-
Ngày vô cùng quan trọng bắt đầuNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 105
Ngày vô cùng quan trọng bắt đầu
KHI rời Giê-ru-sa-lem vào tối Thứ Hai, Giê-su quay về Bê-tha-ni trên triền phía đông của núi Ô-li-ve. Thế là Giê-su đã kết thúc hai ngày rao giảng lần cuối tại Giê-ru-sa-lem. Chắc Giê-su lại về ngủ đêm tại nhà bạn ngài là La-xa-rơ. Đây là đêm thứ tư mà ngài tá túc tại Bê-tha-ni, kể từ Thứ Sáu khi ngài từ Giê-ri-cô đến.
Bấy giờ là sáng Thứ Ba 11 Ni-san. Tờ mờ sáng, Giê-su và môn đồ đã lên đường. Ngày hôm đó là một ngày vô cùng quan trọng, ngày bận rộn nhất kể từ khi Giê-su bắt đầu thánh chức. Đây là ngày chót mà ngài xuất hiện tại đền thờ. Và đây cũng là ngày chót mà Giê-su rao giảng trước khi bị đem ra xét xử và hành hình.
Giê-su và môn đồ theo con đường cũ vượt qua núi Ô-li-ve để đi đến Giê-ru-sa-lem. Rời Bê-tha-ni, bên vệ đường, Phi-e-rơ thấy cây vả mà Giê-su đã rủa sáng hôm qua và ông thốt lên: “Thầy, coi kìa! Cây vả thầy đã rủa nay khô đi rồi”.
Nhưng tại sao Giê-su lại làm cho câyqa vả ấy chết đi? Ngài cho biết lý do như sau: “Quả thật ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức-tin, và không nghi-ngờ chi hết, thì chẳng những các ngươi làm được điều đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu các ngươi biểu hòn núi nầy [họ đang đứng trên núi Ô-li-ve] rằng: Hãy cất mình lên và quăng xuống biển, điều đó cũng sẽ làm được. Trong khi cầu-nguyện, các ngươi lấy đức-tin xin việc gì bất-kỳ, thảy đều được cả”.
Khi làm cây vả khô héo, Giê-su cho môn đồ một bài học thực tế để khuyên họ cần phải có đức tin nơi Đức Chúa Trời vì ngài nói: “Mọi điều các ngươi xin trong lúc cầu-nguyện, hãy tin đã được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi”. Thật là một bài học quan trọng cho môn đồ ngài, nhất là khi những thử thách kinh khủng sắp sửa xảy đến! Tuy nhiên, có một mối liên hệ khác nữa giữa cây vả bị khô héo và đức tin.
Giống như cây vả, nước Y-sơ-ra-ên cũng có vẻ bề ngoài dễ đánh lừa người ta. Mặc dù nước Y-sơ-ra-ên ở trong một giao ước với Đức Chúa Trời và có vẻ như giữ các điều răn của Ngài, nhưng thật ra thì dân chúng chẳng có đức tin, và không thể nào sản xuất bông trái tốt được. Cũng tại thiếu đức tin mà họ sắp từ bỏ chính Con của Đức Chúa Trời! Vì vậy, khi làm cây vả không trái ấy khô héo, Giê-su đã cho thấy một cách sinh động về hậu quả cuối cùng của nước không sinh trái, không có đức tin ấy.
Một lúc sau, Giê-su và môn đồ vào thành Giê-ru-sa-lem, và theo thói quen lại đến đền thờ, và Giê-su bắt đầu giảng dạy. Các thầy tế lễ cả và các trưởng lão của dân hẳn chưa quên hôm qua Giê-su đã xua những người đổi tiền, bèn chất vấn ngài: “Bởi quyền-phép nào mà thầy làm những sự nầy, và ai đã cho thầy quyền-phép ấy?”
Giê-su đáp: “Ta cũng sẽ hỏi các ngươi một điều; nếu trả lời được, thì ta cũng sẽ nói cho các ngươi bởi quyền-phép nào mà ta đã làm những việc đó. Phép báp-têm của Giăng bởi đâu? Bởi trên trời hay là bởi người ta?”
Các thầy tế lễ và trưởng lão bàn nhau tìm cách trả lời. “Nếu chúng ta đáp rằng: Bởi trên trời, thì người sẽ nói rằng: Vậy, sao không tin lời người ấy? Còn nếu đáp rằng: Bởi người ta, thì chúng ta sợ thiên-hạ, vì thiên-hạ đều cho Giăng là đấng tiên-tri”.
Họ không biết trả lời như thế nào. Vậy họ bèn nói với Giê-su: “Chúng tôi không biết”.
Giê-su nói cùng họ: “Ta cũng không bảo cho các ngươi nhờ quyền-phép nào mà ta làm những điều nầy”. (Ma-thi-ơ 21:19-27; Mác 11:19-33; Lu-ca 20:1-8).
▪ Ngày Thứ Ba 11 Ni-san có gì đặc biệt?
▪ Giê-su dạy những bài học nào khi ngài làm cho cây vả héo đi?
▪ Giê-su trả lời thế nào cho những người hỏi ngài bởi quyền phép nào mà ngài đã làm được những việc ấy?
-
-
Bị lột mặt nạ qua lời ví dụ về vườn nhoNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 106
Bị lột mặt nạ qua lời ví dụ về vườn nho
GIÊ-SU bấy giờ đang ở trong đền thờ. Ngài vừa mới làm các nhà lãnh đạo tôn giáo bị bối rối khi họ hỏi bởi quyền phép nào ngài đã hành động. Họ chưa hết rối trí thì Giê-su lại lên tiếng hỏi: “Các ngươi nghĩ làm sao?” Rồi ngài cho một ví dụ để chỉ rõ thật sự họ thuộc loại người nào.
Ngài kể: “Một người kia có hai đứa con trai; nói cùng đứa thứ nhứt, mà rằng: Con ơi, bữa nay con hãy ra làm vườn nho. Đứa ấy thưa rằng: Vâng; rồi không đi. Đoạn, người cha đi đến đứa thứ hai, cũng bảo như vậy. Đứa nầy thưa rằng: Tôi không muốn đi. Nhưng sau ăn-năn, rồi đi. Trong hai con trai đó, đứa nào làm theo ý-muốn của cha?”
Họ đáp rằng: “Đứa thứ hai”.
Giê-su bèn giải thích: “Quả thật ta nói cùng các ngươi, những kẻ thâu thuế và phường đĩ-điếm sẽ được vào nước Đức Chúa Trời trước các ngươi”. Trên thực tế, những người thâu thuế và gái mãi dâm thoạt đầu không chịu phụng sự Đức Chúa Trời. Nhưng rồi giống như người con thứ hai, họ ăn năn và phụng sự ngài. Ngược lại, các nhà lãnh đạo tôn giáo, giống như đứa con thứ nhất, cho rằng mình phụng sự Đức Chúa Trời, nhưng như Giê-su nói: “Vì Giăng [Báp-tít] đã theo đường công-bình đến cùng các ngươi, nhưng các ngươi không tin, còn những kẻ thâu thuế và phường đĩ-điếm đã tin người; và các ngươi, khi đã thấy điều ấy, sau cũng không ăn-năn đặng tin người”.
Đoạn, Giê-su cho thấy lỗi lầm của các nhà lãnh đạo tôn giáo ấy không phải chỉ vì họ lơ là phụng sự Đức Chúa Trời, nhưng tệ hại hơn nhiều, họ là những kẻ xấu xa, độc ác. Ngài kể tiếp: “Có người chủ nhà kia, trồng một vườn nho, rào chung-quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và cất một cái tháp; rồi cho những kẻ trồng nho mướn, và đi qua xứ khác. Đến mùa hái trái, người chủ sai đầy-tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu hoa-lợi. Bọn trồng nho bắt các đầy-tớ, đánh người nầy, giết người kia, và ném đá người nọ. Người chủ lại sai đầy-tớ khác đông hơn khi trước; thì họ cũng đối-đãi một cách”.
“Các đầy-tớ” là các nhà tiên tri đã được “người chủ nhà” là Giê-hô-va Đức Chúa Trời sai đến gặp “kẻ trồng nho mướn” trong “vườn nho” của Ngài. Các kẻ trồng nho mướn này là những người đại diện cao cấp của dân Y-sơ-ra-ên, dân mà Kinh-thánh gọi là “vườn nho” của Đức Chúa Trời.
Bởi vì “bọn trồng nho” đã ngược đãi và giết “các đầy-tớ”, Giê-su giảng tiếp: “Sau hết, người chủ sai chính con trai mình đến cùng họ, vì nói rằng: Chúng nó sẽ kính-trọng con ta. Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế-tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia-tài nó. Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi”.
Bấy giờ Giê-su hỏi các nhà lãnh đạo tôn giáo: “Vậy, khi người chủ vườn nho đến, thì sẽ xử với bọn làm vườn ấy thể nào?”
Họ trả lời: “Người chủ sẽ diệt đồ hung-ác ấy cách khổ-sở, và cho bọn trồng nho khác mướn vườn ấy, là kẻ sẽ nộp hoa-lợi lúc đến mùa”.
Như vậy, chính họ không ngờ đã vô tình tự tuyên án mình, bởi vì họ ở trong số “bọn trồng nho” của “vườn nho”, tức dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời. Hoa lợi mà Đức Giê-hô-va muốn họ sản xuất ra là đức tin nơi Con Ngài, đấng Mê-si thực thụ. Vì họ đã không sản xuất được hoa lợi như thế nên Giê-su báo trước: “Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh-thánh [nơi Thi-thiên 118:22, 23] : Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra, trở nên đá đầu góc nhà; ấy là việc Chúa làm, và là một sự lạ trước mắt chúng ta, hay sao? Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết-quả của nước đó. Kẻ nào rơi trên hòn đá ấy sẽ bị giập-nát, còn kẻ nào bị đá ấy rớt nhằm thì sẽ tan-tành như bụi”.
Các thầy thông giáo và thầy tế lễ cả bấy giờ mới hiểu rằng Giê-su đang nói về họ, nên họ muốn giết ngài, tức “kẻ kế-tự” chính đáng. Vì vậy dân Do Thái nói chung đã bị tước mất đặc ân trị vì trong Nước Trời, và Đức Chúa Trời sẽ dựng nên một dân tộc mới gồm ‘những người trồng nho’, một dân tộc biết sản xuất bông trái tốt lành.
Vì sợ dân chúng vốn xem Giê-su như một nhà tiên tri, nên các nhà lãnh đạo tôn giáo chưa dám giết ngài trong dịp này. (Ma-thi-ơ 21:28-46; Mác 12:1-12; Lu-ca 20:9-19; Ê-sai 5:1-7).
▪ Hai đứa con trai trong lời ví dụ thứ nhất của Giê-su tượng trưng cho ai?
▪ Trong lời ví dụ thứ nhì, “chủ nhà”, “vườn nho”, “kẻ trồng nho mướn”, “đầy-tớ”, và “kẻ kế-tự” tượng trưng cho ai?
▪ Điều gì sẽ xảy ra cho ‘bọn trồng nho’, và ai sẽ thay thế họ?
-
-
Chuyện ví dụ về tiệc cướiNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 107
Chuyện ví dụ về tiệc cưới
GIÊ-SU đã lột mặt nạ các thầy thông giáo và thầy tế lễ cả bằng hai chuyện ví dụ, và họ muốn giết Ngài. Nhưng ngài vẫn còn chưa để họ xong đâu. Ngài nói tiếp cho họ nghe một chuyện ví dụ khác nữa:
“Nước thiên-đàng giống như một vua kia làm tiệc cưới cho con mình. Vua sai đầy-tớ đi nhắc những người đã được mời đến dự tiệc; nhưng họ không chịu đến”.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời chính là vị Vua sửa soạn tiệc cưới cho Con mình là Giê-su Christ. Cuối cùng, nàng dâu sẽ là 144.000 tín đồ xức dầu và được kết hợp với Giê-su ở trên trời. Thần dân của Vua là dân Y-sơ-ra-ên. Họ đã được cho vào giao ước Luật pháp vào năm 1513 trước công nguyên và có cơ hội trở thành “một nước thầy tế lễ”. Vậy, vào dịp đó, họ là những người đầu tiên đã được mời đến dự tiệc cưới.
Tuy nhiên, lời kêu gọi những người được mời chỉ ban ra bắt đầu từ mùa thu năm 29 công nguyên, khi Giê-su và môn đồ ngài (đầy-tớ của Vua) khởi sự rao giảng về Nước Trời. Các “đầy-tớ” kêu gọi dân gốc Y-sơ-ra-ên từ năm 29 đến năm 33 công nguyên, nhưng họ không chịu đến. Vì thế, Đức Chúa Trời cho dân ấy thêm một cơ hội nữa, như Giê-su kể:
“Vua lại sai đầy-tớ khác mà dặn rằng: Hãy nói với người được mời như vầy: Nầy, ta đã sửa-soạn tiệc rồi; bò và thú béo đã giết xong, mọi việc đã sẵn cả, hãy đến mà dự tiệc cưới”. Lời kêu gọi thứ hai và cũng là lần chót ban ra cho những người được mời đã bắt đầu từ Lễ Ngũ tuần năm 33 công nguyên, khi thánh linh đổ trên các môn đồ của Giê-su, và chấm dứt năm 36 công nguyên.
Tuy nhiên, đại đa số dân Y-sơ-ra-ên vẫn làm ngơ trước lời kêu gọi đó. Giê-su nói: “Nhưng họ không đếm-xỉa đến, cứ việc đi đường mình; kẻ nầy đi ra ruộng, kẻ kia đi buôn-bán; còn những kẻ khác bắt đầy-tớ của vua, mắng-chưởi và giết đi. Vua nổi giận, bèn sai quân-lính diệt những kẻ giết người đó, và đốt phá thành của họ”. Điều này đã xảy ra năm 70 công nguyên, khi Giê-ru-sa-lem bị quân đội La Mã hủy phá, và những kẻ giết người đó bị diệt.
Rồi Giê-su giải thích điều xảy ra trong lúc đó: “Đoạn, vua phán cùng đầy-tớ mình rằng: Tiệc cưới đã dọn xong rồi; song những người được mời không xứng dự tiệc đó. Vậy, các ngươi hãy đi khắp các ngã tư, hễ gặp người nào thì mời cả đến dự-tiệc”. Các người đầy tớ làm vậy và “trong phòng đầy những người dự tiệc”.
Công việc thâu nhóm những người ngoài đường đã bắt đầu năm 36 công nguyên. Đội trưởng Cọt-nây trong quân đội La Mã cùng gia đình là những người ngoại đầu tiên không phải dân Do Thái cắt bì đã được thâu nhóm lại. Và công việc thâu nhóm những người không phải Do Thái này tiếp tục đến tận thế kỷ 20 ngày nay, để thay chỗ những người được mời thời xưa nhưng đã từ chối.
Chính vào thế kỷ 20 này, mà phòng đầy những người dự tiệc. Giê-su kể điều gì xảy ra sau đó: “Vua vào xem khách dự tiệc, chợt thấy một người không mặc áo lễ, thì phán cùng người rằng: Hỡi bạn, sao ngươi vào đây mà không mặc áo lễ? Người đó làm thinh. Vua bèn truyền cho đầy-tớ rằng: Hãy trói tay chơn nó lại, và quăng ra ngoài nơi tối-tăm, là nơi sẽ có khóc-lóc và nghiến răng”.
Người không mặc áo lễ tượng trưng cho tín đồ của các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ... Đức Chúa Trời không bao giờ nhìn nhận họ là dân Y-sơ-ra-ên thiêng liêng. Ngài không hề xức dầu cho họ bằng thánh linh để trở thành những người kế tự Nước Trời. Cho nên họ bị quăng ra ngoài nơi tối tăm, là nơi họ bị hủy diệt.
Giê-su kết luận chuyện ví dụ: “Bởi vì có nhiều kẻ được gọi, mà ít người được chọn”. Đúng vậy, có rất nhiều người Do Thái được mời làm thành viên lớp người vợ mới cưới của đấng Christ, nhưng chỉ một số ít người Do Thái xác thịt được chọn. Phần lớn trong số 144.000 khách nhận được phần thưởng trên trời đều không phải là người Do Thái. (Ma-thi-ơ 22:1-14; Xuất Ê-díp-tô Ký 19:1-6; Khải-huyền 14:1-3).
▪ Ai là những người đầu tiên được mời dự tiệc cưới, và họ được mời khi nào?
▪ Lời kêu gọi đầu tiên cho những người được mời đã ban ra khi nào, và ai là những người đầy tớ được dùng để ban ra lời kêu gọi?
▪ Lời kêu gọi thứ hai là khi nào, và sau đó ai được mời?
▪ Người không mặc áo lễ tượng trưng cho ai?
▪ Nhiều kẻ được gọi là ai, và ít người được chọn là ai?
-
-
Họ không gài bẫy được Giê-suNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 108
Họ không gài bẫy được Giê-su
GIÊ-SU vừa mới giảng dạy trong đền thờ, và dùng ba chuyện ví dụ để vạch trần sự gian ác của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Vì thế cho nên người Pha-ri-si rất tức tối. Họ bàn mưu gài bẫy Giê-su cốt để ngài nói hớ, nhờ đó họ có cớ bắt ngài. Khi bày kế xong xuôi, họ phái đệ tử đi cùng với một số người ủng hộ vua Hê-rốt đến gài bẫy Giê-su.
Những người này nói: “Lạy thầy, chúng tôi biết thầy là thật, và theo cách thật mà dạy đạo của Đức Chúa Trời, không tư-vị ai; vì thầy không xem bề ngoài của người ta. Vậy, xin thầy nói cho chúng tôi, thầy nghĩ thế nào: có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?”
Giê-su chẳng mắc bẫy vì mấy lời nịnh hót ấy. Ngài thừa biết nếu trả lời: ‘Không, không nên nộp thuế’, thì sẽ phạm tội sách động quần chúng chống chính quyền La Mã. Ngược lại, nếu ngài đáp: ‘Có, nên nộp thuế’, thì dân Do Thái vốn ghét sự đô hộ của La Mã sẽ đâm ra ghét Ngài. Vì vậy, Giê-su nói: “Hỡi kẻ giả-hình, sao các ngươi thử ta? Hãy đưa cho ta xem đồng tiền nộp thuế”.
Khi họ đưa cho ngài một đồng tiền, ngài hỏi: “Hình và hiệu nầy của ai?”
Họ trả lời: “Của Sê-sa”.
“Vậy, hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa; và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời”. Người ta đều sửng sốt khi nghe câu đáp thật khôn ngoan đó. Rồi họ bỏ đi, không quấy rầy ngài nữa.
Thấy người Pha-ri-si thất bại, không gài bẫy được Giê-su, người Sa-đu-sê vốn không tin có sự sống lại, bèn tới hỏi Giê-su: “Thưa thầy, Môi-se có nói: Nếu người nào chết mà không có con, thì em sẽ lấy vợ góa anh để nối dòng cho anh. Vả, trong chúng tôi có bảy anh em. Người anh lấy vợ và chết đi, nhưng vì chưa có con nên để vợ lại cho em. Người thứ hai, thứ ba, cho đến thứ bảy cũng vậy. Rốt lại, người đờn-bà cũng chết. Vậy, lúc sống lại, đờn-bà đó sẽ làm vợ ai trong bảy người? vì cả thảy đều đã lấy người làm vợ”.
Giê-su đáp: “Há chẳng phải các ngươi lầm, vì không biết Kinh-thánh, cũng không hiểu quyền-phép Đức Chúa Trời sao? Vì đến lúc người ta từ kẻ chết sống lại, thì chẳng cưới vợ, chẳng lấy chồng; nhưng các người sống lại đó ở như thiên-sứ trên trời vậy. Còn về những người chết được sống lại, thì trong sách Môi-se có chép lời Đức Chúa Trời phán cùng người trong bụi gai rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, các ngươi há chưa đọc đến sao? Ngài chẳng phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết, mà là của kẻ sống! Thật các ngươi lầm to”.
Và dân chúng lại kinh ngạc trước câu trả lời của Giê-su. Ngay cả mấy thầy thông giáo cũng nhìn nhận: “Lạy thầy, thầy nói phải lắm”.
Thấy Giê-su làm cho người Sa-đu-sê không dám hỏi nữa, một nhóm người Pha-ri-si lại rủ nhau đến để thử ngài. Một thầy thông giáo hỏi: “Thưa thầy, trong luật-pháp, điều-răn nào là lớn hơn hết?”
Giê-su đáp: “Nầy là điều đầu nhứt: Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe, Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta, là Chúa có một. Ngươi phải hết lòng, hết linh-hồn, hết trí-khôn, hết sức mà kính-mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Nầy là điều thứ hai: Ngươi phải yêu kẻ lân-cận như mình. Chẳng có điều-răn nào lớn hơn hai điều đó”. Thật vậy, Giê-su nói thêm: “Hết thảy luật-pháp và lời tiên-tri đều bởi hai điều-răn đó mà ra”.
Thầy thông giáo ấy nhìn nhận: “Thưa thầy, thầy nói phải, hiệp lý lắm, thật Đức Chúa Trời là có một, ngoài Ngài chẳng có Chúa nào khác nữa; thật phải kính-mến Chúa hết lòng, hết trí, hết sức, và yêu kẻ lân-cận như mình, ấy là hơn mọi của-lễ thiêu cùng hết thảy các của-lễ”.
Giê-su thấy thầy thông giáo đó trả lời như người khôn, thì nói: “Ngươi chẳng cách xa nước Đức Chúa Trời đâu”.
Giê-su đã giảng dạy trong đền thờ ba hôm rồi: Chủ Nhật, Thứ Hai và Thứ Ba. Ai nấy đều thích thú nghe ngài, nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo lại muốn giết ngài. Tuy nhiên cho đến bây giờ, mấy lần mưu toan của chúng vẫn không thành. (Ma-thi-ơ 22:15-40; Mác 12:13-34; Lu-ca 20:20-40).
▪ Người Pha-ri-si dùng mưu kế gì để gài bẫy Giê-su và điều gì sẽ xảy ra nếu ngài trả lời “có” hay “không”?
▪ Làm sao Giê-su đã phá hỏng mưu kế của người Sa-đu-sê nhằm gài bẫy ngài?
▪ Người Pha-ri-si còn cố gắng thử Giê-su điều gì nữa và kết quả ra sao?
▪ Vào chuyến rao giảng chót ở Giê-ru-sa-lem, Giê-su giảng dạy trong đền thờ được mấy ngày, và hiệu quả ra sao?
-
-
Giê-su cho thấy mặt trái của những kẻ chống ngàiNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 109
Giê-su cho thấy mặt trái của những kẻ chống ngài
GIÊ-SU đã làm cho những kẻ chống đối ngài bị lúng túng đến độ họ không dám hỏi thêm gì nữa. Vì vậy, ngài khởi sự phơi bày sự dốt nát của họ. Ngài hỏi: “Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thể nào? Ngài là con ai?”
Người Pha-ri-si trả lời: “Con vua Đa-vít”.
Mặc dù Giê-su không chối rằng Đa-vít là tổ tiên của đấng Christ hay Mê-si, ngài đặt câu hỏi: “Vậy, vì cớ nào vua Đa-vít được Đức Thánh-Linh cảm-động [nơi Thi-thiên 110], gọi Đấng Christ là Chúa, mà rằng: Chúa phán cùng Chúa tôi: Hãy ngồi bên hữu ta, cho đến khi nào ta để kẻ thù-nghịch ngươi dưới chơn ngươi? Vậy, nếu vua Đa-vít xưng Ngài là Chúa, thì Ngài làm con vua ấy là thể nào?”
Người Pha-ri-si lặng thinh, bởi vì họ không biết lai lịch thực sự của đấng Christ, có nghĩa đấng được xức dầu. Trái với điều người Pha-ri-si tin, đấng Mê-si không chỉ là con cháu của Đa-vít, nhưng ngài đã từng hiện hữu trên trời, cao trọng hơn vua Đa-vít, cho nên là “Chúa” của Đa-vít vậy.
Bấy giờ Giê-su quay lại với đám đông và môn đồ. Ngài cho họ thấy mặt trái của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Bởi vì họ dạy Luật pháp Đức Chúa Trời, ngồi chễm chệ trên “ngôi của Môi-se”, nên Giê-su bảo: “Vậy, hãy làm và giữ theo mọi điều họ đã bảo các ngươi”. Nhưng ngài nói tiếp: “Nhưng đừng bắt-chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm”.
Họ là những người giả dối, và Giê-su vạch trần bộ mặt thật của họ. Ngài dùng lời lẽ gần giống như lần ngài dùng bữa tại nhà một người Pha-ri-si vài tháng trước: “Họ làm việc gì cũng cố để cho người ta thấy”. Và ngài cho thí dụ:
“[Họ] mang cái thẻ bài da cho rộng”. Những thẻ bài da đó tương đối nhỏ, thường đeo nơi trán hay nơi cánh tay và có đựng bốn đoạn của Luật pháp: Xuất Ê-díp-tô Ký 13:1-10, 11-16; Phục-truyền Luật-lệ Ký 6:4-9 và 11:13-21. Nhưng người Pha-ri-si làm thẻ bài da lớn hơn để người ta có cảm tưởng là họ rất sốt sắng theo Luật pháp.
Giê-su nói tiếp: “[Họ] xủ cái tua áo cho dài”. Theo Dân-số Ký 15:38-40, dân Y-sơ-ra-ên buộc phải làm một cái tua nơi lai áo, nhưng người Pha-ri-si lại làm tua dài hơn ai hết. Mọi điều họ làm đều để khoe khoang! Giê-su nói thêm: “[Họ] ưa ngồi đầu trong đám tiệc”.
Buồn thay, ngay cả môn đồ của ngài cũng ham muốn địa vị cao. Vì vậy Giê-su khuyên: “Nhưng các ngươi đừng chịu người ta gọi mình bằng thầy; vì các ngươi chỉ có một Thầy, và các ngươi hết thảy đều là anh em. Cũng đừng gọi người nào ở thế-gian là cha mình; vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời”. Các môn đồ phải loại bỏ sự ham muốn có địa vị lớn! Giê-su răn bảo: “Song ai lớn hơn hết trong các ngươi, thì sẽ làm đầy-tớ các ngươi”.
Kế đến, Giê-su nói một loạt những lời lên án các thầy thông giáo và người Pha-ri-si, nhiều lần gọi họ là kẻ đạo đức giả. Ngài nói họ “đóng nước thiên-đàng trước mặt người ta” và “làm bộ đọc lời cầu-nguyện dài, mà nuốt gia-tài của đờn-bà góa”.
Giê-su nói: “Khốn cho các ngươi, là kẻ mù dẫn đường”. Ngài lên án người Pha-ra-si không có tiêu chuẩn đạo đức về thiêng liêng, biểu lộ qua việc họ phân biệt điều tốt hay xấu theo ý riêng của họ. Thí dụ, họ nói: “Nếu người nào chỉ đền-thờ mà thề, thì không can chi; song chỉ vàng của đền-thờ mà thề, thì phải mắc lời thề ấy”. Qua việc xem trọng vàng trong đền thờ hơn là giá trị thiêng liêng của nơi thờ phượng ấy, họ đã cho thấy rõ là họ tối tăm về thiêng liêng.
Cũng như trước đó không lâu, Giê-su lại lên án người Pha-ri-si đã “bỏ điều hệ-trọng hơn hết trong luật-pháp, là sự công-bình, thương-xót và trung-tín” trong khi cứ chăm lo tỉ mỉ về thuế thập phân, ngay cả việc đóng một phần mười hương liệu và rau là những thứ không quan trọng.
Giê-su gọi người Pha-ri-si là “kẻ mù dẫn đường,... [là người] lọc con ruồi nhỏ mà nuốt con lạc-đà!” Họ lọc con ruồi rớt vào ly rượu, không phải chỉ vì nó là loài côn trùng mà vì theo nghi lễ nó là con vật ô uế. Ngược lại, việc họ xem thường những điều quan trọng trong Luật pháp có thể so sánh như việc họ nuốt một con lạc đà, theo nghi lễ cũng là loài thú vật ô uế. (Ma-thi-ơ 22:41 đến 23:24; Mác 12:35-40; Lu-ca 20:41-47; Lê-vi Ký 11:4, 21-24).
▪ Tại sao người Pha-ri-si lặng thinh khi Giê-su hỏi họ về lời của Đa-vít trong bài Thi-thiên 110?
▪ Tại sao người Pha-ri-si làm những thẻ bài da rộng hơn bình thường để đựng đoạn Kinh-thánh, và tại sao họ xủ cái tua áo cho thật dài?
▪ Giê-su ban cho môn đồ lời khuyên nào?
▪ Người Pha-ri-si có những sự phân biệt độc đoán như thế nào, và Giê-su kết án họ thế nào khi họ coi thường những vấn đề quan trọng?
-
-
Hoàn tất thánh chức tại đền thờNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 110
Hoàn tất thánh chức tại đền thờ
GIÊ-SU xuất hiện lần này là lần cuối cùng tại đền thờ. Nếu không kể những sự việc xảy ra trong ba ngày tới, như việc ngài bị đem ra xử và hành quyết, thì lúc đó ngài đang kết thúc thánh chức trên đất. Bấy giờ ngài vẫn tiếp tục nặng lời khiển trách các thầy thông giáo và người Pha-ri-si.
Thêm ba lần nữa, ngài nhắc lại câu: “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả-hình!”. Lần đầu, Ngài lên án họ bởi vì họ “rửa bề ngoài chén và mâm, nhưng ở trong thì đầy-dẫy sự ăn-cướp cùng sự quá-độ”. Ngài khuyên: “Trước hết phải lau bề trong chén và mâm, hầu cho bề ngoài cũng được sạch-sẽ”.
Tiếp đến, ngài lên án họ vì bên trong họ thối nát và đồi bại, nhưng họ cố gắng che đậy bằng vẻ bề ngoài mộ đạo. Ngài nói: “Vì các ngươi giống như mồ-mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ-dáy”.
Sau hết, họ cũng để lộ sự đạo đức giả của mình ra khi họ sẵn sàng xây và trang hoàng mộ cho các nhà tiên tri để thiên hạ thấy họ nhân ái. Tuy nhiên, như Giê-su cho thấy, họ là “con cháu những người giết các đấng tiên tri”. Thật thế, ai dám lột trần sự giả hình của họ đều bị nguy hiểm đe dọa!
Giê-su tiếp tục dùng những lời mạnh mẽ nhất để vạch trần họ: “Hỡi loài rắn, dòng-dõi rắn lục kia, thế nào mà tránh khỏi sự đoán-phạt nơi địa-ngục [Ghê-hen-na] được?” Ghê-hen-na là vùng thung lũng dùng làm nơi đổ rác của thành Giê-ru-sa-lem. Vậy Giê-su cảnh cáo các thầy thông giáo và người Pha-ri-si rằng nếu họ tiếp tục đi trong con đường gian ác thì họ sẽ bị hủy diệt đời đời.
Đối với việc các môn đồ của ngài được sai đi với tư cách đại diện cho ngài, Giê-su nói: “Trong những người ấy, kẻ thì các ngươi sẽ giết và đóng đinh trên cây thập-tự, kẻ thì các ngươi sẽ đánh-đập trong nhà hội mình, và các ngươi sẽ đuổi-bắt họ từ thành nầy qua thành kia, hầu cho hết thảy máu vô-tội bị tràn ra trên mặt đất, đổ về các ngươi, từ máu A-bên là người công-bình cho đến máu Xa-cha-ri là con của Ba-ra-chi [cũng gọi là Giê-hô-gia-đa trong sách II Sử-ký], mà các ngươi đã giết ở giữa khoảng đền-thờ và bàn-thờ. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, mọi điều đó sẽ xảy đến cho dòng-dõi nầy”.
Vì Xa-cha-ri đã quở trách các lãnh tụ Y-sơ-ra-ên nên “chúng bèn phản-nghịch với người, và theo lịnh vua ném đá người tại trong hành-lang của đền Đức Giê-hô-va”. Tuy nhiên, như Giê-su báo trước, Y-sơ-ra-ên sẽ phải trả nợ máu vì đã giết những người công bình như thế. Món nợ máu họ phải trả xảy ra 37 năm sau, tức vào năm 70 công nguyên, khi quân đội La Mã tàn phá Giê-ru-sa-lem và hơn một triệu người Do Thái đã bị thiệt mạng.
Nghĩ đến cảnh tượng tang thương ấy, Giê-su đau lòng khôn xiết. Một lần nữa ngài thốt lên: “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên-tri và ném đá những kẻ chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm-họp các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng. Nầy, nhà các ngươi sẽ bỏ hoang!”
Rồi ngài nói tiếp: “Vì, ta bảo, các ngươi sẽ không thấy ta nữa, cho đến lúc các ngươi sẽ nói rằng: Phước cho Đấng nhơn danh Chúa mà đến!” Ngày ấy sẽ là lúc đấng Christ hiện diện, khi ngài lên ngôi Nước Trời, và mọi dân sẽ thấy ngài bằng mắt của đức tin.
Đoạn, Giê-su đi đến một chỗ mà ngài có thể trông thấy các rương đựng tiền dâng cho đền thờ và những người đến dâng tiền. Dân giàu bỏ vào nhiều đồng tiền. Nhưng có một bà góa nghèo đến và bỏ vào hai đồng tiền không đáng kể.
Giê-su gọi môn đồ đến và nói: “Quả thật ta nói cùng các ngươi, mụ góa nghèo nầy đã bỏ tiền vào rương nhiều hơn hết thảy những người đã bỏ vào”. Có lẽ môn đồ ngài tỏ vẻ thắc mắc nên ngài giải thích: “Vì mọi kẻ khác lấy của dư mình bỏ vào, còn mụ nầy nghèo-cực lắm, đã bỏ hết của mình có, là hết của có để nuôi mình”. Dứt lời, Giê-su rời đền thờ lần cuối cùng.
Một môn đồ ngài thán phục sự nguy nga tráng lệ của đền thờ nên thốt lên: “Thưa thầy, hãy xem đá và các nhà nầy là dường nào!” Thật vậy, người ta nói rằng loại đá ấy dài hơn 10 mét, rộng hơn 4 mét và cao hơn 3 mét!
Giê-su trả lời: “Ngươi thấy các nhà lớn nầy ư? Rồi ra sẽ không còn một hòn đá sót lại trên một hòn khác nữa: cả thảy đều đổ xuống”.
Sau khi nói những điều trên, Giê-su và các sứ đồ băng qua thung lũng Xết-rôn và lên núi Ô-li-ve. Tại đây, họ có thể từ trên cao nhìn xuống đền thờ nguy nga. (Ma-thi-ơ 23:25 đến 24:3; Mác 12:41 đến 13:3; Lu-ca 21:1-6; II Sử-ký 24:20-22).
▪ Giê-su làm gì khi đến thăm đền thờ lần cuối cùng?
▪ Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si để lộ sự đạo đức giả của mình ra như thế nào?
▪ “Sự đoán-phạt nơi địa-ngục [Ghê-hen-na]” có nghĩa gì?
▪ Tại sao Giê-su nói rằng bà góa đã đóng góp nhiều hơn những người giàu?
-
-
Điềm của ngày sau rốtNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 111
Điềm của ngày sau rốt
LÚC bấy giờ là chiều Thứ Ba. Giê-su đang ngồi trên núi Ô-li-ve nhìn xuống đền thờ ở phía dưới, thì có Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng đến gặp riêng ngài. Họ quan tâm về chuyện Giê-su vừa nói là đền thờ sẽ bị hủy diệt, chẳng còn một hòn đá nào ở trên một hòn đá nào nữa.
Nhưng chắc hẳn họ còn nghĩ ngợi về chuyện khác nữa khi đến gặp Giê-su. Vì trước đó vài tuần, ngài đã bàn về “sự hiện diện” của mình, lúc mà “Con người hiện ra”. Và trước đó nữa, ngài cũng nói đến “sự kết liễu của hệ thống mọi sự này”. Bởi vậy các sứ đồ rất tò mò muốn biết.
Họ bèn hỏi Giê-su: “Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó [Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị hủy phá] sẽ xảy ra? và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến [hiện diện, NW] và tận-thế [sự kết liễu của hệ thống mọi sự này, NW]”. Thật ra, câu hỏi ấy gồm có ba phần. Trước hết họ muốn biết về sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ, kế đến là sự hiện diện của Giê-su trong quyền hành Nước Trời, và sau hết là sự kết liễu của toàn thể hệ thống mọi sự này.
Trong lời giải đáp khá dài, Giê-su trả lời đủ ba phần của câu hỏi đó. Ngài cho biết một điềm đánh dấu khi nào hệ thống mọi sự của Do Thái sẽ chấm dứt. Nhưng ngài đi xa hơn nữa. Ngài còn cho biết một điềm giúp môn đồ tương lai của ngài nhận biết được họ đang sống trong thời kỳ ngài hiện diện và thời kỳ gần kề sự kết liễu của toàn thể hệ thống mọi sự này.
Nhiều năm trôi qua, các sứ đồ đã chứng kiến lời tiên tri của Giê-su được ứng nghiệm. Thật vậy, những điều Giê-su báo trước đã bắt đầu diễn ra vào thời các sứ đồ. Quả thế, 37 năm sau, tức vào năm 70 công nguyên, các tín đồ đấng Christ còn sống đều không lấy làm ngạc nhiên khi đền thờ và cả hệ thống Do Thái bị hủy diệt.
Tuy thế, sự hiện diện của đấng Christ không xảy ra vào năm 70 công nguyên. Sự hiện diện của đấng Christ trong quyền hành Nước Trời xảy ra rất lâu sau đó. Nhưng khi nào? Chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời khi xem xét lời tiên tri của Giê-su.
Giê-su báo trước sẽ có “giặc và tiếng đồn về giặc”, “dân này sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác” và sẽ có đói-kém, động đất và dịch-lệ. Môn đồ ngài sẽ bị người ta thù ghét và sát hại. Tiên tri giả sẽ nổi lên và lường gạt nhiều người. Sự khinh thường luật pháp sẽ gia tăng và lòng yêu thương của đại đa số sẽ nguội lần. Tin mừng về Nước Trời đồng thời sẽ được rao truyền để làm chứng cho muôn dân.
Mặc dù lời tiên tri của Giê-su đã ứng nghiệm trong một phạm vi nhỏ trước khi Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ vào năm 70 công nguyên, nhưng sự ứng nghiệm chính yếu là trong thời kỳ ngài hiện diện và trong thời kỳ kết liễu của hệ thống mọi sự này. Khi cẩn thận xem xét lại các biến cố trên thế giới từ năm 1914 đến nay, chúng ta sẽ thấy rõ lời tiên tri rất quan trọng của Giê-su đã có sự ứng nghiệm chính yếu kể từ năm ấy đến nay.
Một yếu tố khác của điềm mà Giê-su đã cho biết là sự xuất hiện của vật “gớm-ghiếc tàn-nát [gây điêu tàn, NW ]”. Vào năm 66, vật gớm ghiếc ấy xuất hiện dưới dạng “quân-lính vây thành”, tức quân đội La Mã bao vây Giê-ru-sa-lem và phá vách đền thờ. “[Vật] gớm-ghiếc” đứng ở một nơi không phải chỗ của nó.
Trong sự ứng nghiệm chính yếu của điềm, vật gớm ghiếc đó chính là Hội Quốc Liên và sau đó là Liên Hiệp Quốc. Tổ chức này nhằm đem lại hòa bình cho thế giới và được các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ xem như là thay thế cho Nước Trời. Thật gớm ghiếc làm sao! Bởi thế sẽ có ngày các cường quốc chính trị phối hợp với Liên Hiệp Quốc để tấn công các tôn giáo tự xưng theo đấng Christ (tức Giê-ru-sa-lem theo nghĩa bóng) và hủy diệt chúng.
Chính vì thế, Giê-su báo trước: “Vì lúc ấy sẽ có hoạn-nạn lớn, đến nỗi từ khi mới có trời đất cho đến bây giờ chưa từng có như vậy, mà sau nầy cũng không hề có nữa”. Giê-ru-sa-lem bị hủy phá vào năm 70 quả thật là một đại nạn. Theo lời tường trình, có hơn một triệu người bị giết. Phần tiên tri ấy sẽ có sự ứng nghiệm chính yếu trên một bình diện rộng lớn hơn nhiều.
Vững lòng tin trong những ngày cuối cùng
Ngày Thứ Ba 11 Ni-san ấy sắp tàn, Giê-su vẫn tiếp tục nói chuyện với các sứ đồ về điềm cho biết sự hiện diện của ngài trong quyền hành Nước Trời và sự kết liễu của hệ thống mọi sự này. Ngài cảnh giác họ về hiểm họa đi theo những kẻ giả danh đấng Christ. Ngài bảo “nếu có thể được” thì họ cũng sẽ mưu toan “dỗ-dành chính những người được chọn”. Nhưng, giống như chim ó có thể nhìn rất xa, những người được chọn nói trên sẽ tụ họp lại tại nơi có thức ăn thiêng liêng thật, đó là cùng họp lại với đấng Christ khi ngài hiện diện mà mắt thường không thể thấy được. Họ sẽ không bị lạc lối hoặc tụ tập theo một người nào giả danh đấng Christ.
Những người giả danh đấng Christ chỉ có thể xuất hiện một cách hữu hình. Ngược lại sự hiện diện của đấng Christ sẽ là vô hình. Giê-su nói rằng khi hoạn nạn lớn bùng nổ thì: “Mặt trời liền tối-tăm, mặt trăng không sáng”. Đúng vậy, đó sẽ là một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử, như thể mặt trời ban ngày bị tối tăm, và mặt trăng ban đêm chẳng có ánh sáng.
Giê-su nói tiếp: “Thế-lực của các từng trời rúng-động”. Ngài muốn ám chỉ bầu trời theo nghĩa đen sẽ có một sắc thái lạ lùng. Sự sợ hãi và bạo lực sẽ vượt đến một mức độ chưa từng thấy trong lịch sử loài người.
Giê-su cho biết kết quả là “dân các nước sầu-não rối-loạn vì biển nổi tiếng om-sòm và sóng-đào. Người ta nhơn trong khi đợi việc hung-dữ xảy ra cho thế-gian, thì thất-kinh mất vía”. Thật vậy, khi giai đoạn đen tối nhất của nhân loại gần đến lúc kết thúc, “điềm Con người sẽ hiện ra ở trên trời, mọi dân-tộc dưới đất sẽ đấm ngực”.
Tuy nhiên, không phải ai cũng đều than thở khi ‘Con người lấy đại quyền đến’ để hủy diệt hệ thống mọi sự ác này. “Những người được chọn” tức 144.000 người có phần với đấng Christ trong Nước Trời cũng như những bạn đồng hành của họ, tức những người mà Giê-su gọi là “chiên khác” sẽ đều không than thở. Mặc dầu sống trong giai đoạn đen tối nhất của lịch sử nhân loại, những người đó đáp ứng lời Giê-su khuyến khích: “Chừng nào các việc đó khởi xảy đến, hãy đứng thẳng lên, ngước đầu lên, vì sự giải-cứu của các ngươi gần tới”.
Để giúp các môn đồ ngài sống trong ngày sau rốt có thể xác định khi hệ thống mọi sự này sắp sửa kết liễu, Giê-su minh họa: “Hãy xem cây vả và các cây khác; khi nó mới nứt lộc, các ngươi thấy thì tự biết rằng mùa hạ gần đến. Cũng vậy, khi các ngươi thấy những điều ấy xảy ra, hãy biết nước Đức Chúa Trời gần đến. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, dòng-dõi [thế hệ, NW ] nầy chẳng qua trước khi mọi sự kia chưa xảy đến”.
Vì thế, khi môn đồ ngài trông thấy nhiều yếu tố của điềm được ứng nghiệm, họ sẽ hiểu rằng hệ thống mọi sự này sắp chấm dứt và Nước Trời sắp sửa tiêu diệt mọi sự gian ác. Quả thực, sự cuối cùng sẽ đến trong đời của những người chứng kiến sự ứng nghiệm của những điều mà Giê-su đã báo trước! Giê-su cảnh giác các môn đồ sống trong những ngày cuối cùng nghiêm trọng này:
“Hãy tự giữ lấy mình, e rằng vì sự ăn uống quá-độ, sự say-sưa và sự lo-lắng đời nầy làm cho lòng các ngươi mê-mẩn chăng, và e ngày ấy đến thình-lình trên các ngươi như lưới bủa; vì ngày đó sẽ đến cho mọi người ở khắp trên mặt đất cũng vậy. Vậy, hãy tỉnh-thức luôn và cầu-nguyện, để các ngươi được tránh khỏi các tai-nạn sẽ xảy ra, và đứng trước mặt Con người”.
Trinh nữ khôn và trinh nữ dại
Giê-su đã trả lời câu hỏi của các sứ đồ về điềm cho thấy sự hiện diện của ngài trong quyền hành Nước Trời. Bây giờ, ngài cho họ biết các đặc điểm khác của điềm qua ba sự minh họa, hay chuyện ví dụ.
Những người sống vào thời kỳ Giê-su hiện diện sẽ thấy sự ứng nghiệm của mỗi minh họa đó. Ngài mở đầu minh họa thứ nhất như sau: “Nước thiên-đàng sẽ giống như mười người nữ đồng-trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. Trong các nàng đó, có năm người dại và năm người khôn”.
Khi nói “nước thiên-đàng sẽ giống như mười người nữ đồng-trinh”, Giê-su không có ý nói phân nửa những người thừa kế Nước Trời là khôn, và phân nửa là dại đâu! Ngài muốn nói là có đặc điểm thế này, thế nọ liên quan đến Nước Trời, hay những vấn đề liên quan đến Nước Trời sẽ như thế này, thế nọ.
Mười trinh nữ tượng trưng cho tất cả tín đồ đấng Christ có hy vọng hoặc cho mình có hy vọng dự phần vào Nước Trời. Vào Lễ Ngũ tuần năm 33 công nguyên, hội thánh tín đồ đấng Christ được hứa gả cho Chàng Rể vinh hiển là Giê-su Christ, đấng đã được sống lại. Nhưng hôn lễ sẽ cử hành ở trên trời vào một thời điểm nào đó trong tương lai.
Trong lời minh họa này, mười trinh nữ ra đón chàng rể để chào mừng chàng và nhập vào đoàn rước dâu. Khi chàng đến, các nàng sẽ đốt đèn soi đường cho đoàn rước dâu, làm chàng được vinh dự khi đưa cô dâu về ngôi nhà đã được chuẩn bị cho nàng. Tuy nhiên, Giê-su nói tiếp: “Người dại khi cầm đèn thì không đem dầu theo cùng mình. Song người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình mình. Vì chàng rể đến trễ, nên các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục”.
Việc chàng rể đến muộn cho thấy thời điểm đấng Christ hiện diện với tư cách là vị vua cai trị hãy còn ở xa trong tương lai. Cuối cùng, ngài được lên ngôi vào năm 1914. Trong đêm dài trước đó, tất cả các trinh nữ đều ngủ thiếp đi mất. Tuy nhiên việc đó không đáng trách. Các trinh nữ dại bị kết tội vì không đem dầu theo. Giê-su nói tiếp: “Đến khuya, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đến, hãy đi ra rước người! Các nữ đồng-trinh bèn thức dậy cả, sửa-soạn đèn mình. Các người dại nói với các người khôn rằng: Xin bớt dầu của các chị cho chúng tôi, vì đèn chúng tôi gần tắt. Nhưng các người khôn trả lời rằng: Không, e chẳng đủ cho chúng tôi và các chị; thà các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua”.
Dầu tượng trưng cho những gì giúp tín đồ đấng Christ chiếu sáng như đuốc. Đó chính là Lời Đức Chúa Trời được soi dẫn mà các tín đồ nắm vững, cùng với thánh linh giúp họ hiểu được Lời đó. Dầu thiêng liêng này giúp cho các trinh nữ khôn có thể soi sáng trong khi đón tiếp chàng rể trên đường đi với đoàn người đến tiệc cưới. Nhưng lớp người trinh nữ dại không đem theo trong bình thứ dầu thiêng liêng cần thiết ấy. Vì thế Giê-su miêu tả điều xảy ra:
“Song trong khi [các trinh nữ dại] đang đi mua [dầu], thì chàng rể đến; kẻ nào chực sẵn, thì đi với người cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Chặp lâu, những người nữ đồng-trinh khác cũng đến và xin rằng: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi! Nhưng người đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta không biết các ngươi đâu”.
Sau khi đấng Christ đến trong Nước Trời ở trên trời, các tín đồ thật và được xức dầu của đấng Christ, tức lớp người trinh nữ khôn, ý thức được mình có đặc ân chiếu sáng trong thế giới tối tăm này để ca ngợi Chàng Rể đã trở lại. Tuy nhiên những người tượng trưng bởi các trinh nữ dại đã không sửa soạn để ca ngợi đón tiếp chàng rể. Do đó khi thời điểm đến, đấng Christ không mở cửa cho họ vào dự tiệc cưới trên trời. Ngài bỏ họ bên ngoài, giữa đêm khuya tối tăm nhất của thế gian này, cho họ bị hủy diệt chung với những kẻ khinh thường luật pháp. Giê-su kết luận: “Vậy, hãy tỉnh-thức, vì các ngươi không biết ngày, cũng không biết giờ”.
Ví dụ về các ta-lâng
Giê-su tiếp tục nói chuyện với các sứ đồ trên núi Ô-li-ve. Ngài cho họ một minh họa khác, tức chuyện ví dụ thứ nhì trong một loạt ba câu chuyện. Vài hôm trước đó, tại Giê-ri-cô, ngài kể chuyện ví dụ về các nén bạc để cho thấy Nước Trời hãy còn ở xa trong tương lai. Lần này, tuy có vài điểm tương tợ, nhưng chuyện ví dụ này miêu tả những sự kiện sẽ diễn ra khi Giê-su hiện diện trong quyền hành Nước Trời. Chuyện ví dụ này cho thấy rằng môn đồ ngài khi còn sống trên đất thì phải làm cho “của-cải [ngài]” sanh lợi.
Giê-su bắt đầu: “Vả, [các hoàn cảnh liên quan đến Nước Trời] sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy-tớ mà giao của-cải mình”. Giê-su chính là người sắp phải đi xa, tức lên trời, đã giao lại sản nghiệp cho các đầy tớ, tức là các môn đồ của ngài có triển vọng được cai trị Nước Trời ở trên trời. Sản nghiệp ấy không phải là của cải vật chất, nhưng sản nghiệp ấy tượng trưng cho một cánh đồng mà Giê-su đã trồng trọt để có thể sản xuất thêm nhiều môn đồ nữa.
Giê-su đã giao sản nghiệp của mình cho các đầy tớ không lâu trước khi lên trời. Ngài đã giao ra sao? Bằng cách truyền cho họ phải tiếp tục canh tác cánh đồng ấy, tức rao truyền thông điệp Nước Trời đến tận cùng trái đất. Như ngài nói: “Chủ đó cho người nầy năm ta-lâng, người kia hai, người khác một, tùy theo tài mỗi người; đoạn, chủ lên đường”.
Tám đồng ta-lâng tượng trưng sản nghiệp của đấng Christ được phân chia tùy theo tài, có nghĩa tùy theo khả năng về thiêng liêng của mỗi đầy tớ. Các đầy tớ tượng trưng cho nhiều hạng môn đồ khác nhau. Vào thế kỷ thứ nhất, hạng môn đồ nhận được năm ta-lâng hiển nhiên gồm các sứ đồ. Tiếp đó, Giê-su cho biết các đầy tớ nhận năm và hai ta-lâng đều đã sanh lợi gấp đôi qua việc rao truyền Nước Trời và đào tạo thêm môn đồ. Tuy nhiên, người đầy tớ nhận một ta-lâng đã đem tiền đi chôn.
Giê-su nói tiếp: “Cách lâu ngày, chủ của những đầy-tớ ấy trở về khiến họ tính sổ”. Cho đến thế kỷ 20 này, tức khoảng 1900 năm sau, đấng Christ mới trở lại để tính sổ với họ. Vậy quả thật là “cách lâu ngày”. Giê-su giải thích:
“Người đã nhận năm ta-lâng bèn đến, đem năm ta-lâng khác nữa, và thưa rằng: Lạy chúa, chúa đã cho tôi năm ta-lâng; đây nầy, tôi làm lợi ra được năm ta-lâng nữa. Chủ nói với người rằng: Hỡi đầy-tớ ngay-lành trung-tín kia, được lắm; ngươi đã trung-tín trong việc nhỏ, ta sẽ lập ngươi coi-sóc nhiều; hãy đến hưởng sự vui-mừng của chúa ngươi”. Người nhận hai ta-lâng cũng làm lợi ra được hai ta-lâng nữa và cũng được chủ khen thưởng giống vậy.
Nhưng các đầy tớ ấy hưởng sự vui mừng của chúa như thế nào? Sự vui mừng của chúa họ, tức Giê-su Christ, là nhận được Nước Trời khi ngài đi xa, tức lên trời với Cha mình. Đối với các đầy tớ trung thành của thời kỳ hiện đại, họ rất vui mừng được giao phó thêm trách nhiệm liên quan đến Nước Trời, và khi chấm dứt đời sống trên đất, họ sẽ vui mừng tột bực vì được sống lại trong Nước trên trời. Nhưng còn người đầy tớ thứ ba thì sao?
Người này than phiền: “Lạy chúa, tôi biết chúa là người nghiêm-nhặt... nên tôi sợ mà đi giấu ta-lâng của chúa ở dưới đất; đây nầy, vật của chúa xin trả cho chúa”. Người đầy tớ này cố ý từ chối làm việc trong cánh đồng, tức rao giảng và đào tạo môn đồ. Vì vậy người chủ gọi hắn là “đầy-tớ dữ và biếng-nhác” và tuyên án: “Các ngươi hãy lấy ta-lâng của người nầy... Còn tên đầy-tớ vô-ích đó, hãy quăng nó ra ngoài là chỗ tối-tăm, ở đó sẽ có khóc-lóc và nghiến răng”. Bị ném ra ngoài như thế, những kẻ thuộc lớp đầy tớ gian ác bị tước hết mọi niềm vui mừng thiêng liêng.
Đó là một bài học nghiêm trọng cho tất cả những ai tự cho mình là tín đồ đấng Christ. Nếu họ muốn được ngài khen thưởng và tránh bị quăng ra nơi tối tăm bên ngoài và cuối cùng bị hủy diệt, họ phải làm việc để sanh lợi cho gia tài của Chúa trên trời bằng cách tham gia hết mình trong công việc rao giảng. Bạn có tích cực làm thế không?
Khi đấng Christ đến trong quyền hành Nước Trời
Giê-su vẫn còn ở trên núi Ô-li-ve với các sứ đồ. Để đáp lời họ yêu cầu, ngài cho họ biết về điềm của sự hiện diện ngài và sự kết liễu của hệ thống mọi sự, ngài bấy giờ kể chuyện cuối cùng trong một loạt ba câu chuyện minh họa. Ngài bắt đầu như sau: “Khi Con người ngự trong sự vinh-hiển mình mà đến với các thiên-sứ thánh, thì ngài sẽ ngồi trên ngôi vinh-hiển của ngài”.
Giê-su đến vào lúc hệ thống mọi sự này sắp kết liễu. Nhưng mục đích là gì? Giê-su giải thích: “Muôn dân nhóm lại trước mặt ngài, rồi ngài sẽ chia người nầy với người khác ra, như kẻ chăn chiên chia chiên với dê ra; để chiên ở bên hữu và dê ở bên tả”.
Luận về những gì sẽ đến cho các chiên, Giê-su nói: “Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất”. Chiên trong câu chuyện minh họa này sẽ không cùng đấng Christ cai trị trên trời, nhưng họ thừa hưởng Nước Trời theo nghĩa họ sẽ trở thành thần dân sống trên đất. “Khi dựng nên trời đất [lập nên thế gian, NW ]” có nghĩa là khi A-đam và Ê-va bắt đầu sanh con đẻ cái, là những người có thể được lợi ích qua sự sắp đặt của Đức Chúa Trời nhằm cứu chuộc nhân loại.
Nhưng tại sao các chiên lại được để ở bên hữu, tức vị thế được Vua ban cho ân huệ? Vua đáp: “Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các người đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp-rước ta; ta trần-truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta”.
Vì sống trên đất nên các chiên muốn biết xem làm sao họ đã có thể thực hiện những việc tốt lành như thế đối với Vua trên trời. Họ hỏi: “Lạy Chúa, khi nào chúng tôi đã thấy Chúa đói, mà cho ăn; hoặc khát, mà cho uống? Lại khi nào chúng tôi đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp-rước; hoặc trần-truồng mà mặc cho? Hay là khi nào chúng tôi đã thấy Chúa đau, hoặc bị tù, mà đi thăm-viếng Chúa?”
Vua đáp: “Quả thật ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn-mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy”. Những anh em của đấng Christ chính là những người còn sống ở trên đất, thuộc thành phần còn sót lại của số 144.000 người và trong tương lai sẽ cai trị với ngài ở trên trời. Và Giê-su nói ai tốt với họ cũng như tốt với ngài vậy.
Tiếp đó, Vua phán cùng các dê: “Hỡi kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi ta; đi vào lửa đời đời đã sắm-sẵn cho ma-quỉ và những quỉ-sứ nó. Vì ta đã đói, các ngươi không cho ăn; ta khát, các ngươi không cho uống; ta là khách lạ, các ngươi không tiếp-rước; ta trần-truồng, các ngươi không mặc cho ta; ta đau và bị tù, các ngươi không thăm-viếng”.
Tuy nhiên, các dê than phiền: “Lạy Chúa, khi nào chúng tôi đã thấy Chúa, hoặc đói, hoặc khát, hoặc làm khách lạ, hoặc trần-truồng, hoặc đau-ốm, hoặc bị tù mà không hầu việc Ngài ư?” Ngài dùng một căn bản để xét xử chiên và dê; dê bị phạt còn chiên được thưởng. Giê-su đáp: “Hễ các ngươi không làm việc đó cho một người trong những người rất hèn-mọn nầy [anh em của ta], ấy là các ngươi cũng không làm cho ta nữa”.
Vì thế, sự hiện diện của đấng Christ trong quyền hành Nước Trời sẽ gồm có cả một thời kỳ phán xét. Điều này diễn ra ngay trước khi cơn đại nạn kết liễu hệ thống gian ác này. Các dê “sẽ vào hình-phạt đời đời, còn những người công-bình [các chiên] sẽ vào sự sống đời đời”. (Ma-thi-ơ 24:2 đến 25:46; 13:40, 49; Mác 13:3-37; Lu-ca 21:7-36; 19:43, 44; 17:20-30; II Ti-mô-thê 3:1-5; Giăng 10:16; Khải-huyền 14:1-3).
▪ Điều gì khiến các sứ đồ hỏi Giê-su, nhưng rõ ràng họ nghĩ về điều gì khác nữa?
▪ Phần nào trong lời tiên tri của Giê-su đã được ứng nghiệm vào năm 70 công nguyên, nhưng điều gì đã không xảy ra vào lúc đó?
▪ Lời tiên tri của Giê-su đã được ứng nghiệm lần đầu tiên khi nào, nhưng khi nào lời tiên tri đó có sự ứng nghiệm chính yếu?
▪ Vật gớm ghiếc là gì trong sự ứng nghiệm lần đầu, và là gì trong sự ứng nghiệm lần cuối?
▪ Khi Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt, tại sao lần đó không phải là lần ứng nghiệm cuối cùng của hoạn nạn lớn?
▪ Những tình trạng nào trên thế giới đánh dấu sự hiện diện của đấng Christ?
▪ “Mọi dân-tộc dưới đất sẽ đấm ngực” khi nào, nhưng tín đồ đấng Christ sẽ làm gì?
▪ Để giúp môn đồ tương lai của ngài biết khi hệ thống mọi sự này sắp sửa kết liễu, ▪ Giê-su cho những môn đồ sống trong ngày sau rốt lời khuyên nào?
▪ Mười trinh nữ tượng trưng cho ai?
▪ Hội thánh tín đồ đấng Christ được hứa gả cho chàng rể khi nào, nhưng khi nào chàng rể mới rước nàng đi dự tiệc cưới?
▪ Dầu tượng trưng cho những gì, và nhờ có dầu các trinh nữ khôn có thể làm gì?
▪ Tiệc cưới diễn ra ở đâu?
▪ Các trinh nữ dại mất phần thưởng lớn nào, và số phận của họ là gì?
▪ Câu chuyện ví dụ về các ta-lâng cho chúng ta bài học nào?
▪ Các đầy tớ là ai, và của cải mà họ được giao cho là gì?
▪ Khi nào người chủ về để tính sổ sách, và người thấy gì?
▪ Sự vui mừng mà các đầy tớ trung tín được hưởng là gì, và điều gì xảy ra cho đầy tớ thứ ba gian ác?
▪ Trong thời kỳ đấng Christ hiện diện, ngài làm công việc phán xét nào?
▪ Các chiên thừa hưởng Nước Trời theo nghĩa gì?
▪ “Khi dựng nên trời đất” là khi nào?
▪ Căn cứ trên điều gì người ta được cho là chiên hoặc bị coi là dê?
-
-
Gần đến lúc Giê-su cử hành Lễ Vượt qua lần cuối cùngNgười vĩ đại nhất đã từng sống
-
-
Chương 112
Gần đến lúc Giê-su cử hành Lễ Vượt qua lần cuối cùng
BẤY giờ là cuối ngày Thứ Ba 11 Ni-san. Giê-su ở trên núi Ô-li-ve vừa giảng dạy cho các sứ đồ xong. Quả là một ngày bận rộn và mệt nhọc! Giờ đây, có lẽ trên đường về Bê-tha-ni để trọ đêm, ngài bảo các sứ đồ: “Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt-qua, và Con người sẽ bị nộp để chịu đóng đinh trên cây thập-tự [cây cọc, NW ]”.
-