THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • Người Mác-ca-bê là ai?
    Tháp Canh—1998 | 15 tháng 11
    • Người Mác-ca-bê là ai?

      ĐỐI VỚI nhiều người, thời kỳ người Mác-ca-bê giống như một cái hộp đen giấu kín vào khoảng thời gian từ lúc hoàn tất các sách cuối cùng của Kinh-thánh phần tiếng Hê-bơ-rơ đến lúc Chúa Giê-su Christ đến. Giống như một số chi tiết được tiết lộ khi nghiên cứu cái hộp đen sau khi phi cơ rớt, chúng ta có thể thông sáng thêm ít nhiều nhờ xem xét kỹ thời kỳ Mác-ca-bê—một thời kỳ chuyển tiếp và biến chuyển của nước Do Thái.

      Người Mác-ca-bê là ai? Họ ảnh hưởng thế nào đến đạo Do Thái trước khi Đấng Mê-si đến như đã được báo trước? (Đa-ni-ên 9:25, 26).

      Cao trào văn minh Hy Lạp

      A-léc-xan-đơ Đại Đế đã chinh phục được lãnh thổ khắp nơi từ Hy Lạp đến Ấn Độ (336-323 TCN). Vương quốc rộng lớn của ông là một yếu tố trong việc phổ biến nền văn minh Hy Lạp—ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp. Các sĩ quan và quân lính của A-léc-xan-đơ cưới các phụ nữ địa phương, tạo ra một sự pha trộn các nền văn hóa Hy Lạp và ngoại quốc. Sau khi A-léc-xan-đơ chết, vương quốc của ông bị chia cho các tướng lãnh. Vào đầu thế kỷ thứ hai TCN, Antiochus III thuộc vương triều Hy Lạp Seleucid ở Sy-ri giành quyền kiểm soát Israel từ vương triều Hy Lạp Ptolemies ở Ai Cập. Sự thống trị của văn hóa Hy Lạp đã ảnh hưởng thế nào đến người Do Thái ở Israel?

      Một sử gia viết: “Vì lẽ người Do Thái không thể tránh tiếp xúc với những nước láng giềng bị Hy Lạp hóa, càng khó tránh tiếp xúc với các anh em Do Thái ở hải ngoại, cho nên việc hấp thụ nền văn hóa và lối suy nghĩ của Hy Lạp là điều không thể tránh được... Chỉ cần sống trong thời kỳ văn hóa Hy Lạp là hấp thụ nền văn hóa Hy Lạp!” Người Do Thái lấy tên Hy Lạp. Không nhiều thì ít, họ tiếp nhận các phong tục và y phục của người Hy Lạp. Tiến trình đồng hóa tinh vi đang tiến đến cao trào.

      Các thầy tế lễ hối lộ

      Trong số những người Do Thái dễ bị ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp nhất có các thầy tế lễ. Đối với nhiều người trong họ, chấp nhận nền văn hóa Hy Lạp có nghĩa là để cho đạo Do Thái tiến triển theo thời. Một người Do Thái như thế là Jason (tức Giô-suê trong tiếng Hê-bơ-rơ), em trai của thầy tế lễ cả Onias III. Trong khi Onias đi An-ti-ốt, Jason hối lộ tiền cho nhà cầm quyền Hy Lạp. Để làm gì? Để họ bổ nhiệm Jason làm thầy tế lễ cả thay cho Onias. Nhà cầm quyền Hy Lạp thuộc vương triều Seleucid là Antiochus Epiphanes (175-164 TCN) sẵn sàng nhận tiền hối lộ. Các vua chúa Hy Lạp trước đó đã không can thiệp vào chức vụ tế lễ cả của người Do Thái, nhưng Antiochus cần tiền cho các chiến dịch quân sự. Ông cũng hài lòng có một lãnh tụ Do Thái tích cực hơn trong việc phổ biến văn hóa Hy Lạp. Khi được Jason yêu cầu, Antiochus ban cho thành Giê-ru-sa-lem qui chế thành trì Hy Lạp (polis). Bù lại, Jason xây một vận động trường, nơi đó các thanh niên Do Thái và cả các thầy tế lễ cũng thi đấu.

      Sự phản bội chuốc lấy phản bội. Ba năm sau đó, Menelaus, người có thể không thuộc dòng dõi thầy tế lễ, hối lộ nhiều tiền hơn, và Jason đã chạy trốn. Để trả tiền cho Antiochus, Menelaus lấy trong ngân khố của đền thờ ra những món tiền lớn. Vì Onias III (bị lưu đày ở An-ti-ốt) lên tiếng nghịch lại vụ này, Menelaus âm mưu sát hại ông ta.

      Khi người ta phao tin đồn rằng Antiochus đã chết, Jason trở về Giê-ru-sa-lem cùng một ngàn người với nỗ lực giành lại chức vụ tế lễ cả từ tay Menelaus. Nhưng Antiochus không chết. Nghe nói về hành động của Jason và về sự náo động giữa những người Do Thái bất chấp chính sách phổ biến văn hóa Hy Lạp của ông, Antiochus phản ứng kịch liệt.

      Antiochus ra tay

      Trong sách The Maccabees, Moshe Pearlman viết: “Dù lịch sử không nói trắng ra, dường như Antiochus đã kết luận rằng việc để cho dân Do Thái có quyền tự do tín ngưỡng là một sai lầm chính trị. Đối với ông, cuộc nổi loạn vừa qua của người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem đã không phải hoàn toàn do động lực tôn giáo mà do một tâm trạng thân Ai Cập thịnh hành ở Giu-đê, và những cảm nghĩ chính trị này đã được biểu lộ một cách nguy hiểm chính là bởi vì người Do Thái, dân tộc duy nhất trong mọi dân mà ông thống trị, đã tìm kiếm và đã nhận được rộng quyền phân lập tôn giáo... Ông quyết định rằng phải chấm dứt tình trạng này”.

      Chính khách và học giả Israel là Abba Eban tóm lược những gì xảy ra sau đó: “Sự việc xảy ra liên tiếp vào các năm 168 và 167 [TCN], người Do Thái bị sát hại, Đền Thờ bị cướp bóc, người Do Thái bị cấm hành đạo. Hễ ai chịu phép cắt bì, cũng như ai giữ luật Sa-bát, tất bị xử tử. Rồi sự sỉ nhục tối hậu đến vào tháng 12 năm 167, khi theo lệnh của Antiochus, người ta dựng một bàn thờ cho thần Zeus ngay trong Đền Thờ và người Do Thái phải tế thịt heo—dĩ nhiên là đồ ô uế theo luật pháp Do Thái—cho thần của người Hy Lạp”. Trong giai đoạn này, Menelaus và những người Do Thái khác bị Hy Lạp hóa tiếp tục nắm giữ địa vị của họ, hành lễ ở một đền thờ nay đã bị ô uế.

      Trong khi nhiều người Do Thái chấp nhận nền văn hóa Hy Lạp, một nhóm mới tự xưng là người Hasidim—những người sùng đạo—khuyến khích người ta tuân thủ Luật Môi-se triệt để hơn. Giờ đây, chán ghét các thầy tế lễ bị Hy Lạp hóa, những người dân thường càng ngày càng đứng về phía người Hasidim. Một giai đoạn tử vì đạo bắt đầu khi người Do Thái ở khắp nước bị cưỡng bách tuân theo các phong tục và việc cúng tế ngoại giáo hoặc phải chết. Các sách ngụy tác Mác-ca-bê kể lại nhiều vụ đàn ông, đàn bà và trẻ em thà chết còn hơn là hòa giải.

      Người Mác-ca-bê phản ứng

      Các hành động cực đoan của Antiochus đã khiến nhiều người Do Thái tranh đấu vì tôn giáo của họ. Ở Modiʼin, tây bắc thành Giê-ru-sa-lem gần thành phố Lod hiện đại, một thầy tế lễ tên là Mattathias được triệu vào trung tâm thị trấn. Vì Mattathias được dân chúng kính trọng, nên các đại diện của vua tìm cách thuyết phục ông tham gia cúng tế thần ngoại giáo—hầu tự cứu lấy mạng sống mình và làm gương cho dân chúng. Khi Mattathias khước từ, một người Do Thái khác bước ra, sẵn sàng hòa giải. Đầy phẫn nộ, Mattathias rút ra một vũ khí và giết y. Kinh ngạc trước phản ứng kịch liệt của người lớn tuổi này, lính Hy Lạp trở tay không kịp. Trong vòng ít giây, Mattathias cũng đã giết chết sĩ quan Hy Lạp nữa. Năm người con của Mattathias và dân thành áp đảo đội quân Hy Lạp trước khi họ có thể tự vệ.

      Mattathias hét lên: ‘Ai nhiệt thành đối với Luật Pháp thì hãy theo ta’. Để tránh bị trả đũa, ông và các con trai trốn đến miền đồi núi. Và khi người ta hay tin về hành động của họ, người Do Thái (kể cả nhiều người Hasidim) nhập bọn với họ.

      Mattathias bổ nhiệm con trai Judah chỉ huy các cuộc hành quân. Có lẽ vì sự dũng cảm khác thường của Judah mà người ta gọi ông là Mác-ca-bê, có nghĩa là “cái búa”. Mattathias và các con trai được mệnh danh là Hasmonaean, một danh hiệu đến từ thị trấn Heshmon hoặc từ một ông tổ có tên đó (Giô-suê 15:27). Tuy nhiên, vì Judah Maccabee đã trở thành nhân vật quan trọng trong cuộc nổi loạn, cả gia đình đều được mệnh danh là người Mác-ca-bê.

      Chiếm lại đền thờ

      Trong năm đầu của cuộc nổi loạn, Mattathias và các con trai đã có thể tổ chức một quân đội nhỏ. Hơn một lần, đạo quân Hy Lạp tấn công nhóm chiến binh Hasidim vào ngày Sa-bát. Dù đủ sức tự vệ, nhưng họ lại không muốn vi phạm ngày Sa-bát. Do đó mà nhiều người bị tàn sát. Mattathias—bấy giờ được xem như một thẩm quyền tôn giáo—đưa ra một quyết định cho phép người Do Thái tự vệ trong ngày Sa-bát. Quyết định này không những tạo cho cuộc nổi loạn một sinh lực mới mà còn đặt ra một lệ trong Do Thái Giáo cho phép các lãnh tụ tôn giáo thích nghi luật pháp tùy theo hoàn cảnh thay đổi. Sách Talmud phản ảnh khuynh hướng đó trong lời tuyên bố sau này: “Hãy cứ để cho họ phạm một ngày Sa-bát hầu cho họ có thể thánh hóa nhiều ngày Sa-bát” (Yoma 85b).

      Sau khi cha già chết đi, Judah Maccabee trở thành lãnh tụ độc tôn của cuộc nổi loạn. Hiểu rằng mình không có khả năng đánh bại quân thù một cách trực diện, ông nghĩ ra những phương pháp mới, giống như du kích chiến thời nay. Ông đánh các lực lượng của Antiochus ở những nơi họ không thể cậy vào các phương pháp phòng thủ thông thường. Vậy sau trận này đến trận khác, Judah đánh bại được quân thù đông hơn mình rất nhiều.

      Vì phải đối phó với các cuộc tranh chấp nội bộ và với cường quốc La Mã đang hồi hưng thịnh, các vua chúa của Đế Chế Seleucid ít quan tâm hơn đến việc thi hành các chiếu chỉ nghịch lại người Do Thái. Điều này đã mở đường cho Judah mở cuộc tấn công các cổng thành Giê-ru-sa-lem. Vào tháng 12 năm 165 TCN (hoặc có lẽ vào năm 164 TCN), ông và các đạo binh của ông chiếm lại được đền thờ, tẩy sạch các khí dụng trong đó và hiến dâng đền thờ lần nữa—ba năm sau khi đền thờ bị xâm phạm. Hàng năm, người Do Thái tưởng niệm biến cố này trong kỳ lễ Hanukkah, lễ hiến dâng.

      Chính trị thay vì tôn giáo

      Các mục tiêu của cuộc nổi loạn đã thành tựu. Lệnh cấm hành đạo Do Thái Giáo đã bị bãi bỏ. Sự thờ phượng và việc dâng các của-lễ tại đền thờ đã được khôi phục. Bây giờ, họ được toại nguyện, nên người Hasidim rời bỏ quân đội của Judah Maccabee và trở về nhà. Nhưng Judah có những ý tưởng khác. Ông có một quân đội khéo huấn luyện, vậy tại sao lại không dùng quân đội để thiết lập một quốc gia Do Thái độc lập? Chính nghĩa tôn giáo khiến cuộc nổi loạn nẩy mầm bây giờ được thay thế bởi các động cơ chính trị. Vì thế cuộc tranh đấu tiếp tục.

      Tìm kiếm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh chống sự đô hộ của đế chế Seleucid, Judah Maccabee lập minh ước với La Mã. Dù ông bị tử trận vào năm 160 TCN, các anh em của ông đã tiếp tục chiến đấu. Em trai của Judah là Jonathan đã vận động để vua chúa triều đại Seleucid đồng ý bổ nhiệm ông làm thầy tế lễ cả và lãnh tụ ở Giu-đê, dù vẫn ở dưới quyền thống trị của họ. Khi Jonathan bị đánh lừa, bị bắt và bị giết vì âm mưu của người Sy-ri, em của ông là Simeon—người chót trong vòng anh em nhà Mác-ca-bê—lên nắm quyền. Dưới sự cai trị của Simeon, vết tích cuối cùng của sự đô hộ của đế chế Seleucid bị xóa bỏ (vào năm 141 TCN). Simeon tái lập hiệp ước liên minh với La Mã và giới lãnh đạo Do Thái chấp nhận ông làm lãnh tụ và thầy tế lễ cả. Vậy một triều đại Hasmonaean độc lập đã được thiết lập trong tay người Mác-ca-bê.

      Người Mác-ca-bê tái lập sự thờ phượng tại đền thờ trước khi Đấng Mê-si đến. (So sánh Giăng 1:41, 42; 2:13-17). Nhưng cũng như những hành động của các thầy tế lễ bị Hy Lạp hóa đã làm cho người ta mất lòng tin nơi chức vụ tế lễ, họ càng mất lòng tin hơn nữa dưới quyền của người Hasmonaean. Thật thế, sự cai trị bởi các thầy tế lễ có đầu óc chính trị thay vì bởi một vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít người trung thành đã không đem lại ân phước thật sự cho dân Do Thái (2 Sa-mu-ên 7:16; Thi-thiên 89:3, 4, 35, 36).

      [Hình nơi trang 21]

      Mattathias, cha của Judah Maccabee, hét lên: ‘Ai nhiệt thành đối với Luật Pháp thì hãy theo ta’

      [Nguồn tư liệu]

      Mattathias kêu gọi những người Do Thái tị nạn/The Doré Bible Illustrations/Dover Publications

  • Tôi có nên vay mượn anh em không?
    Tháp Canh—1998 | 15 tháng 11
    • Tôi có nên vay mượn anh em không?

      CON út của Simon bị bệnh và cần thuốc men gấp. Nhưng Simon rất nghèo nên không có tiền mua. Anh có thể làm gì? Ồ, một người bạn tín đồ Đấng Christ tên Michael khá giả hơn anh. Có lẽ Michael sẽ cho anh mượn tiền. Tuy nhiên, trong thâm tâm Simon biết rằng rất có thể anh sẽ không trả nổi món nợ này.a

      Khi Simon đến gặp anh, thì Michael cảm thấy khó xử. Anh biết rằng Simon thực sự cần, nhưng nghi là Simon sẽ không thể trả nổi nợ vì anh ấy chật vật lắm mới nuôi nổi gia đình. Michael nên làm gì?

      Ở nhiều nước, người ta có thể thình lình mất sinh kế, và vì vậy không có tiền hay bảo hiểm để trả chi phí y tế. Tiền vay ngân hàng có thể không sẵn có hoặc quá đắt. Khi có sự khẩn cấp nảy sinh, xem chừng giải pháp duy nhất là vay mượn. Tuy nhiên, trước khi hỏi mượn tiền, ta cần xét một số vấn đề quan trọng.

      Tính phí tổn

      Kinh-thánh cung cấp lời hướng dẫn cho cả người cho vay lẫn người vay. Bằng cách nghe theo lời khuyên này, chúng ta có thể tránh được nhiều sự hiểu lầm và tổn thương về tình cảm.

      Thí dụ, Kinh-thánh nhắc nhở rằng chúng ta không nên xem nhẹ việc mượn tiền. Sứ đồ Phao-lô khuyên tín đồ Đấng Christ ở Rô-ma: “Đừng mắc nợ ai chi hết,

Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
Đăng xuất
Đăng nhập
  • Việt
  • Chia sẻ
  • Tùy chỉnh
  • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Cài đặt quyền riêng tư
  • JW.ORG
  • Đăng nhập
Chia sẻ