THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • bt chg 25 trg 196-202
  • “Tôi kháng án lên Sê-sa!”

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • “Tôi kháng án lên Sê-sa!”
  • Làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • “Đứng trước bục xét xử” (Công vụ 25:1-12)
  • “Tôi không dám không vâng theo” (Công vụ 25:13–26:23)
  • “Ngươi suýt thuyết phục được ta trở thành tín đồ đạo Đấng Ki-tô” (Công vụ 26:24-32)
  • Phao-lô mạnh dạn làm chứng trước các quan chức cao cấp
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1998
  • Giúp người khác chấp nhận thông điệp Nước Trời
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2003
  • “Tôi kêu-nài sự đó đến Sê-sa”
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2001
  • Dạn dĩ rao truyền Nước của Đức Giê-hô-va
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1991
Xem thêm
Làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời
bt chg 25 trg 196-202

CHƯƠNG 25

“Tôi kháng án lên Sê-sa!”

Phao-lô nêu gương mẫu trong việc bênh vực tin mừng

Dựa trên Công vụ 25:1–26:32

1, 2. (a) Phao-lô đang ở trong hoàn cảnh nào? (b) Câu hỏi nào được nêu ra liên quan đến việc Phao-lô kháng án lên Sê-sa?

Phao-lô vẫn bị canh giữ nghiêm ngặt ở Sê-sa-rê. Khi trở lại Giu-đê hai năm trước, chỉ trong vài ngày mà người Do Thái đã cố giết ông ít nhất ba lần (Công 21:27-36; 23:10, 12-15, 27). Cho đến giờ, những kẻ thù của Phao-lô vẫn chưa thành công, nhưng họ không bỏ cuộc. Khi biết mình vẫn còn có thể rơi vào tay kẻ thù, Phao-lô nói với quan tổng đốc La Mã Phê-tô: “Tôi kháng án lên Sê-sa!”.—Công 25:11.

2 Đức Giê-hô-va có hỗ trợ quyết định của Phao-lô về việc kháng án lên hoàng đế La Mã không? Câu trả lời rất quan trọng đối với chúng ta, là những người đang làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời trong thời kỳ cuối cùng này. Chúng ta cần biết Phao-lô đã nêu gương mẫu nào trong việc “bênh vực và tìm cách hợp pháp hóa quyền rao giảng tin mừng”.—Phi-líp 1:7.

“Đứng trước bục xét xử” (Công vụ 25:1-12)

3, 4. (a) Đằng sau lời thỉnh cầu của người Do Thái xin đưa Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem là gì, và ông đã thoát chết như thế nào? (b) Như đã làm cho Phao-lô, Đức Giê-hô-va nâng đỡ cho các tôi tớ ngài thời nay ra sao?

3 Ba ngày sau khi nhậm chức, quan tổng đốc La Mã mới của tỉnh Giu-đê là Phê-tô đi đến Giê-ru-sa-lem.a Tại đây, ông nghe các trưởng tế và những người có chức quyền của dân Do Thái cáo buộc Phao-lô bằng những tội danh nghiêm trọng. Họ biết quan tổng đốc mới bị áp lực phải giữ hòa khí với họ và cả dân Do Thái. Vì vậy, họ thỉnh cầu Phê-tô một ân huệ, đó là đưa Phao-lô trở lại Giê-ru-sa-lem và xét xử ông tại đây. Tuy nhiên, có một âm mưu nham hiểm đằng sau lời thỉnh cầu này. Những kẻ thù định giết Phao-lô trên đường từ Sê-sa-rê về Giê-ru-sa-lem. Nhưng Phê-tô từ chối mà rằng: “Những người có quyền thế trong các ông hãy cùng ta đi xuống [Sê-sa-rê], nếu ông ta quả có làm gì sai thì cứ tố cáo” (Công 25:5). Do đó, một lần nữa Phao-lô lại thoát chết.

4 Trong tất cả những thử thách mà Phao-lô gặp phải, Đức Giê-hô-va đã nâng đỡ ông qua Chúa Giê-su Ki-tô. Hãy nhớ rằng trong một khải tượng, Chúa Giê-su đã nói với sứ đồ của ngài: “Hãy can đảm lên!” (Công 23:11). Ngày nay, tôi tớ của Đức Giê-hô-va cũng đương đầu với các trở ngại và những lời hăm dọa. Đức Giê-hô-va không che chở chúng ta khỏi mọi khó khăn, nhưng ngài ban sự khôn ngoan và sức mạnh để chúng ta chịu đựng. Chúng ta có thể luôn nương cậy nơi “sức lực hơn mức bình thường” mà Đức Chúa Trời yêu thương cung cấp.—2 Cô 4:7.

5. Phê-tô đã đối xử với Phao-lô như thế nào?

5 Vài ngày sau, Phê-tô “ngồi trên bục xét xử” ở Sê-sa-rê.b Đứng trước mặt ông là Phao-lô và những người cáo buộc. Để đáp lại những lời buộc tội vô căn cứ, Phao-lô nói: “Tôi không làm điều gì trái với Luật pháp của người Do Thái, cũng chẳng xúc phạm đền thờ hoặc có tội với Sê-sa”. Sứ đồ này vô tội và xứng đáng được trả tự do. Phê-tô quyết định thế nào? Muốn làm hài lòng người Do Thái, ông hỏi Phao-lô: “Ngươi có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xét xử trước mặt ta về vụ này không?” (Công 25:6-9). Thật là một lời đề nghị ngớ ngẩn! Nếu Phao-lô bị giải về Giê-ru-sa-lem thì những kẻ cáo buộc ông sẽ trở thành người xét xử, và do đó ông cầm chắc cái chết. Trong trường hợp này, Phê-tô đã chọn lợi ích chính trị thay vì công lý chân chính. Một quan tổng đốc trước đây là Bôn-xơ Phi-lát cũng đã hành động tương tự trong vụ việc liên quan đến một tù nhân quan trọng hơn nhiều (Giăng 19:12-16). Các quan tòa thời nay cũng có thể nhượng bộ trước áp lực chính trị. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi các quyết định của tòa án đi ngược với bằng chứng trong các vụ việc liên quan đến dân Đức Chúa Trời.

6, 7. Tại sao Phao-lô kháng án lên Sê-sa, và ông đã để lại tiền lệ nào cho các tín đồ chân chính ngày nay?

6 Mong muốn làm hài lòng người Do Thái của Phê-tô có thể đặt Phao-lô vào tình thế cực kỳ nguy hiểm. Vì vậy, Phao-lô sử dụng một quyền mà ông có với tư cách là công dân La Mã. Ông nói với Phê-tô: “Tôi đang đứng trước bục xét xử của Sê-sa, tôi phải được xét xử tại nơi này. Tôi không có tội gì với người Do Thái, như ngài biết rõ... Tôi kháng án lên Sê-sa!”. Một khi đã nói ra thì lời kháng án như thế thường không thể bị bãi bỏ. Điều này được Phê-tô nhấn mạnh khi ông tuyên bố: “Ngươi đã kháng án lên Sê-sa thì sẽ đến Sê-sa” (Công 25:10-12). Bằng cách kháng án lên nhà chức trách có quyền pháp lý cao hơn, Phao-lô đã để lại một tiền lệ cho các tín đồ đạo Đấng Ki-tô chân chính ngày nay. Khi những người chống đối “nhân danh luật pháp mưu toan gây hại”, Nhân Chứng Giê-hô-va tận dụng những điều khoản của luật pháp để bênh vực tin mừng.c—Thi 94:20.

7 Do đó, sau hơn hai năm bị bỏ tù vì những tội mình không phạm, Phao-lô có cơ hội trình bày vụ việc tại Rô-ma. Tuy nhiên, trước khi đi, có một nhà cai trị khác muốn gặp ông.

Nhiều người trong phòng xử án, phản ứng khác nhau trước một bản án. Một anh cùng luật sư của anh và một số Nhân Chứng trông nghiêm nghị. Những người không phải Nhân Chứng thì vui vẻ và chúc mừng nhóm pháp lý đã tranh cãi trong vụ chống lại anh ấy.

Khi có những phán quyết pháp lý gây bất lợi, chúng ta kháng án

“Tôi không dám không vâng theo” (Công vụ 25:13–26:23)

8, 9. Tại sao vua A-ríp-ba đến thăm Sê-sa-rê?

8 Vài ngày sau khi Phê-tô nghe Phao-lô kháng án lên Sê-sa, vua A-ríp-ba cùng em gái là Bê-rê-nít đến “để thăm xã giao” quan tổng đốc mới.d Vào thời La Mã, các quan chức thường đến thăm những quan tổng đốc mới được bổ nhiệm. Qua việc chúc mừng chức vụ mới của Phê-tô, A-ríp-ba hẳn đang cố gắng thắt chặt mối quan hệ chính trị và cá nhân vì điều này có thể có lợi trong tương lai.—Công 25:13.

KHÁNG ÁN VÌ SỰ THỜ PHƯỢNG THẬT TRONG THỜI HIỆN ĐẠI

Có nhiều lúc Nhân Chứng Giê-hô-va đã kháng án lên các tòa cấp cao nhằm gỡ bỏ những trở ngại đối với công việc rao truyền tin mừng về Nước Đức Chúa Trời. Sau đây là hai trường hợp cụ thể.

Vào ngày 28-3-1938, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã bác bỏ các phán quyết của tòa án bang và tuyên bố trắng án cho một nhóm Nhân Chứng đã bị bắt giữ vì phân phát ấn phẩm dựa trên Kinh Thánh tại Griffin, Georgia, Hoa Kỳ. Đó là lần đầu tiên trong số rất nhiều lần kháng án lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ về quyền được rao giảng tin mừng của Nhân Chứng Giê-hô-va.g

Một trường hợp khác liên quan đến một Nhân Chứng Giê-hô-va tại Hy Lạp, tên là Minos Kokkinakis. Trong khoảng thời gian 48 năm, anh đã bị bắt giữ hơn 60 lần vì tội “xúi người ta đổi đạo”. Anh đã bị truy tố trước tòa 18 lần, trải qua nhiều năm trong tù và bị đày đến những hòn đảo xa xôi ở vùng biển Aegean. Sau lần kết án cuối cùng vào năm 1986, các tòa án cấp cao của Hy Lạp đã bác bỏ các đơn kháng cáo của anh. Sau đó, anh tìm kiếm sự hỗ trợ của Tòa án Nhân quyền Châu Âu. Vào ngày 25-5-1993, tòa án này phán quyết rằng chính quyền Hy Lạp đã vi phạm quyền tự do tôn giáo của anh Minos.

Nhân Chứng Giê-hô-va đã kháng án lên Tòa án Nhân quyền Châu Âu để xin sự trợ giúp trong nhiều vụ kiện và đã chiến thắng trong hầu hết các vụ. Không một tổ chức nào, dù có liên quan đến tôn giáo hay không, đã thành công như thế trong việc bênh vực các quyền cơ bản của con người trước Tòa án Nhân quyền Châu Âu.

Những người khác có nhận được lợi ích từ những chiến thắng pháp lý của Nhân Chứng Giê-hô-va không? Học giả Charles Haynes viết: “Tất cả chúng ta đều nợ Nhân Chứng Giê-hô-va lòng biết ơn. Dù bị xúc phạm, bị đuổi hoặc thậm chí bị đánh đập bao nhiêu lần, họ vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo của họ (và của chúng ta nữa). Khi họ chiến thắng, tất cả chúng ta cũng chiến thắng”.

g Xin xem bài liên quan đến quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ về tự do ngôn luận, được đăng trong Tỉnh Thức! (Anh ngữ) số ra ngày 8-1-2003, trang 3-11.

9 Phê-tô kể với vua A-ríp-ba về Phao-lô, và vị vua này cảm thấy tò mò. Ngày hôm sau, hai nhà cai trị ngồi trên bục xét xử. Nhưng quyền lực và sự phô trương của họ không gây ấn tượng sâu sắc bằng lời nói của phạm nhân đang đứng trước mặt.—Công 25:22-27.

10, 11. Phao-lô đã thể hiện sự tôn trọng đối với A-ríp-ba như thế nào? Và ông đã tiết lộ cho vua điều gì về quá khứ của mình?

10 Phao-lô cám ơn vua A-ríp-ba một cách tôn trọng vì cho mình cơ hội biện hộ, và công nhận vua là một người am hiểu mọi tục lệ cũng như những vấn đề tranh cãi của người Do Thái. Rồi Phao-lô trình bày về quá khứ của mình: “Tôi theo phái Pha-ri-si, một phái nghiêm ngặt nhất trong đạo chúng ta” (Công 26:5). Là một người Pha-ri-si, Phao-lô từng trông mong sự xuất hiện của Đấng Mê-si. Giờ đây, là tín đồ đạo Đấng Ki-tô, ông khẳng định một cách dạn dĩ rằng Chúa Giê-su Ki-tô chính là đấng được mong đợi từ lâu. Ông và những người cáo buộc có chung một niềm tin, đó là hy vọng về sự ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời với tổ phụ họ, và niềm tin ấy chính là lý do khiến Phao-lô bị xét xử vào ngày hôm đó. Điều này khiến cho A-ríp-ba càng thích thú nơi những gì Phao-lô nói.e

11 Nhớ lại việc mình đã đối xử tàn nhẫn với các tín đồ đạo Đấng Ki-tô trong quá khứ, Phao-lô nói: “Về phần tôi, tôi từng tin rằng mình phải làm mọi cách để chống lại danh Chúa Giê-su người Na-xa-rét... Tôi căm giận đến nỗi sang cả những thành khác để bắt bớ họ [những môn đồ của Đấng Ki-tô]” (Công 26:9-11). Phao-lô không hề nói quá sự thật. Nhiều người biết sự hung bạo mà ông đã làm cho các môn đồ Chúa Giê-su (Ga 1:13, 23). A-ríp-ba có lẽ tự hỏi: “Điều gì đã khiến một người như thế thay đổi?”.

12, 13. (a) Phao-lô kể lại sự cải đạo của ông như thế nào? (b) Phao-lô đã “đá vào gậy nhọn” như thế nào?

12 Những lời tiếp theo của Phao-lô cho chúng ta câu trả lời: “Khi tôi đang trên đường đến thành Đa-mách với quyền hành và sự ủy nhiệm của các trưởng tế, thì bẩm vua, vào giữa trưa, tôi thấy từ trời có ánh sáng rực rỡ hơn ánh mặt trời chiếu khắp quanh tôi và những người đi cùng. Chúng tôi đều ngã xuống đất, rồi tôi nghe có tiếng phán với mình bằng ngôn ngữ Hê-bơ-rơ: ‘Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ! Sao ngươi bắt bớ ta? Cứ đá vào gậy nhọn thì gây thương tích cho ngươi’. Tôi đáp: ‘Thưa Chúa, ngài là ai?’. Chúa phán: ‘Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ’”.f—Công 26:12-15.

13 Trước khi xảy ra sự kiện siêu nhiên này, nói theo nghĩa bóng, Phao-lô đã “đá vào gậy nhọn”. Như súc vật tự làm đau nó một cách không cần thiết bằng cách đá vào đầu nhọn của gậy thúc bò, Phao-lô đã tự hại mình về mặt thiêng liêng qua việc chống lại ý muốn Đức Chúa Trời. Khi hiện ra với Phao-lô trên đường đến thành Đa-mách, Chúa Giê-su được sống lại đã khiến cho người đàn ông chân thành nhưng lầm lạc này thay đổi suy nghĩ.—Giăng 16:1, 2.

14, 15. Phao-lô nói gì liên quan đến những sự thay đổi mà ông đã thực hiện trong cuộc đời?

14 Phao-lô thật sự đã thực hiện những thay đổi lớn trong đời mình. Ông nói với A-ríp-ba: “Tôi không dám không vâng theo khải tượng từ trời, nhưng trước hết mang thông điệp đến những người ở Đa-mách, rồi đến Giê-ru-sa-lem, khắp xứ Giu-đê và kể cả dân ngoại, ấy là họ phải ăn năn và quay về với Đức Chúa Trời bằng cách hành động phù hợp với sự ăn năn” (Công 26:19, 20). Trong nhiều năm, Phao-lô đã hoàn thành mệnh lệnh mà Chúa Giê-su Ki-tô giao cho ông trong khải tượng vào giữa trưa hôm đó. Kết quả là gì? Những người hưởng ứng tin mừng mà Phao-lô rao giảng đã ăn năn hạnh kiểm vô đạo đức, bất lương của họ và thờ phượng Đức Chúa Trời. Những người như thế trở thành những công dân tốt, bày tỏ sự tôn trọng và góp phần gìn giữ an ninh trật tự.

15 Dù vậy, những ích lợi này không có ý nghĩa gì đối với những người Do Thái chống đối Phao-lô. Ông nói: “Bởi lẽ đó người Do Thái bắt tôi trong đền thờ và cố giết tôi. Tuy nhiên, vì cảm nghiệm sự trợ giúp của Đức Chúa Trời nên tôi tiếp tục làm chứng đến ngày nay cho cả người lớn lẫn kẻ nhỏ”.—Công 26:21, 22.

16. Chúng ta có thể noi gương của Phao-lô khi nói với quan tòa và các nhà cai trị về niềm tin của mình như thế nào?

16 Là tín đồ đạo Đấng Ki-tô chân chính, chúng ta phải “luôn sẵn sàng bênh vực” đức tin của mình (1 Phi 3:15). Khi nói trước quan tòa hay các nhà cai trị về niềm tin, việc noi theo phương pháp Phao-lô đã dùng khi đứng trước A-ríp-ba và Phê-tô có thể rất hữu ích. Qua việc trình bày với họ một cách tôn trọng rằng sự thật trong Kinh Thánh đã thay đổi thế nào đời sống của chính chúng ta cũng như của những người hưởng ứng thông điệp, chúng ta có thể động đến lòng của các bậc cầm quyền.

“Ngươi suýt thuyết phục được ta trở thành tín đồ đạo Đấng Ki-tô” (Công vụ 26:24-32)

17. Phê-tô phản ứng thế nào trước lời biện hộ của Phao-lô, và thái độ tương tự nào thường thấy ngày nay?

17 Khi nghe bằng chứng đầy sức thuyết phục của Phao-lô, hai nhà cai trị không còn giữ được sự khách quan nữa. Hãy chú ý đến lời tường thuật sau: “Phao-lô đang nói những lời ấy để biện hộ cho mình thì Phê-tô nói lớn: ‘Phao-lô ơi! Ngươi mất trí rồi! Ngươi học nhiều quá nên đã bị mất trí!’” (Công 26:24). Sự bộc phát của Phê-tô có thể phản ánh một thái độ thường thấy ngày nay. Đối với nhiều người, những ai dạy dỗ những điều thật sự được nói trong Kinh Thánh là cuồng tín. Những người khôn ngoan theo thế gian thường khó chấp nhận dạy dỗ của Kinh Thánh về sự sống lại.

18. Phao-lô đã trả lời Phê-tô như thế nào, và điều này khiến A-ríp-ba phản ứng ra sao?

18 Nhưng Phao-lô trả lời quan tổng đốc: “Tôi không mất trí đâu thưa ngài Phê-tô, tôi nói những điều có thật và có suy xét. Thật thế, vua biết rõ những điều này nên tôi thoải mái thưa chuyện với người... Bẩm vua A-ríp-ba, vua có tin các nhà tiên tri không? Tôi biết là vua tin”. A-ríp-ba đáp: “Chỉ trong thời gian ngắn mà ngươi suýt thuyết phục được ta trở thành tín đồ đạo Đấng Ki-tô” (Công 26:25-28). Những lời này, dù có chân thành hay không, cũng cho thấy việc làm chứng của Phao-lô đã ảnh hưởng mạnh đến vua A-ríp-ba.

19. Phê-tô và A-ríp-ba đã kết luận thế nào liên quan đến Phao-lô?

19 Rồi A-ríp-ba và Phê-tô đứng lên, đó là dấu hiệu kết thúc phiên xử. “Khi đi ra ngoài, họ nói với nhau: ‘Người này chẳng làm điều gì đáng chết hay đáng bỏ tù’. Rồi A-ríp-ba nói với Phê-tô: ‘Người này có thể được thả nếu không kháng án lên Sê-sa’” (Công 26:31, 32). Họ biết người đàn ông vừa trình diện trước mặt mình là vô tội. Có lẽ giờ đây, họ có cái nhìn thiện cảm hơn đối với tín đồ đạo Đấng Ki-tô.

20. Việc Phao-lô làm chứng cho các bậc cầm quyền mang lại kết quả nào?

20 Cả hai nhà cai trị đầy quyền lực trong lời tường thuật dường như không chấp nhận tin mừng về Nước Đức Chúa Trời. Vậy sự trình diện của sứ đồ Phao-lô trước những người này có phải là điều khôn ngoan không? Câu trả lời là có. Việc Phao-lô “bị giải đến trước mặt vua chúa và quan quyền” tại Giu-đê đã dẫn đến việc làm chứng cho các nhà lãnh đạo La Mã, là những người mà các tín đồ vào thời đó thường không thể tiếp cận được (Lu 21:12, 13). Ngoài ra, kinh nghiệm và lòng trung thành của Phao-lô khi đối diện với thử thách đã khích lệ anh em cùng đức tin.—Phi-líp 1:12-14.

21. Bằng cách kiên trì trong công việc rao giảng, chúng ta có thể thấy được những kết quả tốt nào?

21 Ngày nay cũng thế. Bằng cách kiên trì trong công việc rao giảng bất chấp những thử thách và chống đối, chúng ta có thể thấy nhiều kết quả tốt. Chúng ta có thể làm chứng cho các quan chức chính quyền, là những người thường khó tiếp cận được. Sự chịu đựng trung thành của chúng ta có thể là nguồn khích lệ đối với anh em đồng đạo, và cũng thúc đẩy họ dạn dĩ hơn trong việc làm chứng cặn kẽ về Nước Đức Chúa Trời.

QUAN TỔNG ĐỐC LA MÃ BỐT-KIU PHÊ-TÔ

Thông tin về Bốt-kiu Phê-tô từ những người tận mắt chứng kiến chỉ có trong sách Công vụ các sứ đồ và các tài liệu của sử gia Flavius Josephus. Phê-tô thay thế Phê-lích làm quan tổng đốc tỉnh Giu-đê vào khoảng năm 58 CN và dường như qua đời trong lúc đang giữ chức, sau khi trị vì chỉ hai hoặc ba năm.

Bốt-kiu Phê-tô.

Nói chung, Phê-tô có vẻ là một quan tổng đốc cẩn trọng và có năng lực, trái ngược với người tiền nhiệm Phê-lích và người kế nhiệm là Albinus. Khi Phê-tô bắt đầu làm quan tổng đốc, xứ Giu-đê có đầy nạn cướp bóc. Theo ông Josephus, “Phê-tô... tập trung trừng trị những kẻ gây xáo trộn trong xứ. Vì thế, ông bắt giữ phần lớn bọn cướp và xử tử rất nhiều”. Trong thời gian ông giữ chức, người Do Thái đã xây một bức tường để không cho vua A-ríp-ba thấy điều gì xảy ra trong khu vực đền thờ. Lúc đầu, Phê-tô ra lệnh cho họ đập bỏ nó, nhưng theo yêu cầu của người Do Thái, ông lại cho phép họ đệ trình vấn đề lên hoàng đế La Mã Nê-rô.

Phê-tô có vẻ rất kiên quyết chống lại tội phạm và những kẻ nổi loạn. Nhưng vì mong muốn duy trì mối giao hảo với người Do Thái, ông sẵn sàng bỏ qua công lý, ít nhất là trong trường hợp của sứ đồ Phao-lô.

VUA HÊ-RỐT A-RÍP-BA II

A-ríp-ba được đề cập nơi sách Công vụ chương 25 là vua Hê-rốt A-ríp-ba II, chắt của Hê-rốt Đại đế và là con trai của Hê-rốt đã ngược đãi hội thánh Giê-ru-sa-lem 14 năm trước (Công 12:1). Ông là hoàng tử cuối cùng trong dòng Hê-rốt.

Vua Hê-rốt A-ríp-ba II.

Khi cha của ông qua đời vào năm 44 CN, A-ríp-ba được 17 tuổi và đang được giáo dục tại cung điện của hoàng đế La Mã Cơ-lo-đi-ô ở Rô-ma. Các cố vấn của hoàng đế cho rằng ông còn quá trẻ để thừa hưởng lãnh thổ của cha; do đó, một quan tổng đốc La Mã được bổ nhiệm thế cho A-ríp-ba. Dù vậy, theo sử gia Flavius Josephus, khi còn ở Rô-ma, A-ríp-ba đã can thiệp và đại diện cho quyền lợi của người Do Thái.

Vào khoảng năm 50 CN, Cơ-lo-đi-ô trao cho A-ríp-ba quyền làm vua cai trị xứ Chalcis và vào năm 53 CN, ông được cai trị Y-tu-rê, Tra-cô-nít và A-by-len. A-ríp-ba cũng được giao giám sát đền thờ Giê-ru-sa-lem, với quyền bổ nhiệm các thầy tế lễ thượng phẩm Do Thái. Người kế nhiệm Cơ-lo-đi-ô là Nê-rô đã nới rộng lãnh thổ của A-ríp-ba đến một số vùng thuộc Ga-li-lê và Phê-rê. Vào thời điểm gặp sứ đồ Phao-lô, A-ríp-ba đang ở Sê-sa-rê với em gái Bê-rê-nít, người đã bỏ chồng, là vua xứ Si-li-si.—Công 25:13.

Vào năm 66 CN, khi những nỗ lực của A-ríp-ba nhằm làm dịu đi sự nổi dậy của người Do Thái chống lại La Mã bị thất bại, ông trở thành mục tiêu của phe nổi loạn. Không còn lựa chọn nào khác, A-ríp-ba về phe của người La Mã. Sau khi cuộc nổi dậy của người Do Thái bị dập tắt, một hoàng đế mới là Vespasian, đã thưởng cho A-ríp-ba thêm những vùng đất cai trị.

a Xem khung “Quan tổng đốc La Mã Bốt-kiu Phê-tô”.

b Nơi mà Phê-tô “ngồi trên bục xét xử” là một ghế đặt trên bục. Vị trí cao như thế cho thấy phán quyết của người xét xử là tối hậu và phải được tôn trọng. Phi-lát đã ngồi trên một bục xét xử khi cân nhắc các lời cáo buộc chống lại Chúa Giê-su.

c Xem khung “Kháng án vì sự thờ phượng thật trong thời hiện đại” nơi trang 200.

d Xem khung “Vua Hê-rốt A-ríp-ba II”.

e Là một tín đồ đạo Đấng Ki-tô, Phao-lô chấp nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si. Những người Do Thái bác bỏ Chúa Giê-su xem Phao-lô là kẻ bội đạo.—Công 21:21, 27, 28.

f Liên quan đến những gì Phao-lô nói về việc ông đi “vào giữa trưa”, một học giả Kinh Thánh cho biết: “Nếu không có điều gì thật sự khẩn cấp, một khách bộ hành sẽ nghỉ ngơi vào buổi trưa nắng gắt. Nên chúng ta có thể thấy Phao-lô đã nỗ lực thế nào khi thực hiện nhiệm vụ chống đối”.

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ