-
Hơn 50 năm bước “qua”Tháp Canh—1996 | 1 tháng 11
-
-
Hơn 50 năm bước “qua”
DO EMMANUEL PATERAKIS KỂ LẠI
Mười chín thế kỷ về trước sứ đồ Phao-lô nhận được một lời mời bất thường: “Hãy qua xứ Ma-xê-đoan mà cứu-giúp chúng tôi”. Phao-lô đã sẵn lòng nhận cơ hội mới này để “rao-truyền Tin-lành” (Công-vụ các Sứ-đồ 16:9, 10). Mặc dầu không phải là tôi đã nhận được lời mời vào thời xa xưa đó, nhưng 50 năm đã trôi qua từ khi tôi nhận lời mời bước “qua” những khu vực mới theo tinh thần của Ê-sai 6:8: “Có tôi đây; xin hãy sai tôi”. Vì đi nhiều nên tôi được gán cho cái danh hiệu là người du lịch không ngừng, nhưng những chuyến đi của tôi không giống những chuyến đi của người du lịch tí nào. Nhiều lần, khi vừa đến phòng quán trọ, tôi liền quỳ gối và cám ơn Đức Giê-hô-va đã che chở tôi.
TÔI sanh vào ngày 16-1-1916 tại Hierápetra, ở Crete, trong một gia đình hết sức sùng bái đạo Chính thống. Ngay từ thuở thơ ấu mẹ đã dắt tôi, chị tôi và hai em gái đi nhà thờ vào Chúa nhật. Còn về phần cha tôi, ông thích ở nhà đọc Kinh-thánh. Tôi rất yêu quí cha tôi, một người lương thiện, có đạo đức và khoan dung. Cái chết của cha, khi tôi lên chín, đã in sâu trong lòng tôi.
Tôi còn nhớ khi lên năm, tôi đọc đoạn văn tại trường học như sau: “Mọi vật quanh ta nói lên sự hiện hữu của Đức Chúa Trời”. Khi tôi lớn lên, tôi hoàn toàn tin chắc điều này. Vì thế khi được 11 tuổi, tôi chọn viết một bài luận văn dùng Thi-thiên 104:24 làm chủ đề: “Hỡi Đức Giê-hô-va, công-việc Ngài nhiều biết bao! Ngài đã làm hết thảy cách khôn-ngoan; trái đất đầy-dẫy tài-sản Ngài”. Tôi rất thích thú những sự kỳ diệu của thiên nhiên, ngay cả đến những thứ đơn giản như những hạt giống có những cánh nhỏ để có thể được gió thổi ra khỏi tàn cây mẹ. Tuần lễ sau khi tôi nộp bài luận văn, thầy tôi đọc bài đó cho cả lớp nghe, và rồi cho cả trường. Vào thời đó, các thầy cô đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản và rất thích nghe tôi bênh vực cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Còn về phần tôi, tôi chỉ vui mừng bày tỏ niềm tin của tôi nơi Đấng Tạo hóa.
Giải đáp cho những câu hỏi của tôi
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Nhân-chứng Giê-hô-va vào những năm đầu của thập niên 1930 vẫn còn sống động trong ký ức tôi. Emmanuel Lionoudakis rao giảng khắp các tỉnh và làng ở Crete. Tôi nhận vài cuốn sách nhỏ từ anh này, nhưng chính cuốn với tựa đề Where Are the Dead? (Người chết đi về đâu?) đã làm tôi chú ý. Tôi kinh khiếp sự chết đến nỗi tôi không dám vào phòng nơi cha tôi chết. Sau khi đọc đi đọc lại sách này và biết được những gì Kinh-thánh dạy về tình trạng của người chết, tôi thấy mình không còn cái sợ mê tín nữa.
Mỗi năm một lần vào mùa hè, các Nhân-chứng đến thăm thị xã chúng tôi và đem thêm nhiều sách báo để tôi đọc. Dần dần tôi hiểu biết nhiều hơn về Kinh-thánh, nhưng tôi vẫn tiếp tục đi nhà thờ Chính thống. Tuy nhiên cuốn sách Deliverance là một khúc quanh cho đời tôi. Cuốn sách này cho thấy rõ ràng sự khác biệt giữa tổ chức của Đức Giê-hô-va và tổ chức của Sa-tan. Từ đấy về sau, tôi bắt đầu học đều đặn hơn Kinh-thánh và bất cứ sách báo nào của Hội Tháp Canh mà tôi có thể vớ được. Vì Nhân-chứng Giê-hô-va bị cấm tại Hy Lạp, tôi học lén vào ban đêm. Tuy nhiên, tôi rất say mê những gì tôi học được đến nỗi tôi không thể không nói cho mọi người nghe về điều này. Chẳng bao lâu cảnh sát bắt đầu theo dõi tôi, họ đến nhà tôi thường xuyên vào bất cứ giờ nào, ngày và đêm để lục tìm sách báo.
Vào năm 1936, tôi dự buổi họp lần đầu tiên, cách Iráklion chừng 120 cây số. Tôi rất mừng được gặp các Nhân-chứng. Phần đông họ là những người đàn ông bình dị, phần nhiều là nông dân, nhưng họ giúp tôi xác định được đây là lẽ thật. Tôi dâng mình cho Đức Giê-hô-va ngay lúc ấy.
Việc báp têm của tôi là một biến cố mà tôi sẽ không bao giờ quên. Một đêm nọ vào năm 1938, Anh Lionoudakis dẫn tôi và hai người mà tôi giúp học hỏi Kinh-thánh ra bãi biển trong đêm tối trời. Sau khi cầu nguyện, anh dìm chúng tôi xuống nước.
Bị bắt giữ
Không nói quá, lần đầu tiên khi tôi đi rao giảng là lần có nhiều sự kiện đáng chú ý. Tôi gặp một người bạn học cũ nay đã trở thành một linh mục và chúng tôi đã thảo luận với nhau rất hứng thú. Nhưng sau đó anh giải thích là để tuân theo lệnh của giám mục, anh phải kêu người đến bắt tôi. Trong lúc chúng tôi ngồi trong văn phòng của thị trưởng để chờ cảnh sát từ làng lân cận đến thì có một nhóm người tụ tập ở ngoài. Vì thế tôi lấy cuốn Kinh-thánh phần tiếng Hy Lạp trong văn phòng và bắt đầu cho họ một bài giảng dựa theo Ma-thi-ơ đoạn 24. Lúc đầu mọi người không chịu nghe, nhưng vị linh mục can thiệp. Anh nói: “Hãy để ông ấy nói, đấy là Kinh-thánh của chúng ta”. Bài giảng của tôi kéo dài một tiếng rưỡi. Như thế, ngày đầu tiên làm thánh chức rao giảng cũng là dịp tôi cho bài giảng công cộng đầu tiên. Vì cảnh sát chưa đến sau khi tôi nói xong bài giảng, thị trưởng và linh mục quyết định cho một nhóm người đuổi tôi ra khỏi thị xã. Ngay khúc quẹo đầu tiên, tôi bắt đầu chạy thật nhanh hết sức mình để tránh những viên đá mà họ ném vào tôi.
Ngày hôm sau, có hai cảnh sát đi cùng với giám mục đến bắt tôi tại nơi làm việc. Tại bót cảnh sát, tôi đã có thể dùng Kinh-thánh để làm chứng cho họ, nhưng vì sách báo giải thích Kinh-thánh của tôi không có con dấu của giám mục như luật pháp ấn định, nên tôi bị buộc tội thu nạp tín đồ và phân phát sách báo bất hợp pháp. Tôi được thả ra chờ ngày hầu tòa.
Một tháng sau tôi ra hầu tòa. Trong lời biện hộ tôi nói rằng tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh của đấng Christ là phải rao giảng (Ma-thi-ơ 28:19, 20). Quan tòa nói một cách mỉa mai: “Con ạ, Người ra mệnh lệnh đó đã bị đóng đinh trên thánh giá. Chẳng may, ông không có thẩm quyền để giáng cho mày một hình phạt tương tự”. Tuy nhiên, một luật sư trẻ tuổi, mà tôi không hề quen biết, đứng ra biện hộ cho tôi, nói rằng vì có quá nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản và vô thần, tòa án nên lấy làm hãnh diện là có những người trẻ sẵn sàng bênh vực Lời Đức Chúa Trời. Kế đến anh luật sư đến gần tôi và nhiệt tình khen tôi về lời biện hộ được viết xuống trong hồ sơ của tôi. Cảm kích trước sự kiện tôi còn quá trẻ, vị luật sư đề nghị biện hộ cho tôi mà không nhận thù lao. Thay vì bị phạt tối thiểu là ba tháng, tôi chỉ bị kết án mười ngày tù và bị phạt vạ 300 đram thôi. Việc bắt bớ như thế chỉ làm cho tôi càng quyết tâm phụng sự Đức Giê-hô-va và bênh vực lẽ thật mà thôi.
Vào một dịp khác khi tôi bị bắt, quan tòa nhận thấy tôi trích dẫn Kinh-thánh một cách thành thạo. Quan tòa yêu cầu giám mục rời phòng, nói rằng: “Ông đã làm xong phận sự của ông. Để tôi xử ông này”. Thế rồi quan tòa lấy Kinh-thánh của ông ra, và chúng tôi nói về Nước Đức Chúa Trời cả buổi chiều. Những kinh nghiệm như thế khuyến khích tôi tiếp tục mặc dầu gặp nhiều khó khăn.
Án tử hình
Vào năm 1940, tôi bị động viên quân dịch và có viết một lá thư giải thích tại sao tôi không thể đồng ý nhập ngũ. Hai ngày sau tôi bị bắt giữ và bị cảnh sát đánh đập tàn nhẫn. Kế đến tôi bị đưa đi mặt trận Albania, nơi đây tôi bị đem xử ở tòa án quân sự vì tôi từ chối không tác chiến. Cơ quan quân sự cho tôi biết rằng dù tôi đúng hay sai họ không quan tâm bằng cảm nghĩ mà gương của tôi có thể gây ra cho các quân nhân. Tôi bị kết án tử hình, nhưng tôi lấy làm mừng là vì sự sơ sót của pháp luật nên tôi được giảm án xuống còn mười năm khổ sai. Trong vài tháng kế tiếp tôi ở trong tù quân sự ở Hy Lạp trong những hoàn cảnh thật là khó khăn mà cho đến bây giờ tôi vẫn phải mang tật nguyền.
Tuy nhiên, tôi không ngưng rao giảng chỉ vì bị tù. Còn ngược lại nữa! Tôi bắt chuyện dễ dàng vì có nhiều người thắc mắc tại sao một thường dân mà lại ở trong nhà tù quân sự. Một trong những cuộc bàn luận như thế với một người trẻ thành thật đưa đến một cuộc học hỏi Kinh-thánh trong sân tù. Ba mươi tám năm sau tôi gặp lại người này tại một hội nghị. Anh ấy đã chấp nhận lẽ thật và đang phụng sự với tư cách giám thị hội thánh tại đảo Lefkás.
Khi quân đội Hitler xâm chiếm Nam Tư vào năm 1941, chúng tôi bị chuyển đến một trại tù xa hơn về phía nam ở Preveza. Trong cuộc hành trình, đoàn xe của chúng tôi bị oanh tạc cơ Đức tấn công, và chúng tôi là tù nhân đều bị bỏ đói. Khi ăn hết mảnh bánh mì, tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời: “Nếu ý của cha là cho con chết đói sau khi đã cứu con khỏi án tử hình thì hãy xin cho ý Cha được nên”.
Ngày hôm sau trong lúc điểm danh, một sĩ quan gọi tôi ra một bên và kêu tôi đi theo ông sau khi biết tôi từ đâu đến, bố mẹ tôi là ai và tại sao tôi bị tù. Ông dẫn tôi đến nhà ăn của sĩ quan trong phố, đưa tôi đến một cái bàn có bánh, pho mát và thịt cừu nướng và bảo tôi cứ tự tiện. Nhưng tôi giải thích rằng lương tâm không cho phép tôi ăn vì 60 tù nhân khác không có gì ăn. Viên sĩ quan trả lời: “Tôi không thể cho tất cả mọi người ăn! Bố anh rất là rộng rãi đối với bố tôi. Tôi có bổn phận tinh thần đối với anh chứ không có bổn phận đối với những người kia”. Tôi trả lời: “Nếu thế thì tôi sẽ trở lại khám thôi”. Viên sĩ quan suy nghĩ một chốc rồi đưa cho tôi một túi thật to để tôi bỏ đầy thức ăn vào.
Khi tôi trở về khám, tôi để cái túi xuống và nói: “Các anh, đồ ăn này là cho các anh”. Điều đáng chú ý là tối hôm trước, tôi bị buộc tội là người chịu trách nhiệm về cảnh ngộ khốn khổ của các tù nhân khác vì tôi không chịu cùng họ cầu nguyện bà Ma-ri Đồng trinh. Tuy nhiên, có một người theo cộng sản đã lên tiếng bênh vực tôi. Bấy giờ, khi thấy thức ăn, ông ta nói với những người kia: “ ‘Bà Ma-ri Đồng trinh’ của mấy người đâu? Mấy người nói chúng ta sẽ phải chết vì người này, thế nhưng đây lại là người đem đến thức ăn cho chúng ta”. Rồi ông quay sang tôi và nói: “Emmanuel! Mời anh nói lời cầu nguyện tạ ơn”.
Chẳng bao lâu sau đó, quân Đức tiến đến gần làm cho lính gác tù chạy trốn, do đó các tù nhân được thả ra. Tôi đi đến Patras để tìm những Nhân-chứng khác trước khi lên đường đi đến Athens vào cuối tháng 5-1941. Tại đây tôi có được quần áo, giầy và được tắm lần đầu tiên sau hơn một năm trời. Cho đến cuối thời kỳ chiếm đóng, quân Đức thường chặn tôi lại khi bắt gặp tôi đi rao giảng, nhưng họ không bao giờ bắt giữ tôi. Một người trong bọn họ nói: “Tại Đức chúng tôi bắn Nhân-chứng Giê-hô-va. Nhưng tại đây chúng tôi ước gì tất cả các kẻ thù của chúng tôi đều là Nhân-chứng!”
Những hoạt động trong thời hậu chiến
Như thể đấu tranh chưa đủ, Hy Lạp còn bị tàn phá thêm bởi nội chiến từ năm 1946 cho đến 1949 khiến hàng ngàn người thiệt mạng. Các anh chị cần rất nhiều sự khuyến khích để vững lòng trong một thời kỳ mà chỉ việc đi nhóm họp thôi cũng có thể làm họ bị bắt giữ. Một vài anh bị kết án tử hình vì giữ vị thế trung lập. Nhưng bất kể những điều này, nhiều người hưởng ứng thông điệp Nước Trời, và chúng tôi có một hay hai người dâng mình làm báp têm mỗi tuần. Vào năm 1947, tôi bắt đầu làm việc tại văn phòng của Hội ở Athens ban ngày và đi viếng thăm các hội thánh vào buổi tối với tư cách là giám thị lưu động.
Vào năm 1948 tôi vui sướng được mời tham dự Trường Kinh-thánh Ga-la-át của Hội Tháp Canh ở Hoa Kỳ. Nhưng tôi có một vấn đề. Vì có những tiền án nên tôi không thể xin được hộ chiếu. Tuy nhiên, một trong những người học hỏi Kinh-thánh của tôi quen thân với một ông tướng. Nhờ học viên này mà chỉ trong vòng vài tuần là tôi có hộ chiếu. Nhưng tôi lo lắng bởi vì không lâu trước khi rời nước thì tôi bị bắt giữ về tội phân phát tạp chí Tháp Canh. Một viên cảnh sát dẫn tôi đến tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia ở Athens. Thật ngạc nhiên thay, ông này lại là người hàng xóm của tôi! Viên cảnh sát giải thích tại sao tôi bị bắt giữ và giao cho ông tổng giám đốc gói tạp chí. Người hàng xóm lấy từ bàn làm việc ra một chồng tạp chí Tháp Canh và nói với tôi: “Tôi chưa có số báo mới. Tôi có thể xin ông một tạp chí được không?” Thật là nhẹ nhõm làm sao thấy được bàn tay của Đức Giê-hô-va trong những vấn đề như thế!
Khóa 16 Trường Ga-la-át vào năm 1950 là cả một kinh nghiệm phong phú. Khi tốt nghiệp, tôi được chỉ định đi Cyprus, và chẳng bao lâu tôi biết được là hàng giáo phẩm ở đó chống đối Nhân-chứng dữ tợn, không kém gì ở Hy Lạp. Chúng tôi thường phải đương đầu với những đám người cuồng tín mà các tu sĩ Chính thống khích động đến độ điên cuồng. Đến năm 1953 chiếu khán của tôi để ở Cyprus không được gia hạn, và tôi được thuyên chuyển đến Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Ở đây, thêm một lần nữa, tôi chỉ ở được một thời gian ngắn. Vì sự căng thẳng về chính trị giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp nên dù công việc rao giảng có kết quả tốt tôi vẫn phải rời đi để nhận nhiệm sở khác ở Ai Cập.
Khi ở trong tù, tôi thường nhớ đến câu Thi-thiên 55:6, 7, nơi đó Đa-vít bày tỏ lòng ước mơ được chạy thoát đến sa mạc. Tôi không hề tưởng tượng được là một ngày kia tôi sẽ đặt chân đến đó. Vào năm 1954, sau một cuộc hành trình nhiều ngày mệt mỏi bằng xe lửa và bằng tàu trên sông Nile, tôi đến Khartoum, Sudan. Tôi chỉ muốn đi tắm rửa và đi ngủ ngay. Nhưng tôi quên lúc ấy đang giữa trưa. Nước chứa trong một cái thùng trên nóc nhà làm tôi bị phỏng, vì thế tôi phải đội nón cối cả mấy tháng cho đến khi da đầu tôi lành lại.
Ở đây tôi thường cảm thấy bị cô lập, một mình ngay giữa sa mạc Sahara, cách hội thánh gần nhất cả ngàn cây số, nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ tôi và ban cho tôi sức lực để tiếp tục. Đôi khi tôi được khuyến khích từ những nguồn không ngờ được. Một hôm, tôi gặp ông giám đốc của Viện bảo tàng Khartoum. Ông ta rất cởi mở, và chúng tôi có một cuộc thảo luận thú vị. Khi biết tôi là người gốc Hy Lạp, ông mời tôi đến viện bảo tàng để dịch một vài lời ghi khắc trên đồ tạo tác tìm thấy trong một nhà thờ xây vào thế kỷ thứ sáu. Sau năm giờ ngột ngạt ở dưới hầm, tôi tìm thấy một cái đĩa nhỏ mang danh của Đức Giê-hô-va viết bằng bốn phụ âm tiếng Hê-bơ-rơ. Thử tưởng tượng nỗi mừng của tôi! Tại Âu châu thấy được danh Đức Chúa Trời trên các nhà thờ không phải là chuyện hiếm, nhưng ngay giữa sa mạc Sahara thì thật là kỳ lạ!
Sau đại hội quốc tế năm 1958, tôi được bổ nhiệm làm giám thị vùng để đi thăm các anh chị ở 26 nước và lãnh thổ thuộc vùng Trung và Cận Đông và chung quanh Địa Trung Hải. Thường thì tôi không biết làm sao thoát ra khỏi một tình thế khó khăn, nhưng Đức Giê-hô-va luôn luôn mở cho tôi một lối thoát.
Tôi luôn luôn khâm phục việc tổ chức của Đức Giê-hô-va lo cho các Nhân-chứng sống cô lập tại những quốc gia nào đó. Vào một dịp, tôi gặp một anh người Ấn Độ làm việc tại một khu mỏ dầu hỏa. Hiển nhiên anh là Nhân-chứng độc nhất trong xứ đó. Trong tủ của anh ở sở làm, anh có sách báo bằng 18 ngôn ngữ khác nhau để phát cho bạn đồng nghiệp. Ngay cả tại đây, nơi mà tất cả những tôn giáo lạ đều bị cấm đoán nghiêm ngặt, anh Nhân-chứng này cũng không quên bổn phận của mình là rao giảng tin mừng. Các đồng nghiệp của anh rất khâm phục khi thấy có một người đại diện của tôn giáo anh được phái đến để thăm anh.
Trong năm 1959 tôi đi thăm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Vào thời đó cả hai nước đều ở dưới chế độ độc tài quân phiệt và công việc của Nhân-chứng Giê-hô-va bị cấm đoán nghiêm ngặt. Trong một tháng tôi có thể điều khiển hơn một trăm buổi họp, khuyến khích các anh chị không nên bỏ cuộc mặc dầu gặp phải khó khăn.
Không còn phải sống một mình
Trong hơn 20 năm, tôi phụng sự Đức Giê-hô-va trọn thời gian với tư cách là một người nam độc thân, nhưng bỗng nhiên tôi cảm thấy chán cảnh đi đây đi đó không một nơi ở cố định. Đó là khoảng thời gian mà tôi gặp Annie Bianucci, một chị tiên phong đặc biệt ở Tunisia. Chúng tôi lấy nhau năm 1963. Vợ tôi yêu thương Đức Giê-hô-va và lẽ thật, tận tụy với thánh chức. Tất cả các điều này cùng với tài dạy dỗ và khả năng nói nhiều ngôn ngữ của bà đã tỏ ra là một ân phước lớn lao cho công việc giáo sĩ và vòng quanh của chúng tôi tại bắc và tây Phi Châu và tại Ý.
Vào tháng 8-1965 tôi và vợ tôi được chỉ định đi Dakar, Senegal. Tại đây tôi có được đặc ân tổ chức văn phòng chi nhánh ở địa phương. Senegal là một nước đáng được chú ý là vì có sự khoan dung tôn giáo, chắc chắn là nhờ tổng thống, Léopold Senghor, một trong số ít các Quốc trưởng Phi Châu đã viết cho tổng thống nước Malawi là Banda để ủng hộ Nhân-chứng Giê-hô-va trong lúc họ bị bắt bớ khủng khiếp tại Malawi vào thập niên 1970.
Ân phước dồi dào của Đức Giê-hô-va
Vào năm 1951, khi tôi rời Trường Ga-la-át để đi đến Cyprus, tôi có bảy túi hành lý. Khi rời nơi này đến Thổ Nhĩ Kỳ, tôi chỉ còn lại năm túi. Nhưng vì di chuyển quá nhiều nên tôi phải quen mang một túi hành lý chỉ được nặng tối đa 20 ký lô, trong đó có cả hồ sơ và cái máy chữ “tí hon”. Một hôm tôi nói với anh Knorr, lúc đó là chủ tịch của Hội Tháp Canh: “Anh đã che chở cho tôi khỏi rơi vào lối sống vật chất. Anh bắt tôi sống với 20 ký lô hành lý, và tôi thỏa mãn”. Tôi chưa bao giờ cảm thấy thiếu thốn vì không có nhiều của cải.
Cái khó khăn chính của tôi trong lúc di chuyển là ra vào các nước. Một hôm tại một nước mà công việc rao giảng bị ngăn cấm, một nhân viên hải quan bắt đầu lục soát các hồ sơ của tôi. Điều này gây ra nguy cơ cho Nhân-chứng trong nước, vì thế tôi lấy trong áo choàng ra một lá thư của vợ tôi gởi và nói với nhân viên hải quan: “Tôi thấy anh thích đọc thư. Anh có muốn đọc thư này của vợ tôi không? Nó không nằm trong đám hồ sơ này”. Nhân viên hải quan lúng túng, cáo lỗi và cho tôi đi.
Từ năm 1982 tôi và vợ tôi làm giáo sĩ tại Nice, phía nam nước Pháp. Vì sức khỏe suy yếu, tôi không còn làm được nhiều như xưa. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi bớt vui đi. Chúng tôi thấy rằng ‘công-khó của chúng tôi trong Chúa chẳng phải là vô-ích đâu’ (I Cô-rinh-tô 15:58). Tôi có niềm vui được thấy nhiều người mà tôi đã có đặc ân giúp học hỏi Kinh-thánh trong nhiều năm qua cũng như hơn 40 người trong gia đình của tôi trung thành phụng sự Đức Giê-hô-va.
Tôi không hề hối tiếc những điều tôi phải hy sinh trong đời sống để ‘bước qua’ phụng sự ở nhiều nơi. Nói cho cùng, không có một sự hy sinh nào của chúng ta có thể so sánh với những điều mà Đức Giê-hô-va và Con ngài là Giê-su Christ đã làm cho chúng ta. Khi tôi nghĩ về quá khứ trong suốt 60 năm tôi biết được lẽ thật, tôi có thể nói rằng Đức Giê-hô-va đã ban ân phước cho tôi một cách dồi dào. Như Châm-ngôn 10:22 nói: “Phước-lành của Đức Giê-hô-va làm cho giàu-có”.
Không một chút nghi ngờ nào, “sự nhơn-từ Chúa tốt hơn mạng-sống” (Thi-thiên 63:3). Vì những khó khăn của tuổi già ngày càng gia tăng, khi cầu nguyện tôi thường nhắc đến những lời của người viết Thi-thiên được soi dẫn: “Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi nương-náu mình nơi Ngài: chớ hề để tôi bị hổ-thẹn. Vì, Chúa Giê-hô-va ôi, Chúa là sự trông-đợi tôi, và là sự tin-cậy tôi từ buổi thơ-ấu. Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa đã dạy tôi từ buổi thơ-ấu; cho đến bây giờ tôi đã rao-truyền các công-việc lạ-lùng của Chúa. Hỡi Đức Chúa Trời, dầu khi tôi đã già và tóc bạc rồi, xin chớ bỏ tôi” (Thi-thiên 71:1, 5, 17, 18).
[Hình nơi trang 25]
Với vợ tôi, Annie, ngày nay
-
-
“Một món quà tuyệt diệu của Đức Giê-hô-va”Tháp Canh—1996 | 1 tháng 11
-
-
“Một món quà tuyệt diệu của Đức Giê-hô-va”
TRONG Tháp Canh số ra ngày 1-5-1996 có bài bàn luận sâu xa về sự trung lập của tín đồ đấng Christ và làm sao chu toàn trách nhiệm đối với Đức Giê-hô-va và “Sê-sa” (Ma-thi-ơ 22:21). Chúng tôi nghe nhiều người bày tỏ lòng biết ơn về tin tức mới này. Trong số đó có lá thư sau đây do một Nhân-chứng ở Hy Lạp viết cho Hội đồng Lãnh đạo Trung ương của Nhân-chứng Giê-hô-va:
“Tôi muốn nói lên lòng tri ân sâu xa của tôi đối với các anh vì các anh đã chăm sóc chu đáo cho chúng tôi về phương diện thiêng liêng. Vì đức tin theo đạo đấng Christ, tôi bị tù khoảng chín năm, nên tôi thật lòng quí trọng những ý tưởng tuyệt diệu trong Tháp Canh số ra ngày 1-5-1996 (Ê-sai 2:4). Đây đúng là món quà tuyệt diệu của Đức Giê-hô-va (Gia-cơ 1:17).
“Trong khi tôi thưởng thức những bài này, tôi nhớ một lời bình luận trong một số Tháp Canh trước (1-8-1994, trang 13): ‘Thật rõ ràng, tính phải lẽ là một đức tính quí báu khiến chúng ta càng yêu mến Đức Giê-hô-va nhiều hơn nữa’. Đúng vậy, thưa các anh, tôi cảm tạ Đức Giê-hô-va cho tôi được ở trong tổ chức nhân từ và yêu thương của ngài, phản ảnh rõ ràng tính khôn ngoan của ngài (Gia-cơ 3:17).
“Ánh sáng ngày càng rõ rệt trong Tháp Canh ngày 1 tháng 5 đã được anh em ở Hy Lạp vui mừng đón nhận, nhất là những anh em đã bị tù nhiều năm hoặc đang ở tù vì đức tin. Một lần nữa, tôi xin cám ơn các anh. Cầu xin Đức Giê-hô-va ban thánh linh ngài cho các anh được vững mạnh để tiếp tục cung cấp thức ăn thiêng liêng quí giá cho chúng tôi trong thời kỳ nhiễu nhương này”.
-