy là một hình thức sai lệch”.

15 Các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ đặc biệt thu nạp nhiều tín đồ ở Nam Mỹ, Phi Châu và một số hải đảo. Trong thời chúng ta, vẫn tìm được nhiều người nhu mì ở những nơi này, và chúng ta có thể tiếp tục thực hiện nhiều việc lành nếu có thái độ tích cực và yêu thương đối với những người khiêm nhường như thế, cũng như Phao-lô đã có đối với những người nhập đạo Do Thái. Trong số người cần chúng ta giúp đỡ thì cũng có hàng triệu người có thể được gọi là “những người có cảm tình” với Nhân-chứng Giê-hô-va. Họ luôn vui thích gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đến thăm. Một số người này đã từng học Kinh-thánh với chúng ta và đi dự những buổi họp, đặc biệt Lễ Kỷ niệm sự chết của đấng Christ hằng năm. Chẳng phải những người đó cũng tượng trưng một cánh đồng lớn để chúng ta rao giảng tin mừng về Nước Trời hay sao?

16, 17. a) Chúng ta rao giảng tin mừng cho những người thuộc tầng lớp nào? b) Chúng ta có thể bắt chước Phao-lô như thế nào trong việc rao giảng cho nhiều hạng người khác nhau?

16 Hơn nữa, chúng ta nên xem những người có văn hóa khác với sự dạy dỗ của tôn giáo tự xưng theo đấng Christ như thế nào—dù chúng ta gặp họ trong nước họ hoặc họ là di dân ở những nước Tây phương? Còn về phần hàng triệu người đã hoàn toàn từ bỏ tôn giáo, trở nên người vô thần hoặc theo thuyết bất khả tri thì sao? Ngoài ra, nói sao về những người cuồng nhiệt tin theo triết lý tân thời hoặc tâm lý học in ra trong nhiều sách tự rèn luyện được bày bán trong các tiệm sách? Chúng ta có nên tránh xa những người như thế, nghĩ rằng họ vô phương cứu vớt không? Không, chúng ta sẽ không tránh họ nếu noi gương sứ đồ Phao-lô.

17 Khi rao giảng ở A-thên, Phao-lô đã không rơi vào bẫy mà tranh luận về triết lý với những người nghe. Nhưng ông đã điều chỉnh cách lý luận cho hợp với những người ông tiếp xúc, trình bày những lẽ thật Kinh-thánh một cách rõ ràng và hợp lý. Tương tự như vậy, chúng ta không cần phải thông thạo tôn giáo hoặc triết lý của những người chúng ta rao giảng cho. Tuy nhiên, chúng ta điều chỉnh cách gợi chuyện để làm chứng hữu hiệu hơn, như vậy trở thành “mọi cách cho mọi người” (I Cô-rinh-tô 9:22). Khi viết cho các tín đồ đấng Christ ở Cô-lô-se, Phao-lô nói: “Hãy lấy sự khôn-ngoan ăn-ở với những người ngoại, và lợi-dụng thì-giờ. Lời nói anh em phải có ân-hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối-đáp mỗi người là thể nào” (Cô-lô-se 4:5, 6).

18. Chúng ta có trách nhiệm nào, và chúng ta chớ nên quên điều gì?

18 Như Chúa Giê-su và sứ đồ Phao-lô, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu thương đối với mọi hạng người. Chúng ta hãy bất chấp trở ngại để chia sẻ tin mừng về Nước Trời với người khác. Mặt khác, chớ quên rằng Chúa Giê-su đã nói về các môn đồ ngài: “Họ không thuộc về thế-gian” (Giăng 17:16). Ý nghĩa của câu này đối với chúng ta sẽ được bàn luận thêm trong bài tới.

Để ôn lại

◻ Hãy miêu tả thái độ thăng bằng của Chúa Giê-su đối với thế gian.

◻ Sứ đồ Phao-lô rao giảng như thế nào cho người Do Thái và người nhập đạo?

◻ Phao-lô gợi chuyện với những người kính sợ Đức Chúa Trời và những người không tin như thế nào?

◻ Làm sao chúng ta có thể trở thành “mọi cách cho mọi người” trong công việc rao giảng?

[Các hình nơi trang 10]

Tín đồ đấng Christ thường có thể phá tan thành kiến bằng cách đối xử tử tế với người lân cận

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2025)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ