Noi theo dấu chân của cha mẹ
DO HILDA PADGETT KỂ LẠI
Lời tường thuật báo chí nói: “Đời sống của tôi đã được dâng cho việc phụng sự Đấng Tối cao, và tôi không thể nào phụng sự hai chủ”. Đây là lời thưa trình của tôi trước Bộ Lao động Anh Quốc và thẩm quyền Dịch vụ quốc gia để đưa ra lý do vì sao tôi từ chối không làm nghĩa vụ nơi nhà thương vào năm 1941 trong cuộc Thế chiến II. Không lâu sau đó, vì tôi từ chối làm nghĩa vụ đó tôi bị cáo và bị phán án ba tháng tù.
VÌ SAO tôi lại lâm vào tình trạng khó khăn này? Không, chẳng phải vì tánh bồng bột của người trẻ cũng chẳng phải vì thái độ ương ngạnh. Đúng hơn là vì lý do từ khi tôi còn tấm bé.
Lòng nhiệt thành của cha cho Nước Trời
Tôi chào đời ngày 5-6-1914, tại huyện Horsforth gần Leeds, ở miền bắc Anh Quốc. Cha mẹ tôi, Atkinson và Pattie Padgett, là thầy cô dạy giáo lý vào ngày Chủ Nhật và là đoàn viên của ban hợp ca tại nhà thờ Giám lý, nơi mà cha chuyên đánh đàn ống. Lúc tôi còn bé, mái nhà chúng tôi thật hạnh phúc ngoại trừ một điều. Cha lo âu vì tình hình thế giới. Cha ghét chiến tranh và bạo động và tin nơi điều răn của Kinh-thánh: “Ngươi chớ giết người” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:13).
Vào năm 1915 chính quyền thúc giục các thanh niên nên tự nhập ngũ và như vậy tránh bị cưỡng bách gia nhập quân đội. Cha tôi lòng lo sợ nghi nan đứng chờ dưới mưa cả ngày trời cho tới phiên mình đặng ghi danh đi lính. Sang ngày sau, cả đời cha thay đổi!
Lúc đang lắp và sửa ống nước ở một căn nhà lớn, cha nói chuyện với những người khác cùng làm việc về tình hình thế giới. Người làm vườn trao cho cha tờ giấy nhỏ, Gathering the Lord’s Jewels (Thu nhóm lại châu báu của Chúa). Cha đem về nhà, cứ đọc đi đọc lại. Cha nói: “Nếu quả đây là lẽ thật, vậy thì những gì khác, hẳn là sai cả”. Qua ngày sau, cha xin thêm tài liệu và trong ba tuần cha học Kinh-thánh đến thật khuya. Cha biết là cha đã tìm ra lẽ thật! Cha viết trong nhật ký, Chủ Nhật, ngày 2-1-1916: “Sáng đến thánh đường, tối lại đi đến Hiệp hội Học viên Kinh-thánh Quốc tế [tức Nhân-chứng Giê-hô-va được gọi thời đó ở Anh Quốc]—học Hê-bơ-rơ 6:9-20—lần đầu tiên tôi đến viếng thăm anh em”.
Không lâu sau đó cha gặp sự chống đối. Bà con và giáo hữu nghĩ cha điên. Nhưng cha đã quyết tâm. Cha sống vì nhóm họp và học hỏi và đến tháng ba cha biểu hiệu sự dâng mình cho Đức Giê-hô-va bằng cách làm báp têm trong nước. Sau vài tuần cha đi nhóm họp một mình, mẹ ngừng chống cự lại việc đi nhóm họp. Mẹ đặt tôi vào xe đẩy trẻ con rồi đi bộ 8 cây số đến Leeds, đến vừa lúc tan nhóm họp. Bạn hãy tưởng tượng niềm vui sướng của cha. Rồi từ giờ phút đó, gia đình chúng tôi hợp nhất phụng sự Đức Chúa Trời.
Vì đã tự nguyện vào quân đội rồi chỉ trong vài tuần, lại xin miễn vì lý do lương tâm, sự việc này đặt cha vào tình thế khó xử. Khi gọi nhập ngũ cha từ chối không cầm súng và vào tháng bảy năm 1916 cha phải trình lần thứ nhất trong năm lần trước tòa án quân sự, bị phán án 90 ngày giam hãm. Sau khi đã lãnh án thứ nhất, cha có được hai tuần giam lỏng, sau đó phải trình trước một tòa án quân sự khác và bị thêm 90 ngày giam hãm. Sau kỳ giam hãm thứ hai này, họ chuyển cha đến Quân Y Hoàng gia và vào ngày 12-2-1917, thuyền chở lính thả buồm đến Rouen, Pháp. Cha có viết trong nhật ký, nơi đây cha thấy ngày càng thêm chán ghét vị thế của cha. Cha hiểu rõ công việc của cha chỉ là băng bó thương binh để họ trở lại chiến trường và tiếp cuộc chinh chiến.
Một lần nữa cha từ chối hợp tác. Lần này tòa án quân sự phán án cha năm năm tù nơi trại giam quân đội Anh Quốc ở Rouen. Khi cha cứ mãi xin được chuyển sang khu tù thường dân với tư cách là người không ủng hộ chiến tranh vì lương tâm, cha bị phạt ba tháng chỉ ăn bánh mì và uống nước lã thôi, tiếp đến thì được ăn phần ăn bình thường của tù nhân cho đến khi lên cân rồi lại tiếp diễn hình phạt. Vào ban ngày thì tay cha bị còng ra sau lưng và vào lúc tối và khi ăn thì bị còng đằng trước. Cha mang thẹo cả đời nơi cổ tay vì ổ xích quá nhỏ đã kẹp vào thịt khiến vết thương mưng mủ. Và cha cũng bị xiềng cả chân nối với vòng bụng.
Thẩm quyền quân sự đã thử đủ mọi cách hầu làm cho cha sờn chí nhưng làm thế chỉ vô ích mà thôi. Họ tịch thu Kinh-thánh và sách báo của cha. Cha không nhận được thư nhà, cũng không được gởi thư đi. Hai năm sau đó cha quyết định tuyệt thực để biểu lộ lòng chân thật của mình. Trong vòng bảy ngày cha giữ vững lòng kiên quyết, không ăn và uống, kết quả là họ phải chuyển cha đến bệnh xá trong tù, vì ngã bệnh trầm trọng. Thật cha đã minh chứng rằng mình chân thật, dù đã suýt chết. Những năm sau này cha nhìn nhận việc làm nguy hại tánh mạng của mình như thế là sai và cha sẽ chẳng bao giờ làm như thế nữa.
Chiến tranh chấm dứt vào tháng 11 năm 1918 khi đó cha vẫn còn trong trại giam tại Rouen, nhưng rồi vào đầu năm sau, cha được chuyển sang khu tù thường dân ở Anh Quốc. Hãy tưởng xem niềm vui của cha khi nhận được những gói quà và tất cả các lá thư mà mẹ đã viết gửi cha chồng chất bao ngày, cùng chung với quyển Kinh-thánh quí báu của cha và sách báo! Họ chuyển cha đến khu tù Winchester, nơi đây cha gặp gỡ Frank Platt, anh trẻ tuổi này cũng đã sống qua thời buổi giặc giã y như cha, anh ấy sau này phụng sự nhiều năm nơi nhà Bê-tên tại Luân Đôn. Họ sắp đặt gặp lại nhau ngày hôm sau, nhưng đến lúc ấy thì anh Frank đã bị chuyển đi một nơi nào khác.
Rồi vào ngày 12-4-1919 mẹ nhận được điện tín: “Ha-lê-lu-gia! Sắp về nhà—điện cho Luân Đôn”. Quả đây là giờ phút vui mừng biết bao sau ba năm thử thách, gian nan và xa cách! Việc đầu tiên mà cha nghĩ đến là gọi điện thoại đến chi nhánh Bê-tên tại 34 Craven Terrace, Luân Đôn và gặp gỡ anh em nhà Bê-tên nơi cha đã được tiếp đón một cách tràn đầy thương mến. Sau khi tắm rửa và cạo râu, bận vào bộ đồ com-lê và đội nón mà các anh cho mượn, cha lên đường trở về nhà. Bạn có thể nào tưởng tượng được nổi niềm cảnh nhà được đoàn tụ? Lúc đó tôi chưa lên năm và tôi không nhớ gì về cha.
Buổi nhóm họp đầu tiên cha dự sau khi được trả tự do là Lễ Kỷ niệm. Vừa bước lên nấc thang vào phòng họp, người đầu tiên mà cha gặp là Frank Platt, anh được chuyển sang nhà thương quân đội ở Leeds. Họ vui sướng biết bao khi chia sẻ với nhau các kinh nghiệm mà họ đã từng trải qua! Từ lúc đó cho đến khi xuất viện, anh Frank xem nhà chúng tôi như nhà của anh.
Sự phụng sự trung thành của mẹ
Trọn thời gian mà cha xa nhà, mẹ nhận lãnh đồ về giặt giũ phụ thêm vào phần cấp dưỡng ít ỏi của chính phủ. Các anh em tỏ ra rất ân cần đối với gia đình chúng tôi. Cứ cách vài tuần thì có một trong các anh trưởng lão của hội thánh trao cho mẹ phong bì nhỏ gói ghém món quà từ một ân nhân nặc danh. Mẹ vẫn thường nói là nhờ mối tình huynh đệ đó mà đã đem mẹ đến gần Đức Giê-hô-va và giúp mẹ chịu đựng vượt qua thời buổi khó khăn. Trong suốt thời gian cha vắng mặt mẹ trung thành đi dự tất cả các buổi họp của hội thánh. Sự thử thách khắt khe nhất của mẹ là khi, hơn một năm trường, mẹ không biết cha nay sống chết thể nào. Thêm vào gánh nặng đó, vào năm 1918 cả mẹ và tôi đều nhiễm bịnh cúm Tây Ban Nha. Xung quanh chúng tôi người ta chết vì bịnh này. Láng giềng trợ giúp cho nhau rồi bị nhiễm bịnh và chết đi. Chắc hẳn, nạn đói kém xảy ra vào lúc đó làm suy nhược bản chất kháng sinh trong cơ thể của người ta.
Lời của sứ đồ Phi-e-rơ đã tỏ ra đúng cho gia đình tôi: “Sau khi anh em tạm chịu khổ,... Ngài... sẽ làm cho anh em... vững-vàng, và thêm sức cho” (I Phi-e-rơ 5:10). Sự đau khổ đã giúp cha mẹ phát triển đức tin không lay chuyển nơi Đức Giê-hô-va, niềm tin tưởng tuyệt đối rằng ngài quả thật quan tâm đến chúng ta và chẳng có điều gì có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Thật phước đức cho tôi được dạy dỗ trong đức tin như thế (Rô-ma 8:38, 39; I Phi-e-rơ 5:7).
Phụng sự trong thời niên thiếu
Từ lúc cha được thả, thánh chức Nước Trời trở nên tâm điểm của đời sống của chúng tôi. Tôi không nhớ là đã có bao giờ bỏ nhóm họp, chỉ trừ những khi bệnh. Không lâu sau khi trở về nhà, cha bán máy chụp hình bằng tấm kính của cha và vòng đeo tay bằng vàng của mẹ để có tiền đi dự hội nghị. Dù rằng chúng tôi không có tiền để đi nghỉ mát, chúng tôi không bao giờ bỏ những cuộc nhóm họp như thế, gồm cả các hội nghị tại Luân Đôn.
Hai hay ba năm đầu sau mùa chinh chiến thật là thoải mái làm sao. Cha và mẹ tận dụng mọi cơ hội để kết hợp và hội họp cùng anh em. Tôi còn nhớ các buổi thăm viếng anh em, người lớn ngồi nói chuyện cả giờ về sự hiểu biết mới về lẽ thật, còn tôi một bé gái thì ngồi vẽ và sơn màu. Họ chuyện trò cùng nhau, góp phần hát xướng hòa hợp cùng tiếng đàn ống, vui sướng kết hợp với nhau, làm cho lòng họ lâng lâng vui vầy và sảng khoái.
Cha mẹ rất nghiêm khắc giáo huấn tôi. Dù chỉ năm tuổi, nơi trường học tôi tách biệt khác với các bạn học, đem theo cuốn Kinh-thánh phần “Tân Ước” để đọc trong khi các bạn đồng lớp học giáo lý. Sau này, họ bắt tôi đi diễn hành trước cả trường với tư cách là “người từ chối tham gia vì lý do lương tâm” chỉ vì tôi không dự phần vào ngày lễ Tưởng niệm.a Tôi chẳng bao giờ nuối tiếc được giáo dục như thế. Thật ra, sự giáo dục đó đã che chở và giúp tôi tiếp tục đi trên ‘đường hẹp’ một cách dễ dàng hơn. Cho nên bất cứ nơi nào cha mẹ đi đến, dù cho đi nhóm họp hoặc rao giảng, cũng có tôi đi cùng (Ma-thi-ơ 7:13, 14).
Tôi đặc biệt nhớ mãi một buổi sáng Chủ Nhật nọ, khi tôi mới bắt đầu đi rao giảng một mình. Tôi chỉ mới được 12 tuổi. Lúc tuổi niên thiếu, tôi còn nhớ vào một sáng Chủ Nhật tôi cho cha mẹ biết là tôi sẽ ở nhà. Không một ai chỉ trích hay ép buộc tôi phải đi rao giảng, vậy tôi ngồi lại nơi vườn mà học Kinh-thánh và cảm thấy hoàn toàn không vui. Một hoặc hai tuần sau đó, tôi thưa cùng cha: “Chắc sáng nay xin cha cho con đi cùng với cha!” Từ buổi sáng ấy tôi mãi tấn tới trên phương diện thiêng liêng.
Năm 1931 là một năm tuyệt vời làm sao! Không những vì chúng ta nhận tên mới, Nhân-chứng Giê-hô-va, nhưng còn là năm tôi trầm mình dưới nước tại hội nghị toàn quốc ở Alexandra Palace, Luân Đôn. Tôi thật không thể nào quên được ngày đó. Chúng tôi mặc áo dài đen và cái áo tôi mặc thì có người đã dùng qua nên còn ướt dầm dề!
Từ khi còn bé tôi vẫn có nguyện vọng rằng mai đây lớn lên sẽ trở thành người phân phát sách đạo, tức người truyền giáo trọn thời gian như được gọi lúc đó. Và càng lớn khôn, lòng tôi càng thấy phải làm nhiều hơn nữa trong thánh chức phụng sự Đức Giê-hô-va. Cho nên vào tháng ba năm 1933, lúc 18 tuổi, tôi gia nhập hàng ngũ những người phụng sự trọn thời gian.
Chúng tôi đặc biệt vui mừng vào “Những tuần lễ Tiên phong” tại vài thành phố lớn, có khoảng mười mấy người phụng sự trọn thời gian được nhóm lại tá ngụ với anh em địa phương và cùng nhau đi rao giảng với nhau. Chúng tôi đi phân phát sách nhỏ cho các nhà lãnh tụ tôn giáo và những người lỗi lạc khác. Chúng tôi phải can đảm để đến cùng họ. Phần đông họ đón tiếp chúng tôi với sự khinh miệt và nhiều anh em trong số chúng tôi bị chủ nhà đóng ập cửa vào mặt. Nhưng mọi sự ấy không gây nỗi lo âu cho chúng tôi vì chúng tôi nức lòng mừng rỡ vì cớ ngài mà bị người ta mắng nhiếc (Ma-thi-ơ 5:11, 12).
Tại Leeds chúng tôi đã biến chế cái xe đẩy em bé, chiếc xe đạp ba bánh, chiếc mô tô của cha với cái thùng kèm theo để chở người, và sau này xe của cha để chở máy hát với hai cái loa to. Hai anh lái xe vào con đường nào đó với cái máy này, bật nhạc để rao báo cho mọi người biết và giục họ ra cửa, sau đó là bài giảng năm phút được thâu trước của anh Rutherford. Đoạn họ di chuyển đến đường kế, trong khi chúng tôi, những người công bố theo sau đặng phân phát sách báo giúp hiểu Kinh-thánh.
Trải qua nhiều năm, cứ vào mỗi tối Chủ Nhật sau nhóm họp, chúng tôi tụ tập ở Công trường Tòa thị chính, nơi có chỗ dành riêng cho diễn giả công cộng và ủng hộ bằng cách nghe một trong những bài giảng dài một tiếng đồng hồ được thâu trước của anh Rutherford. Sau đó chúng tôi trao những tấm giấy nhỏ và viếng thăm lại những ai tỏ ra chú ý. Chúng tôi được nhiều người biết đến ở đây. Ngay cả cảnh sát cũng tôn trọng chúng tôi. Có một tối nọ khi chúng tôi tụ tập lại như thường lệ, bổng từ xa, chúng tôi nghe tiếng trống thùng thình và đoàn nhạc. Không lâu sau đó, có đến khoảng một trăm phần tử Phát-xít diễn hành trên đường. Họ diễn hành xung quanh chúng tôi và rồi dừng lại, phất cờ lên thật cao. Đoàn nhạc ngừng và lặng lẽ như tờ vừa lúc anh Rutherford nói oang oang: “Hãy để chúng chào cờ của chúng và tôn thờ loài người tùy ý chúng. Về phần chúng ta chỉ phụng sự và tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà thôi!” Chúng tôi tự hỏi rồi việc gì sẽ xảy ra đây! Chẳng xảy ra việc gì cả, ngoại trừ họ được nghe lời làm chứng tốt và cảnh sát bảo họ phải giữ yên lặng cho nên chúng tôi có thể nghe phần còn lại của bài giảng.
Lúc bấy giờ, máy hát là phương tiện giúp chúng tôi bành trướng công việc rao giảng. Nơi ngưỡng cửa, chúng tôi chăm chú nhìn dĩa hát để khuyến khích người ta lắng nghe năm phút bài giảng được thâu sẵn dựa trên Kinh-thánh. Có nhiều khi chủ nhà mời chúng tôi vào nhà và ân cần mời chúng tôi trở lại đặng được nghe thêm các dĩa khác.
Năm 1939 là một năm bận rộn và khó khăn vô cùng, bởi những vụ bắt bớ và bạo động bùng nổ. Trước một hội nghị kia, có những anh em gặp phải sự tấn công do quần chúng biểu tình ngoài đường. Vậy đương lúc hội nghị, các anh tổ chức để một nhóm anh đặc biệt dùng xe rao giảng trong những khu rối loạn trong khi đó các chị và anh em khác đi những nơi an ninh hơn. Trong khi đi rao giảng với một nhóm trên một con đường, tôi đi lần xuống hẻm định viếng thăm những căn nhà khuất phía sau đường. Trong lúc đứng trước cửa, tôi chợt nghe cuộc nổi loạn khởi dậy—tiếng ồn ào và la hét từ phía đường cái. Tôi vẫn tiếp tục nói chuyện với chủ nhà nơi cửa, kéo dài câu chuyện cho đến khi mọi việc lắng lặng. Rồi, tôi mới quay bước trở ra phía đường cái, mới hay là các anh chị khác hoảng sợ làm sao khi không tìm thấy tôi! Nhưng chiều ngày hôm đó, đám đông dấy loạn cố đến quấy rối nhóm họp của chúng tôi, nhưng họ bị các anh dẫn ra ngoài.
Thế chiến II bùng nổ
Bấy giờ nhập ngũ là nghĩa vụ, và nhiều anh trai trẻ bị giam từ 3 cho đến 12 tháng. Lúc đó, cha nhận thêm đặc ân là được đi thăm viếng tù nhân. Vào mỗi ngày Chủ nhật cha điều khiển Buổi học Tháp Canh nơi khu tù địa phương. Tối Thứ Tư, thì cha đến từng xà lim một để thăm anh em. Cha đã chính mình nghiệm qua đời sống ngục tù lâu dài và khổ cực vào lúc đệ nhứt thế chiến, nên cha đặc biệt vui lòng phục vụ cho những ai phải trải qua sự khó khăn tương tợ như thế. Cha làm công việc này trong 20 năm, cho đến khi chết vào năm 1959.
Đến năm 1941 chúng tôi đã quen với thái độ cay đắng và thù ghét mà nhiều người bày tỏ trước cương vị trung lập của chúng tôi. Vì lẽ đó việc đứng giữa đường với tạp chí và đương đầu với sự kiện đó không hẳn là dễ. Đồng thời, chúng tôi vui mừng được giúp những người tỵ nạn tạm cư nơi vùng chúng tôi. Người Latvian, Ba Lan, Estonian, Đức—thật vui sướng biết bao khi thấy cặp mắt họ sáng rỡ khi họ thấy Tháp Canh hoặc Consolation (bây giờ là Awake!) trong tiếng mẹ đẻ!
Rồi, lại đến khi tôi phải ra tòa vì cương vị trung lập vào đương thời Thế chiến II. Bị giam hãm trong xà lim 19 tiếng trong ngày, tôi thấy đời sống ngục tù rất kham khổ. Khó nhất là ba ngày đầu, vì cô độc. Đến ngày thứ tư, tôi được gọi ra phủ thống sứ, tại đây tôi thấy có hai cô đang đứng. Một cô khe khẽ bên tai tôi: “Vì sao chị vào tù vậy?” Tôi đáp: “Em sẽ ngạc nhiên lắm nếu em biết được”. Cô hỏi lại với giọng căng thẳng: “Có phải chị là Nhân-chứng Giê-hô-va không?” Cô kế bên thoáng nghe được nên hỏi hai chúng tôi: “Hai chị là Nhân-chứng Giê-hô-va hả?” Thế rồi cả ba chúng tôi choàng tay ôm lấy nhau. Chúng tôi sẽ không còn đơn độc nữa!
Thời kỳ phụng sự trọn thời gian tuyệt diệu
Khi được thả ra khỏi tù, tôi tiếp tục công việc phụng sự trọn thời gian và một em gái trẻ 16 tuổi vừa ra trường cũng đi cùng. Chúng tôi dọn đến Ilkley, một thị xã xinh xắn ven bìa vùng Yorkshire Dales. Trong sáu tháng trời, chúng tôi gắng hết sức để tìm được nơi nào thích hợp để làm nơi nhóm họp. Sau cùng chúng tôi thuê nhà xe nho nhỏ, chúng tôi đã biến đổi căn nhà này thành Phòng Nước Trời. Cha có đến giúp chúng tôi một tay, gắn những hệ thống đèn và sưởi. Cha cũng giúp chúng tôi trang hoàng nhà cửa. Hội thánh vùng lân cận đã trợ giúp chúng tôi trong nhiều năm, bằng cách sắp đặt các anh mỗi tuần đến nói bài giảng công cộng. Nhờ Đức Giê-hô-va ban phước, nhóm chúng tôi được tiến triển và gia tăng và dần dần một hội thánh được thiết lập.
Đến tháng giêng năm 1959, cha bổng nhiên ngã bệnh. Tôi được bảo phải về nhà gấp và vào tháng tư thì cha qua đời. Những năm sau đó là những năm vô cùng gian nan. Mẹ giờ sức yếu trí mòn, làm cho việc chăm sóc thêm bề khó khăn cho tôi. Nhưng thánh linh Đức Giê-hô-va trợ sức giúp tôi tiếp tục và tôi đã chăm dưỡng mẹ cho đến lúc mẹ mất vào năm 1963.
Tháng năm qua tôi đã nhận được thật nhiều ân phước từ Đức Giê-hô-va. Ân phước này nhiều đến độ không thể nào đếm được. Tôi đã thấy hội thánh quê nhà gia tăng và chia ra đến bốn lần, đã phái người công bố và tiên phong, những người giáo sĩ đến những xứ xa miền miệt như Bolivia, Lào và Uganda. Hoàn cảnh không thuận tiện để tôi lập gia đình, sinh con. Tuy vậy, đời sống độc thân không làm tôi buồn; tôi bận lắm. Dẫu cho tôi không có bà con huyết thống, tôi có đông con và cháu trong Chúa, tính ra cũng cả trăm (Mác 10:29, 30).
Tôi thường mời các người tiên phong trẻ tuổi và em thiếu niên khác đến nhà tôi chơi. Chúng tôi cùng nhau sửa soạn bài học Tháp Canh. Chúng tôi cũng kể nhau nghe kinh nghiệm và ca hát những bản nhạc Nước Trời, y như cha mẹ đã từng làm. Quây quần cùng nhóm thiếu niên tươi vui như vậy, làm cho tôi cảm thấy trẻ trung và có cái nhìn hân hoan. Không có đời sống nào tốt cho tôi bằng đời sống tiên phong. Tôi mang ơn Đức Giê-hô-va đã cho tôi đặc ân noi theo dấu chân của cha mẹ. Tôi cầu xin sao cho được tiếp tục phục vụ Đức Giê-hô-va đời đời.
[Chú thích]
a Để tưởng niệm ngày đình chiến vào năm 1918 và sau đó 1945.
[Các hình nơi trang 23]
Hilda Padgett cùng cha mẹ chị, Atkinson và Pattie
[Các hình nơi trang 23]
Tấm giấy nhỏ đã gợi sự chú ý của cha về lẽ thật