Đền thờ thiêng liêng lớn của Đức Giê-hô-va
“Chúng ta có một thầy tế-lễ thượng-phẩm,... Đấng... làm chức-việc nơi thánh và đền-tạm thật, bởi Chúa dựng lên, không phải bởi một người nào” (HÊ-BƠ-RƠ 8:1, 2).
1. Đức Chúa Trời đã yêu thương sắp đặt gì cho nhân loại tội lỗi?
GIÊ-HÔ-VA ĐỨC CHÚA TRỜI, vì lòng yêu thương bao la đối với nhân loại nên đã cung cấp một sinh tế để cất đi tội lỗi của thế gian (Giăng 1:29; 3:16). Để làm thế, ngài phải chuyển sự sống của Con đầu lòng của ngài từ trên trời vào lòng một trinh nữ Do Thái tên là Ma-ri. Thiên sứ Đức Giê-hô-va giải thích rõ ràng cho Ma-ri rằng con trẻ mà nàng thụ thai sẽ là “con thánh... phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:34, 35). Giô-sép là vị hôn phu của Ma-ri đã được cho biết về việc Ma-ri thụ thai Giê-su qua phép lạ và ông biết được rằng ngài sẽ “cứu dân mình ra khỏi tội” (Ma-thi-ơ 1:20, 21).
2. Giê-su đã làm gì khi ngài khoảng 30 tuổi, và tại sao?
2 Khi lớn lên, Giê-su hẳn đã hiểu được một số sự kiện về sự sanh ra mầu nhiệm của ngài. Ngài biết Cha trên trời của ngài có một công việc cứu mạng giao cho ngài làm trên đất. Vậy, khi đã trưởng thành độ 30 tuổi, Giê-su đi gặp nhà tiên tri của Đức Chúa Trời là Giăng để làm báp têm nơi sông Giô-đanh (Mác 1:9; Lu-ca 3:23).
3. a) Giê-su muốn nói gì qua những lời: “Chúa chẳng muốn hi-sinh, cũng chẳng muốn lễ-vật”? b) Giê-su đã nêu ra gương xuất sắc nào cho tất cả những ai muốn trở thành môn đồ ngài?
3 Giê-su cầu nguyện lúc làm báp têm (Lu-ca 3:21). Hiển nhiên, kể từ đó về sau trong đời ngài, ngài làm trọn những lời nơi Thi-thiên 40:6-8, như sứ đồ Phao-lô sau đó có ghi: “Chúa chẳng muốn hi-sinh, cũng chẳng muốn lễ-vật, nhưng Chúa đã sắm-sửa một thân-thể cho tôi” (Hê-bơ-rơ 10:5). Như vậy, Giê-su đã tỏ ra ý thức được rằng Đức Chúa Trời “chẳng muốn” các con sinh tế tiếp tục được dâng nơi đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Thay vì thế, Giê-su hiểu rằng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho ngài một thân thể con người hoàn toàn để dâng lên làm sinh tế. Vì thế sẽ không còn phải dâng sinh tế nào khác nữa. Bày tỏ ước vọng chân thành phục tùng ý muốn Đức Chúa Trời, Giê-su cầu nguyện tiếp: “Hỡi Đức Chúa Trời, nầy tôi đến—Trong sách có chép về tôi—Tôi đến để làm theo ý-muốn Chúa” (Hê-bơ-rơ 10:7). Quả thật, ngày hôm đó Giê-su đã nêu ra một gương phi thường làm sao về lòng can đảm và tin kính bất vị kỷ cho tất cả những ai sau này sẽ trở nên môn đồ ngài! (Mác 8:34).
4. Bằng cách nào Đức Chúa Trời cho thấy rằng ngài chấp nhận việc Giê-su dâng chính thân mình?
4 Đức Chúa Trời có tỏ ra là ngài chấp nhận lời cầu nguyện của Giê-su khi làm báp têm không? Chúng ta hãy nghe câu trả lời của một trong các sứ đồ mà Giê-su đã chọn: “Vừa khi chịu phép báp-têm rồi, Đức Chúa Jêsus ra khỏi nước; bỗng-chúc các từng trời mở ra, Ngài thấy Thánh-Linh của Đức Chúa Trời ngự xuống như chim bò-câu, đậu trên Ngài. Tức thì có tiếng từ trên trời phán rằng: Nầy là Con yêu-dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Ma-thi-ơ 3:16, 17; Lu-ca 3:21, 22).
5. Bàn thờ ngày xưa trong đền thờ tượng trưng cho gì?
5 Sự kiện Đức Chúa Trời chấp nhận việc Giê-su dâng thân thể mình làm của-lễ có nghĩa là, theo nghĩa thiêng liêng, một bàn thờ lớn hơn bàn thờ tại đền Giê-ru-sa-lem đã được làm nổi bật hẳn lên. Bàn thờ ngày xưa, nơi dâng các con sinh tế, tượng trưng cho bàn thờ thiêng liêng ấy, và đây thật ra là “ý-muốn” của Đức Chúa Trời hoặc sự sắp đặt của ngài để nhận sự sống làm người của Giê-su làm của-lễ hy sinh (Hê-bơ-rơ 10:10). Đó là lý do tại sao Phao-lô đã có thể viết cho anh em tín đồ: “Chúng ta có một cái bàn-thờ, phàm kẻ hầu việc trong đền-tạm [hoặc đền thờ] không có phép lấy gì tại đó mà ăn” (Hê-bơ-rơ 13:10). Nói cách khác, tín đồ thật của đấng Christ hưởng được lợi ích nhờ một của-lễ chuộc tội cao cả hơn mà phần đông các thầy tế lễ Do Thái đã bác bỏ.
6. a) Khi Giê-su làm báp têm thì cái gì nổi bật hẳn lên? b) Tước hiệu đấng Mê-si hoặc đấng Christ, có nghĩa gì?
6 Sự kiện Giê-su được xức dầu bằng thánh linh có nghĩa là Đức Chúa Trời bấy giờ đã thiết lập một sự sắp đặt toàn diện về đền thờ thiêng liêng của ngài, có Giê-su làm Thầy tế lễ thượng phẩm (Công-vụ các Sứ-đồ 10:38; Hê-bơ-rơ 5:5). Môn đồ Lu-ca đã được soi dẫn để nêu rõ năm mà biến cố trọng đại này xảy ra là “năm thứ mười lăm đời Sê-sa Ti-be-rơ” (Lu-ca 3:1-3). Năm đó tương ứng với năm 29 công nguyên—đúng 69 tuần lễ năm, tức 483 năm, kể từ khi Vua Ạt-ta-xét-xe đã hạ lệnh xây lại tường thành Giê-ru-sa-lem (Nê-hê-mi 2:1, 5-8). Theo lời tiên tri thì “Đấng chịu xức dầu, tức là vua” sẽ xuất hiện vào năm đã được báo trước ấy (Đa-ni-ên 9:25). Nhiều người Do Thái rõ ràng đã ý thức được điều này. Lu-ca thuật lại rằng “dân-chúng vẫn trông-đợi” sự xuất hiện của đấng Mê-si, tức đấng Christ, các tước hiệu bằng tiếng Hê-bơ-rơ và Hy Lạp này có cùng nghĩa là “Đấng được xức dầu” (Lu-ca 3:15).
7. a) Khi nào Đức Chúa Trời xức dầu cho “Nơi Rất Thánh”, và điều này có nghĩa gì? b) Có điều gì khác xảy ra khi Giê-su làm báp têm?
7 Vào lúc Giê-su làm báp têm, nơi ngự trị của Đức Chúa Trời ở trên trời được xức dầu, hoặc được biệt riêng ra, làm “Nơi Rất Thánh” trong sự sắp đặt về đền thờ thiêng liêng (Đa-ni-ên 9:24). “Đền-tạm [hoặc đền thờ] thật, bởi Chúa dựng lên, không phải bởi một người nào” đã bắt đầu hoạt động (Hê-bơ-rơ 8:2). Ngoài ra, qua việc làm báp têm trong nước và bằng thánh linh, Giê-su Christ với tư cách là con người được sanh lại làm Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời. (So sánh Giăng 3:3). Điều này có nghĩa là đến kỳ định Đức Chúa Trời sẽ gọi Con ngài trở về sống ở trên trời và phụng sự bên hữu Cha mình với tư cách Vua và Thầy tế lễ thượng phẩm “đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc” (Hê-bơ-rơ 6:20; Thi-thiên 110:1, 4).
Nơi Rất Thánh ở trên trời
8. Bấy giờ thì ngôi của Đức Chúa Trời trên trời bắt đầu có những khía cạnh nào mới?
8 Vào ngày Giê-su làm báp têm, ngôi của Đức Chúa Trời ở trên trời bắt đầu có những khía cạnh mới. Việc Đức Chúa Trời định rõ của-lễ hy sinh hoàn toàn của một người để chuộc tội cho thế gian nhấn mạnh sự thánh thiện của Đức Chúa Trời tương phản với sự tội lỗi của con người. Lòng thương xót của Đức Chúa Trời cũng được nổi bật lên theo nghĩa là bây giờ ngài tỏ ra sẵn sàng dịu lòng lại. Vậy ngôi của Đức Chúa Trời ở trên trời đã trở thành giống như gian phòng trong cùng nhất của đền thờ, nơi mà thầy tế lễ thượng phẩm đi vào mỗi năm một lần đem theo huyết con thú để chuộc tội theo nghĩa tượng trưng.
9. a) Bức màn nằm giữa Nơi Thánh và Nơi Rất Thánh tượng trưng cho điều gì? b) Giê-su đã vượt qua bức màn của đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời như thế nào?
9 Bức màn nằm giữa Nơi Thánh và Nơi Rất Thánh tượng trưng cho thân thể phàm trần của Giê-su (Hê-bơ-rơ 10:19, 20). Khi còn là người trên đất, thân thể của Giê-su là bức màn ngăn cản ngài không được vào thấy mặt Cha ngài (I Cô-rinh-tô 15:50). Lúc Giê-su chết, “cái màn trong đền-thờ bị xé ra làm hai từ trên chí dưới” (Ma-thi-ơ 27:51). Điều này cho thấy một cách hết sức rõ ràng rằng không còn có gì ngăn trở Giê-su về trời nữa. Ba ngày sau đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời thực hiện một phép lạ khác thường. Ngài làm cho Giê-su sống lại từ kẻ chết, không phải bằng thịt và huyết để làm con người có thể chết, nhưng dưới dạng tạo vật thần linh “hằng có đời đời” (Hê-bơ-rơ 7:24). Bốn mươi ngày sau đó, Giê-su lên trời và vào “Nơi Rất Thánh” thật sự, “để... vì chúng ta hiện ra trước mặt Đức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 9:24).
10. a) Điều gì đã xảy ra sau khi Giê-su đệ trình giá trị của sự hy sinh của ngài cho Cha ngài trên trời? b) Được xức dầu bằng thánh linh có nghĩa gì đối với môn đồ của đấng Christ?
10 Đức Chúa Trời có nhận giá trị của huyết Giê-su đổ ra nhằm chuộc tội cho thế gian không? Có, ngài có nhận. Bằng chứng là vào ngày Lễ Ngũ tuần, đúng 50 ngày sau khi Giê-su sống lại, Đức Chúa Trời đổ thánh linh xuống 120 môn đồ của Giê-su nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem (Công-vụ các Sứ-đồ 2:1, 4, 33). Giống như Thầy tế lễ thượng phẩm của họ là Giê-su Christ, bấy giờ họ được xức dầu để phụng sự với “chức tế-lễ thánh, đặng dâng của tế-lễ thiêng-liêng” dưới sự sắp đặt về đền thờ thiêng liêng lớn của Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 2:5). Hơn nữa, những người được xức dầu này hợp thành một nước mới, “dân thánh” Y-sơ-ra-ên thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Từ đó về sau, tất cả những điều tốt đẹp được tiên tri về dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hạn như lời hứa về “giao-ước mới” ghi nơi Giê-rê-mi 31:31, sẽ áp dụng cho hội thánh đấng Christ được xức dầu, những người thật sự là dân “Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời” (I Phi-e-rơ 2:9; Ga-la-ti 6:16).
Những khía cạnh khác của đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời
11, 12. a) Hành lang của thầy tế lễ tượng trưng cho điều gì trong trường hợp của Giê-su, và tượng trưng cho điều gì trong trường hợp các môn đồ được xức dầu của ngài? b) Thùng nước tượng trưng cho điều gì, và được dùng như thế nào?
11 Dù Nơi Rất Thánh tượng trưng cho “chính trong trời”, nơi Đức Chúa Trời ngự trị trên ngôi, tất cả các khía cạnh khác của đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời đều liên quan đến những sự trên đất (Hê-bơ-rơ 9:24). Trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, có một hành lang bên trong dành cho các thầy tế lễ, chỗ để bàn thờ dâng của-lễ và một cái thùng nước lớn đặng các thầy tế lễ rửa tay chân trước khi hành lễ. Những thứ này tượng trưng cho điều gì trong sự sắp đặt về đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời?
12 Trong trường hợp của Giê-su Christ, hành lang phía trong dành cho các thầy tế lễ tượng trưng cho tình trạng không tội lỗi của ngài với tư cách là người hoàn toàn, Con của Đức Chúa Trời. Nhờ đặt đức tin nơi sự hy sinh của Giê-su, các môn đồ được xức dầu của đấng Christ được xưng công bình. Vậy Đức Chúa Trời đúng lý có thể đối xử với họ như thể họ không có tội lỗi (Rô-ma 5:1; 8:1, 33). Vì vậy, hành lang này cũng tượng trưng cho tình trạng được cho là công bình của từng thành viên thuộc ban tế lễ thánh trước mắt Đức Chúa Trời trong khi họ còn làm người. Đồng thời, các tín đồ đấng Christ được xức dầu vẫn còn bất toàn và có thể phạm tội. Thùng nước trong hành lang tượng trưng cho Lời Đức Chúa Trời, mà Thầy tế lễ thượng phẩm dùng để từ từ tẩy sạch những người thuộc ban tế lễ thánh. Nhờ chịu tẩy sạch từ từ mà các tín đồ được xức dầu có được dáng vẻ đáng tôn quí làm vinh hiển Đức Chúa Trời và thu hút những người khác đến với sự thờ phượng thật của ngài. (Ê-phê-sô 5:25, 26; so sánh Ma-la-chi 3:1-3).
Nơi Thánh
13, 14. a) Nơi Thánh trong đền thờ tượng trưng cho điều gì trong trường hợp Giê-su và các môn đồ được xức dầu của ngài? b) Chân đèn bằng vàng tượng trưng cho điều gì?
13 Gian phòng thứ nhất trong đền thờ tượng trưng một tình trạng cao quí hơn so với tình trạng của những ai ở nơi hành lang. Trong trường hợp của người hoàn toàn Giê-su Christ, phòng đó tượng trưng cho việc ngài sanh lại với tư cách Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời, đấng sẽ trở về để sống trên trời. Sau khi được xưng công bình dựa trên đức tin của họ nơi huyết đấng Christ đã đổ ra, các môn đồ xức dầu này cũng được thánh linh Đức Chúa Trời hoạt động một cách đặc biệt trên họ (Rô-ma 8:14-17). Qua “nước [tức việc họ làm báp têm] và Thánh-Linh”, họ được “sanh lại” làm con thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Với tư cách đó, họ có hy vọng sống lại trên trời dưới dạng con thần linh của Đức Chúa Trời, miễn là họ tiếp tục trung thành cho đến chết (Giăng 3:5, 7; Khải-huyền 2:10).
14 Các thầy tế lễ phụng sự trong Nơi Thánh của đền thờ trên đất được che khuất khỏi tầm mắt của những người thờ phượng ở bên ngoài. Cũng vậy, các tín đồ đấng Christ được xức dầu có được một tình trạng thiêng liêng mà phần đông những người thờ phượng Đức Chúa Trời có hy vọng sống đời đời trong địa đàng trên đất không có hoặc không hoàn toàn hiểu được. Chân đèn bằng vàng trong đền tạm tượng trưng cho tình trạng được soi sáng của tín đồ đấng Christ được xức dầu. Hoạt động của thánh linh Đức Chúa Trời, giống như dầu trong cây đèn, tỏa ánh sáng ra trên Kinh-thánh. Nhờ đó mà tín đồ đấng Christ thâu thập sự hiểu biết nhưng họ không giữ lại sự hiểu biết này cho riêng họ. Thay vì thế, họ vâng lời Giê-su nói như sau: “Các ngươi là sự sáng của thế-gian;... Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi-khen Cha các ngươi trên trời” (Ma-thi-ơ 5:14, 16).
15. Bánh ở trên bàn bánh trần thiết tượng trưng cho điều gì?
15 Để tiếp tục ở trong tình trạng được soi sáng, các tín đồ đấng Christ được xức dầu phải tự nuôi dưỡng đều đặn bằng những gì được tượng trưng bởi bánh ở trên bàn bánh trần thiết. Nguồn thức ăn thiêng liêng chính yếu là Lời Đức Chúa Trời, Lời mà họ cố gắng đọc và suy gẫm hằng ngày. Giê-su cũng đã hứa là sẽ cung cấp cho họ “đồ-ăn đúng giờ” qua lớp người “đầy-tớ trung-tín và khôn-ngoan” của ngài (Ma-thi-ơ 24:45). Lớp người “đầy-tớ” này là toàn bộ nhóm tín đồ đấng Christ được xức dầu sống trên đất vào bất cứ thời điểm nào. Đấng Christ đã dùng nhóm tín đồ được xức dầu này để công bố tin tức về sự ứng nghiệm của các lời tiên tri trong Kinh-thánh và chỉ dẫn đúng lúc cách áp dụng các nguyên tắc Kinh-thánh vào đời sống hiện đại. Bởi vậy, tín đồ đấng Christ được xức dầu lấy lòng biết ơn mà tự nuôi dưỡng bằng tất cả những sự sắp đặt thiêng liêng thể ấy. Nhưng sự sống thiêng liêng của họ không chỉ tùy thuộc vào việc thâu thập sự hiểu biết về Đức Chúa Trời vào tâm trí họ. Giê-su nói: “Đồ-ăn của ta tức là làm theo ý-muốn của Đấng sai ta đến, và làm trọn công-việc Ngài” (Giăng 4:34). Cũng vậy, tín đồ đấng Christ được xức dầu được mãn nguyện nhờ hằng ngày chăm chỉ làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời được tiết lộ cho họ.
16. Công việc phụng sự tại bàn thờ dâng hương tượng trưng cho điều gì?
16 Vào buổi sáng và vào buổi tối, một thầy tế lễ dâng hương cho Đức Chúa Trời trên bàn thờ để hương trong Nơi Thánh. Đồng thời, những người thờ phượng không thuộc ban tế lễ thì cầu nguyện Đức Chúa Trời khi đứng trong các hành lang ở phía ngoài đền thờ của ngài (Lu-ca 1:8-10). Kinh-thánh giải thích: “Hương... là những lời cầu-nguyện của các thánh” (Khải-huyền 5:8). Người viết Thi-thiên Đa-vít viết: “Nguyện lời cầu-nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa như hương” (Thi-thiên 141:2). Các tín đồ đấng Christ được xức dầu cũng quí trọng đặc ân đến gần Đức Giê-hô-va trong lời cầu nguyện qua Giê-su Christ. Những lời cầu nguyện tha thiết từ đáy lòng giống như mùi hương ngào ngạt. Các tín đồ đấng Christ được xức dầu cũng ca ngợi Đức Chúa Trời bằng những cách khác, dùng môi miếng của họ để dạy người khác. Đức Chúa Trời đặc biệt lấy làm hài lòng về việc họ kiên trì chịu đựng những sự khó khăn và giữ trung thành trong thử thách (I Phi-e-rơ 2:20, 21).
17. Sự kiện thầy tế lễ thượng phẩm vào Nơi Rất Thánh lần đầu tiên trong Ngày Đại lễ chuộc tội cung cấp hình bóng tiên tri tượng trưng cho sự ứng nghiệm của điều gì?
17 Vào Ngày Đại lễ chuộc tội, thầy tế lễ thượng phẩm của Y-sơ-ra-ên phải vào Nơi Rất Thánh và đốt hương trong một lư hương bằng vàng đựng than đỏ hực. Ông phải làm điều này trước khi đem huyết của các con sinh tế chuộc tội. Để làm ứng nghiệm hình ảnh tiên tri này, Giê-su khi làm người sống trên đất đã hoàn toàn trung thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời trước khi ngài dâng sự sống của mình làm của-lễ lâu dài cho tội lỗi của chúng ta. Nhờ vậy ngài chứng tỏ rằng một người hoàn toàn có thể giữ sự trung kiên với Đức Chúa Trời bất luận Sa-tan làm áp lực tới độ nào (Châm-ngôn 27:11). Khi bị thử thách, Giê-su “đã kêu lớn tiếng khóc-lóc mà dâng những lời cầu-nguyện nài-xin... vì lòng nhơn-đức Ngài, nên được nhậm lời” (Hê-bơ-rơ 5:7). Bằng cách này, ngài làm vinh hiển Đức Giê-hô-va là Đấng Thống trị công bình và chính đáng của vũ trụ. Đức Chúa Trời thưởng cho Giê-su bằng cách làm Giê-su sống lại từ kẻ chết để sống đời đời ở trên trời. Trong địa vị cao cả này, Giê-su chú ý đến lý do phụ thuộc tại sao ngài xuống đất, ấy là làm cho những người có tội mà biết ăn năn được hòa thuận lại với Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 4:14-16).
Sự vinh quang lớn hơn của đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời
18. Đức Giê-hô-va đã mang lại vinh quang đặc biệt cho đền thờ thiêng liêng của ngài như thế?
18 Đức Giê-hô-va tiên tri: “Vinh quang sau-rốt của nhà nầy sẽ lớn hơn vinh-quang trước” (A-ghê 2:9). Bằng cách khiến Giê-su sống lại với tư cách vị Vua bất tử và Thầy tế lễ thượng phẩm, Đức Giê-hô-va mang lại vinh quang đặc biệt cho đền thờ thiêng liêng của ngài. Giê-su bây giờ ở trong vị thế có thể đem lại “sự cứu-rỗi đời đời cho kẻ vâng lời Ngài” (Hê-bơ-rơ 5:9). Những người đầu tiên tỏ ra vâng lời ngài là 120 môn đồ nhận được thánh linh vào ngày Lễ Ngũ tuần năm 33 công nguyên. Cuốn sách Khải-huyền tiên tri rằng số những người con Y-sơ-ra-ên thiêng liêng cuối cùng sẽ là 144.000 (Khải-huyền 7:4). Khi chết đi, nhiều người này đã phải ngủ trong mồ chung của nhân loại, chờ đợi thời kỳ Giê-su hiện diện trong vương quyền Nước Trời. Niên đại tiên tri ghi nơi Đa-ni-ên 4:10-17, 20-27 chỉ về năm 1914 là thời điểm Giê-su bắt đầu cai trị giữa những kẻ thù nghịch ngài (Thi-thiên 110:2). Qua hàng chục năm trước đó, các tín đồ đấng Christ được xức dầu đã nóng lòng chờ đợi năm ấy. Thế chiến thứ nhất và các tai ương tiếp theo sau trên nhân loại đưa ra bằng chứng là Giê-su đã thật sự lên ngôi làm Vua năm 1914 (Ma-thi-ơ 24:3, 7, 8). Ít lâu sau đó, đến lúc “sự phán-xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời”, Giê-su đã thực hiện lời hứa với các môn đồ được xức dầu của ngài đã ngủ trong sự chết: “Ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta” (I Phi-e-rơ 4:17; Giăng 14:3).
19. Những người còn sót lại trong số 144.000 sẽ vào được Nơi Rất Thánh ở trên trời như thế nào?
19 Số 144.000 thành viên của ban thầy tế lễ thánh đã chưa được đóng ấn tất cả và tập hợp ở nhà của họ trên trời. Một số người này vẫn còn sống trên đất trong tình trạng thiêng liêng được tượng trưng bởi Nơi Thánh, ngăn cách với sự hiện diện thánh của Đức Chúa Trời bởi “cái màn” hoặc hàng rào của xác thịt họ. Khi những người này chết đi trong sự trung thành, họ được sống lại ngay lập tức là các tạo vật thần linh bất tử để hợp nhất với những người trong số 144.000 đã lên trời rồi (I Cô-rinh-tô 15:51-53).
20. Những người còn sót lại của ban thầy tế lễ thánh đang thực hiện công việc trọng yếu nào trong thời kỳ này, và với thành quả nào?
20 Nhờ có nhiều thầy tế lễ như thế phụng sự cùng với Thầy tế lễ thượng phẩm ở trên trời, đền thờ thiêng liêng của Đức Chúa Trời đã được vinh quang thêm lên. Trong khi đó, những người còn sót lại trong ban thầy tế lễ thánh đang thực hiện một công việc quan trọng trên đất. Qua công việc rao giảng của họ, Đức Chúa Trời “làm rúng-động hết thảy các nước” bằng những lời phán xét, như được tiên tri nơi A-ghê 2:7. Đồng thời, hàng triệu người thờ phượng được miêu tả như là “những sự ao-ước của các nước” đang đổ xô vào hành lang trên đất của đền thờ Đức Giê-hô-va. Những người này có chỗ đứng nào trong sự sắp đặt của Đức Chúa Trời về sự thờ phượng, và chúng ta có thể mong đợi đền thờ lớn của ngài sẽ có được vinh quang nào? Các câu hỏi này sẽ được xem xét trong bài kế tiếp.
Câu hỏi ôn lại
◻ Giê-su nêu ra gương xuất sắc nào vào năm 29 công nguyên?
◻ Sự sắp đặt nào bắt đầu có hiệu lực vào năm 29 công nguyên?
◻ Nơi Thánh và Nơi Rất Thánh tượng trưng cho những gì?
◻ Đền thờ thiêng liêng lớn được vinh hiển như thế nào?
[Hình nơi trang 17]
Khi Giê-su được xức dầu bằng thánh linh vào năm 29 công nguyên, đền thờ thiêng liêng lớn của Đức Chúa Trời bắt đầu hoạt động