Tài liệu tham khảo cho Chương trình nhóm họp Lối sống và thánh chức
NGÀY 6-12 THÁNG 3
KHO BÁU TỪ KINH THÁNH | 1 SỬ KÝ 23-26
“Sự thờ phượng tại đền thờ được tổ chức chặt chẽ”
it-2-E trg 241
Người Lê-vi
Công việc của người Lê-vi được tổ chức chặt chẽ dưới sự chỉ dẫn của Đa-vít, là người bổ nhiệm những người giám sát, quan chức, quan xét, người gác cổng và người trông coi kho báu. Ông cũng bổ nhiệm rất nhiều người để phụ giúp các thầy tế lễ tại đền thờ, sân và phòng ăn trong những việc liên quan đến lễ vật, vật tế lễ, việc tẩy uế, cân, đo cùng các nhiệm vụ canh gác khác nhau. Những nhạc sĩ người Lê-vi được tổ chức thành 24 nhóm và luân phiên nhau phụng sự, tương tự như các ban thầy tế lễ. Các nhiệm vụ được xác định bằng cách bắt thăm. Đối với các nhóm người gác cổng, việc bắt thăm cũng được dùng để xác định cổng mà họ sẽ gác.—1Sử 23, 25, 26; 2Sử 35:3-5, 10.
it-2-E trg 686
Thầy tế lễ
Liên quan đến việc phục vụ tại đền thờ, các thầy tế lễ được tổ chức dưới sự chỉ dẫn của các quan chức. Một số công việc được giao bằng cách bắt thăm. Mỗi ban trong số 24 ban sẽ phục vụ một tuần mỗi lần, nghĩa là họ sẽ phục vụ hai lần trong một năm. Hẳn là toàn bộ các thầy tế lễ sẽ phục vụ trong các kỳ lễ khi dân chúng dâng hàng ngàn vật tế lễ, như khi họ phục vụ tại lễ dâng hiến đền thờ. (1Sử 24:1-18, 31; 2Sử 5:11; so sánh 2Sử 29:31-35; 30:23-25; 35:10-19). Một thầy tế lễ có thể phục vụ vào thời điểm khác miễn là họ không gây cản trở cho công việc của những thầy tế lễ đang thi hành nhiệm vụ trong tuần đó. Theo truyền thống của các ráp-bi, vì có nhiều thầy tế lễ vào thời Chúa Giê-su sống trên đất nên việc phục vụ trong tuần sẽ được chia nhỏ cho các gia đình thuộc ban đó, mỗi gia đình sẽ phục vụ một ngày hoặc nhiều hơn tùy theo số thành viên.
it-2-E trg 451, 452
Âm nhạc
Song song việc chuẩn bị cho đền thờ của Đức Giê-hô-va, Đa-vít chọn ra 4.000 người Lê-vi để phục vụ về âm nhạc (1Sử 23:4, 5). Trong số này có 288 người được “huấn luyện để hát cho Đức Giê-hô-va, tất cả đều là người chuyên nghiệp” (1Sử 25:7). Toàn bộ sắp đặt này nằm dưới sự chỉ đạo của ba nhạc sĩ tài ba là A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun (dường như còn được gọi là Ê-than). Họ lần lượt là hậu duệ của ba con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôm, Kê-hát và Mê-ra-ri. Như vậy cả ba dòng tộc của chi phái Lê-vi đều có đại diện trong sắp đặt về âm nhạc tại đền thờ (1Sử 6:16, 31-33, 39-44; 25:1-6). Ba người này có tổng cộng 24 con trai, tất cả đều nằm trong số 288 nhạc sĩ tài năng được nhắc ở trên. Mỗi người con trai này được bổ nhiệm đứng đầu một ban các nhạc sĩ bằng cách bắt thăm. Dưới sự chỉ đạo của người đó là 11 “người chuyên nghiệp” khác được tuyển chọn từ những con trai của chính người đó cũng như từ những người Lê-vi khác. Theo cách này 288 ([1 + 11] × 24 = 288) nhạc sĩ chuyên nghiệp người Lê-vi được phân chia thành 24 phiên, giống như các thầy tế lễ. Nếu toàn bộ 3.712 “người đang học” còn lại cũng được chia cho 24 ban thì trung bình mỗi ban sẽ có thêm khoảng 155 người. Điều này nghĩa là cứ một người chuyên nghiệp thì sẽ có khoảng 13 người Lê-vi đang được giáo dục và huấn luyện về âm nhạc ở các giai đoạn khác nhau (1Sử 25:1-31). Vì những người thổi kèn là thầy tế lễ, họ không được tính vào số nhạc sĩ người Lê-vi.—2Sử 5:12; so sánh Dân 10:8.
it-1-E trg 898
Người gác cổng
Tại đền thờ. Không lâu trước khi chết, vua Đa-vít đã tổ chức người Lê-vi và những người phục vụ tại đền thờ một cách kỹ lưỡng, trong đó bao gồm 4.000 người gác cổng. Mỗi lần theo các ban, những người gác cổng sẽ đến phục vụ trong bảy ngày. Họ có trách nhiệm canh gác nhà Đức Giê-hô-va và đảm bảo các cửa được đóng mở đúng giờ (1Sử 9:23-27; 23:1-6). Ngoài nhiệm vụ canh gác, một số cũng trông giữ số tiền mà dân chúng đóng góp cho công việc tại đền thờ (2V 12:9; 22:4). Về sau, khi thầy tế lễ thượng phẩm Giê-hô-gia-đa xức dầu cho Giê-hô-ách làm vua, các vệ binh đặc biệt được chỉ định đến canh gác các cổng của đền thờ để bảo vệ vị vua trẻ tuổi Giê-hô-ách khỏi hoàng hậu A-tha-li là kẻ chiếm ngôi vua (2V 11:4-8). Khi vua Giô-si-a phá bỏ việc thờ thần tượng, những người giữ cửa đã giúp đem khỏi đền thờ những vật dụng được dùng để thờ Ba-anh. Những thứ ấy sau đó được đốt bên ngoài thành.—2V 23:4.
NGÀY 20-26 THÁNG 3
KHO BÁU TỪ KINH THÁNH | 2 SỬ KÝ 1-4
“Vua Sa-lô-môn đưa ra quyết định thiếu khôn ngoan”
it-1-E trg 174 đ. 5
Quân đội
Dưới sự cai trị của Sa-lô-môn, một chương mới đã được viết ra trong lịch sử quân đội của Y-sơ-ra-ên. Triều đại của ông tương đối bình an, dù vậy ông vẫn tích trữ thêm nhiều ngựa và cỗ xe. (Xem CỖ XE). Phần lớn số ngựa này được mua và nhập từ Ai Cập. Để có chỗ cho lực lượng mới này, nhiều thành mới đã phải được xây thêm trên khắp lãnh thổ (1V 4:26; 9:19; 10:26, 29; 2Sử 1:14-17). Tuy nhiên, Đức Giê-hô-va không bao giờ ban phước cho những đổi mới này của Sa-lô-môn, và việc ông qua đời cùng việc vương quốc bị phân chia đã khiến cho quân đội Y-sơ-ra-ên yếu đi. Như Ê-sai viết sau này: “Khốn cho những kẻ sang Ai Cập cầu viện, những kẻ nương cậy vào ngựa, tin nơi chiến xa vì nhiều vô số và nơi ngựa chiến vì rất hùng mạnh, mà không hướng đến Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên cũng chẳng tìm kiếm Đức Giê-hô-va”.—Ês 31:1.
it-1-E trg 427
Cỗ xe
Ở Y-sơ-ra-ên, không có lực lượng chiến xa quốc gia hùng hậu nào phát triển cho đến thời của Sa-lô-môn. Điều này chủ yếu là vì Đức Chúa Trời đã cảnh báo rằng vua không được tích trữ nhiều ngựa, như thể an ninh quốc gia phụ thuộc vào chúng. Lời cảnh báo đó cũng hạn chế việc dùng các cỗ xe, vì ngựa được dùng để kéo các cỗ xe ấy (Phu 17:16). Khi cảnh báo dân chúng về gánh nặng mà các vua loài người sẽ chất lên họ, Sa-mu-ên nói: “Vua ấy sẽ đem con trai anh em đặt vào các xe ngựa” (1Sa 8:11). Áp-sa-lôm và A-đô-ni-gia, trong khi cố chiếm đoạt ngôi vua, đều đã sắm cho mình một cỗ xe với 50 người chạy trước mặt (2Sa 15:1; 1V 1:5). Khi đánh bại vua của Xô-ba, Đa-vít đã giữ lại 100 ngựa kéo chiến xa.—2Sa 8:3, 4; 10:18.
Để củng cố quân đội Y-sơ-ra-ên, vua Sa-lô-môn đã tăng số lượng cỗ xe lên 1.400 (1V 10:26, 29; 2Sử 1:14, 17). Ngoài Giê-ru-sa-lem thì cũng có các thành khác được biết đến là các thành dành cho những cỗ xe. Những thành này có các cơ sở đặc biệt để coi sóc tất cả các phương tiện chiến tranh cơ giới này.—1V 9:19, 22; 2Sử 8:6, 9; 9:25.
NGÀY 27 THÁNG 3–NGÀY 2 THÁNG 4
KHO BÁU TỪ KINH THÁNH | 2 SỬ KÝ 5-7
“Lòng ta sẽ luôn ở đó”
it-2-E trg 1077, 1078
Đền thờ
Lịch sử. Đền thờ này vẫn tồn tại cho đến năm 607 TCN khi nó bị quân Ba-by-lôn phá hủy dưới sự chỉ huy của vua Nê-bu-cát-nết-xa (2V 25:9; 2Sử 36:19; Giê 52:13). Bởi vì dân Y-sơ-ra-ên quay sang theo tôn giáo sai lầm, Đức Chúa Trời đã để cho các nước khác quấy rối Giu-đa và Giê-ru-sa-lem và đôi khi cướp đi các báu vật của đền thờ. Đền thờ cũng trải qua những thời kỳ bị bỏ bê. Vua Si-sắc của Ai Cập đã cướp lấy các báu vật của đền thờ (993 TCN) vào thời Rê-hô-bô-am con trai Sa-lô-môn, chỉ khoảng 33 năm sau khi đền thờ được khánh thành (1V 14:25, 26; 2Sử 12:9). Dù vua A-sa (977-937 TCN) có lòng tôn kính dành cho nhà Đức Giê-hô-va, nhưng để bảo vệ thành Giê-ru-sa-lem ông đã dại dột hối lộ vua Bên-ha-đát I của Sy-ri bằng bạc và vàng từ các kho báu của đền thờ để Bên-ha-đát hủy hiệp ước với vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên.—1V 15:18, 19; 2Sử 15:17, 18; 16:2, 3.
NGÀY 10-16 THÁNG 4
KHO BÁU TỪ KINH THÁNH | 2 SỬ KÝ 8, 9
“Bà quý trọng sự khôn ngoan”
it-2-E trg 990, 991
Sa-lô-môn
Sau khi nữ hoàng cũng chứng kiến sự lộng lẫy của đền thờ và cung điện của Sa-lô-môn, cung cách phục vụ tại bàn vua và phục vụ thức uống cùng với y phục của những hầu bàn, cũng như các vật tế lễ thiêu thường được dâng tại đền thờ, “thì bà vô cùng sửng sốt” và thốt lên: “Kìa, người ta nói chẳng được đến phân nửa. Sự khôn ngoan và thịnh vượng của ngài vượt xa những gì tôi đã nghe”. Sau đó bà tuyên bố rằng những tôi tớ được phục vụ một vị vua như thế thì thật hạnh phúc. Vì tất cả những điều này, bà đã được thúc đẩy để ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời, đấng đã thể hiện tình yêu thương dành cho Y-sơ-ra-ên qua việc lập Sa-lô-môn làm vua để thực thi công lý và sự công chính.—1V 10:4-9; 2Sử 9:3-8.
Những viên ngọc thiêng liêng
it-2-E trg 1097
Ngai
Cái ngai mà vua Sa-lô-môn đã làm là cái ngai duy nhất của một nhà cai trị Y-sơ-ra-ên được miêu tả chi tiết (1V 10:18-20; 2Sử 9:17-19). Dường như nó được đặt tại “Sảnh Ngai”, một trong những tòa nhà nằm trên núi Mô-ri-a ở Giê-ru-sa-lem (1V 7:7). Đó là một ‘cái ngai rất lớn bằng ngà và dát vàng tinh luyện với một mái che hình tròn ở phía trên và chỗ gác tay’. Mặc dù ngà có thể là vật liệu cơ bản để làm cái ngai này, nhưng theo kỹ thuật xây dựng thường được dùng tại đền thờ, dường như cái ngai này được làm từ gỗ, rồi được dát vàng tinh luyện và khảm bằng nhiều tấm ngà để trang trí. Khi một người nhìn vào ngai đó, nó trông có vẻ như được làm hoàn toàn bằng ngà và vàng. Sau khi đề cập đến sáu bậc bước lên chỗ ngai, lời tường thuật nói tiếp: “Có hai tượng sư tử đứng cạnh hai chỗ gác tay. Có 12 tượng sư tử đứng trên sáu bậc, ở hai đầu của mỗi bậc đều có một tượng” (2Sử 9:17-19). Việc sư tử được dùng làm biểu tượng cho quyền cai trị là phù hợp (Sa 49:9, 10; Kh 5:5). Mười hai tượng sư tử dường như tương ứng với 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên và có lẽ tượng trưng cho sự phục tùng và ủng hộ của họ đối với người cai trị ngồi trên ngai này. Một bệ chân bằng vàng cũng được gắn với ngai theo cách nào đó. Như những gì đã mô tả, với vị trí cao và có mái che cùng những tượng sư tử uy nghi phía trước, cái ngai bằng ngà và vàng này vượt trội hơn so với bất kỳ cái ngai nào khác vào thời đó, dù là do các nhà khảo cổ khám phá ra hay được miêu tả trên các đài tưởng niệm hoặc bảng khắc. Như người viết sử ký đã ghi lại cách trung thực: “Không có vương quốc nào làm giống như vậy”.—2Sử 9:19.
NGÀY 17-23 THÁNG 4
KHO BÁU TỪ KINH THÁNH | 2 SỬ KÝ 10-12
“Nhận lợi ích từ lời khuyên khôn ngoan”
it-2-E trg 768 đ. 1
Rê-hô-bô-am
Chính thái độ kiêu ngạo và độc đoán này của Rê-hô-bô-am đã khiến cho đa số dân chúng xa lánh ông. Chỉ còn hai chi phái là Giu-đa và Bên-gia-min vẫn tiếp tục ủng hộ nhà Đa-vít. Ngoài ra, nhà Đa-vít cũng nhận được sự ủng hộ của các thầy tế lễ và người Lê-vi của cả hai vương quốc cùng với một số người thuộc mười chi phái.—1V 12:16, 17; 2Sử 10:16, 17; 11:13, 14, 16.
Những viên ngọc thiêng liêng
it-1-E trg 966, 967
Quỷ hình dê
Những lời của Giô-suê nơi Giô-suê 24:14 cho thấy ở một mức độ nào đó dân Y-sơ-ra-ên đã bị ảnh hưởng bởi sự thờ phượng sai lầm của Ai Cập trong thời gian cư ngụ ở đó, trong khi Ê-xê-chi-ên cho thấy những thực hành ngoại giáo như thế vẫn tiếp tục ảnh hưởng trên họ đến mãi sau này (Êxê 23:8, 21). Vì lý do đó một số học giả xem sắc lệnh mà Đức Chúa Trời ban trong hoang mạc để cấm dân Y-sơ-ra-ên dâng “vật tế lễ cho các quỷ hình dê” (Lê 17:1-7) và việc Giê-rô-bô-am lập các thầy tế lễ “cho những nơi cao, cho các quỷ hình dê và cho các bò con mà ông đã làm” (2Sử 11:15) cho thấy rằng trong dân Y-sơ-ra-ên đã có hình thức thờ phượng dê, tương tự như sự thờ phượng dê phổ biến ở Ai Cập, đặc biệt là ở Hạ Ai Cập. Herodotus (quyển II, 46) cho rằng bắt nguồn từ sự thờ phượng đó của Ai Cập mà người Hy Lạp đã hình thành nên tín ngưỡng thờ thần Pan cũng như các satyr, là những thần rừng có bản tính dâm đãng. Về sau, các thần này được miêu tả là có sừng, đuôi dê và chân dê. Một số người cho rằng hình dạng nửa người nửa thú như thế của những vị thần ngoại giáo này là nguồn gốc của việc Sa-tan thường được miêu tả là có sừng, đuôi và bàn chân có móng rẽ, một phong tục phổ biến trong vòng tín đồ đạo Đấng Ki-tô tự xưng vào Thời Đại Đen Tối.
Tuy nhiên, “những thứ nhiều lông” (seʽi·rimʹ) đó thật sự là gì thì không được nói đến. Dù một số người cho rằng đó là những con dê thật hoặc các tượng thần có hình con dê, nhưng dường như điều này không được cho biết rõ; các câu Kinh Thánh khác cũng không cung cấp thêm bằng chứng cho điều này. Từ được dùng có lẽ chỉ đơn giản cho thấy là trong trí của những người thờ phượng các thần giả ấy, chúng có hình dạng giống dê hoặc bề ngoài có nhiều lông. Hoặc có lẽ việc dùng từ “dê” trong những câu này chỉ là một cách để thể hiện sự khinh bỉ đối với tất cả tượng thần nói chung. Điều này cũng giống như trong nhiều câu Kinh Thánh, từ được dùng để nói đến tượng thần có liên quan đến một từ mang nghĩa gốc là “cục phân”, nhưng không có ý nói những tượng thần này thật sự được làm từ phân.—Lê 26:30; Phu 29:17.