THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w95 1/6 trg 20-25
  • Chúng tôi được ban cho một hạt ngọc rất quí giá

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Chúng tôi được ban cho một hạt ngọc rất quí giá
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Một kinh nghiệm đáng nhớ
  • Văn hóa mới
  • Học tiếng Tây Ban Nha và khởi công
  • Các thử thách lúc ban đầu ở Madrid
  • Những kinh nghiệm tuyệt diệu ở Madrid
  • Rao giảng cho binh lính đem lại nhiều kết quả
  • Một học hỏi Kinh-thánh khác thường
  • Lời mời bất ngờ
  • Phải rời công việc giáo sĩ của chúng tôi
  • Rao giảng giữa ma túy và bạo động
  • Một quyết định khó khăn
  • “Chúng tôi... được chức-vụ nầy, thì chúng tôi không ngã lòng”
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
  • Cuộc đời phụng sự Đức Giê-hô-va nhiều bất ngờ
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2001
  • “Đức Giê-hô-va giải cứu tôi trong giờ phút đen tối nhất”
    Câu chuyện cuộc đời của Nhân Chứng Giê-hô-va
  • Hết lòng nhìn chăm chú vào giải thưởng
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1996
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1995
w95 1/6 trg 20-25

Chúng tôi được ban cho một hạt ngọc rất quí giá

DO RICHARD GUNTHER KỂ LẠI

Đó là tháng 9 năm 1959. Chúng tôi đi trên tàu chở khách Julio Caesar của Ý Đại Lợi xuyên qua Đại Tây Dương từ New York đến Cádiz, Tây Ban Nha. Hội Tháp Canh phái tôi, cùng với vợ là Rita, và Paul và Evelyn Hundertmark là một cặp giáo sĩ khác đến xứ đó. Chúng tôi sắp gặp nhiều thử thách. Nhưng điều gì đã đưa chúng tôi đến quyết định làm giáo sĩ?

TÔI và Rita làm báp têm để trở thành Nhân-chứng Giê-hô-va vào năm 1950 ở New Jersey, Hoa Kỳ. Ít lâu sau đó, chúng tôi làm một quyết định mà nhờ vậy với thời gian chúng tôi có được một hạt ngọc rất quí giá. Chúng tôi phục vụ trong một hội thánh có đủ các anh chị để rao giảng trong khu vực. Vì thế chúng tôi cảm thấy phải xin đi phục vụ nơi nào cần nhiều người rao giảng hơn. Tại hội nghị quốc tế của Nhân-chứng Giê-hô-va ở New York City vào mùa hè năm 1958, chúng tôi nộp đơn xin làm giáo sĩ.

Ít lâu sau đó, chúng tôi được mời đến Trường Kinh-thánh Ga-la-át của Hội Tháp Canh, và trong vòng một năm chúng tôi lên đường đi Tây Ban Nha với tư cách giáo sĩ. Vì bận rộn với nhiều việc sắp xếp và lòng tràn đầy háo hức, lúc đó chúng tôi không ý thức về công việc mình được ban cho. Giê-su nói về một hạt ngọc rất quí giá (Ma-thi-ơ 13:45, 46). Mặc dù đặc ân làm giáo sĩ không phải là điểm chủ yếu trong ví dụ của ngài, đối với chúng tôi đặc ân đó có thể so sánh với hạt ngọc thể ấy. Bây giờ nhìn lại, chúng tôi quí trọng một cách trọn vẹn hơn sự ban cho quí giá về công tác trong tổ chức của Đức Giê-hô-va.

Một kinh nghiệm đáng nhớ

Lúc đó, khóa học làm giáo sĩ của Trường Ga-la-át được dạy trong môi trường thôn quê tuyệt đẹp ở vùng Finger Lakes của tiểu bang New York. Ở đó chúng tôi trải qua sáu tháng tuyệt vời, hoàn toàn miệt mài trong việc học hỏi Kinh-thánh và trong sự kết hợp thật tình của tín đồ đấng Christ, tách khỏi công việc và sự lo lắng của thế gian này. Các bạn học của chúng tôi đến từ nhiều nơi trên thế giới, kể cả Úc Đại Lợi, Bolivia, Anh, Hy Lạp và Tân Tây Lan. Nhưng ít lâu sau thì đến ngày ra trường. Tháng 8 năm 1959, mắt rưng rưng, chúng tôi chào từ biệt nhau khi ai nấy đều lên tầu đi đến nhiệm sở giáo sĩ của mình. Một tháng sau chúng tôi đến Tây Ban Nha.

Văn hóa mới

Chúng tôi cập bến hải cảng phía nam là Algeciras, dọc theo Mũi Gibraltar hùng vĩ. Đêm đó bốn người chúng tôi, tôi và Rita cùng với anh chị Hundertmark, đi xe lửa đến Madrid. Chúng tôi đến khách sạn Mercador, và đợi ở đó đến khi các thành viên của trụ sở chi nhánh bí mật của Hội liên lạc. Tây Ban Nha nằm dưới sự thống trị độc tài của Generalissimo Francisco Franco. Điều này có nghĩa là Giáo hội Công giáo La Mã là quốc giáo chính thức duy nhất. Công khai theo tín ngưỡng nào khác là việc bất hợp pháp, và Nhân-chứng Giê-hô-va bị cấm không được rao giảng từ nhà này sang nhà kia. Ngay cả các buổi họp về tôn giáo cũng bị cấm, vì vậy lúc đó ở Tây Ban Nha, Nhân-chứng Giê-hô-va, khoảng 1.200 người trong 30 hội thánh không thể họp tại Phòng Nước Trời như ở các xứ khác. Chúng tôi phải bí mật họp trong các nhà riêng.

Học tiếng Tây Ban Nha và khởi công

Sự khó khăn đầu tiên của chúng tôi là học tiếng Tây Ban Nha. Trong tháng đầu, chúng tôi dành 11 giờ mỗi ngày để học tiếng Tây Ban Nha—mỗi sáng 4 giờ trong lớp, sau đó 7 giờ tự học. Tháng thứ hai, chương trình cho buổi sáng không thay đổi, nhưng buổi trưa thì chúng tôi dành cho việc rao giảng từ nhà này sang nhà kia. Bạn có thể tưởng tượng không? Vẫn không biết tiếng và chỉ có một lời giới thiệu thuộc lòng viết trên một tấm giấy, tôi và Rita đi một mình từ nhà này sang nhà kia!

Tôi còn nhớ gõ cửa một nhà ở Vallecas là một khu vực của giới lao động ở Madrid. Cầm tấm giấy trong tay để phòng hờ, tôi nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Chào bà. Chúng tôi làm công việc của tín đồ đấng Christ. Kinh-thánh nói (chúng tôi đọc một đoạn Kinh-thánh). Chúng tôi mời bà nhận cuốn sách mỏng này”. Vậy, bà chỉ nhìn, rồi lấy cuốn sách mỏng. Khi chúng tôi trở lại thăm viếng, bà mời chúng tôi vào, và bà chỉ nhìn khi chúng tôi nói. Chúng tôi bắt đầu học Kinh-thánh với bà và cố gắng hết khả năng mình, và trong các buổi học, bà chỉ lắng nghe và nhìn. Cuối cùng, sau một thời gian, bà cho chúng tôi biết là khi chúng tôi thăm viếng lần đầu tiên bà đã không hiểu chúng tôi nói gì nhưng nghe được chữ Dios (Đức Chúa Trời) thì đủ cho bà biết là chúng tôi nói về điều tốt. Cuối cùng, bà hiểu biết khá nhiều về Kinh-thánh và làm báp têm, trở thành Nhân-chứng Giê-hô-va.

Học tiếng Tây Ban Nha là việc cực kỳ khó cho tôi. Khi đi trong thành phố, tôi thường học thuộc lòng cách chia động từ. Tuần này tôi nhớ được bao nhiêu thì tuần sau tôi quên hết! Tôi rất nản lòng. Nhiều lần tôi gần bỏ cuộc. Vì tôi nói tiếng Tây Ban Nha rất tệ nên các anh em Tây Ban Nha phải rất kiên nhẫn khi tôi dẫn đầu trong việc thiêng liêng. Tại một hội nghị địa hạt, một anh đưa cho tôi một thông báo viết tay để đọc trên bục. Vì khó đọc được chữ viết của anh, tôi thông báo: “Ngày mai xin anh chị đem theo muletas (nạng) đến sân vận động”. Đáng lẽ phải nói là “Ngày mai xin anh chị đem theo maletas (hành lý) đến sân vận động”. Dĩ nhiên, đám đông cười rộ, và tất nhiên tôi cảm thấy ngượng ngùng.

Các thử thách lúc ban đầu ở Madrid

Những năm đầu ở Madrid rất khó khăn cho tôi và Rita trên phương diện tình cảm. Chúng tôi rất nhớ nhà và bạn bè, đặc biệt vào mỗi lần nhận được thư tín từ Hoa Kỳ. Có những lúc chúng tôi không cưỡng lại được sự luyến tiếc quá khứ đó, nhưng rồi nó cũng qua đi. Dù sao chúng tôi đã bỏ nhà cửa, gia đình và bạn bè để có được một hạt ngọc quí giá hơn. Chúng tôi cần phải thích nghi.

Lúc đầu ở Madrid, chúng tôi sống trong một nhà trọ rất tồi tàn. Chúng tôi có phòng ở và ba bữa ăn mỗi ngày. Đó là một căn phòng nhỏ, tối đen và có nệm nhồi rơm. Chúng tôi dùng hết số tiền trợ cấp nhỏ hàng tháng để trả tiền thuê phòng. Chúng tôi thường ăn ở đó vào buổi trưa và chủ nhà thường để đồ ăn trong lò đặng giữ nóng để chúng tôi có đồ ăn vào đêm khuya. Tuy nhiên, đi bộ trên các đường phố ban ngày và ban đêm làm chúng tôi rất đói. Nếu không còn tiền trợ cấp, chúng tôi xài ít tiền riêng để mua một thỏi sôcôla rẻ nhất mà chúng tôi có thể tìm được. Tuy nhiên, ít lâu sau hoàn cảnh này thay đổi khi giám thị vùng của Hội đến thăm. Anh thấy tình cảnh của chúng tôi và nói rằng chúng tôi có thể tìm một căn nhà nhỏ để dùng làm nhà giáo sĩ. Vậy, có được căn nhà riêng sẽ tốt hơn là tắm đứng trong bồn tròn trên sàn nhà bếp của nhà trọ. Giờ đây chúng tôi sẽ có buồng tắm vòi hoa sen, tủ lạnh để giữ đồ ăn và lò điện để nấu ăn. Chúng tôi rất biết ơn về sự quan tâm đó.

Những kinh nghiệm tuyệt diệu ở Madrid

Chúng tôi rất cẩn thận khi rao giảng từ nhà này sang nhà kia. Sự ồn ào huyên náo hằng ngày ở Madrid là lợi thế, làm người ta khó nhận thấy chúng tôi. Chúng tôi cố gắng mặc quần áo và hành động như người khác để chúng tôi không dễ nhận ra là người nước ngoài. Cách chúng tôi rao giảng từ nhà này sang nhà kia là đi vào một dãy nhà, gõ cửa một nhà, nói chuyện với người ta và rồi thì rời khỏi dãy nhà, con đường và khu vực đó. Rất có thể chủ nhà sẽ gọi báo cảnh sát và do đó, ở lại trong khu vực là việc thiếu khôn ngoan. Trên thực tế, mặc dù cẩn thận làm theo cách thức này, Paul và Evelyn Hundertmark vẫn bị bắt và trục xuất ra khỏi Tây Ban Nha vào năm 1960. Họ đi đến xứ Bồ Đào Nha bên cạnh, phục vụ ở đó trong một vài năm, anh Paul trông nom trụ sở chi nhánh bí mật. Ngày nay anh là giám thị thành phố ở San Diego, California.

Tuy nhiên, có một việc xảy ra đưa đến sự bù trừ cho chúng tôi. Chỉ vài tháng sau, sáu giáo sĩ được bổ nhiệm đi Bồ Đào Nha phải rời khỏi nước đó! Việc này đưa đến một diễn biến thích thú vì anh Eric và chị Hazel Beveridge là hai anh chị cũng học cùng khóa Ga-la-át với chúng tôi, bây giờ được chỉ định rời Bồ Đào Nha và đến Tây Ban Nha. Cho nên vào tháng 2 năm 1962, chúng tôi lại có mặt ở khách sạn Mercador một lần nữa—lần này để đón tiếp Eric và Hazel khi họ đến.

Thời gian đầu ở Madrid là lúc tôi và Rita trực tiếp biết về đạo đức giả của tôn giáo. Chúng tôi học Kinh-thánh với Bernardo và Maria là một cặp vợ chồng sống trong một ngôi nhà lụp xụp làm bằng bất cứ những mảnh vật liệu xây cất nào đã thải bỏ mà Bernardo tìm được. Chúng tôi học với họ vào ban đêm, và sau buổi học, họ thường mời chúng tôi dùng bánh mì, rượu và pho mát hoặc bất cứ thứ gì họ có. Tôi để ý thấy pho mát giống như pho mát Mỹ. Vào một đêm nọ sau buổi học, họ mang ra cái hộp đựng pho mát. Trên hộp có hàng chữ viết lớn bằng tiếng Anh, “Đồ của người Mỹ gửi cho người Tây Ban Nha—không được bán”. Bằng cách nào gia đình nghèo nàn này có được pho mát đó? Chính quyền giao cho Giáo hội Công giáo việc phân phát đồ này cho người nghèo. Nhưng vị linh mục đem đồ này ra bán!

Rao giảng cho binh lính đem lại nhiều kết quả

Ít lâu sau, một việc tuyệt diệu xảy ra chứng tỏ là một ân phước lớn cho chúng tôi và cho nhiều người khác. Chúng tôi nhận được một thông báo từ trụ sở chi nhánh kêu chúng tôi đến thăm một thanh niên tên là Walter Kiedaisch đóng ở một căn cứ không quân Hoa Kỳ ở Torrejón cách Madrid vài dặm. Chúng tôi đến thăm anh và vợ anh, bắt đầu học Kinh-thánh với họ và một cặp vợ chồng không quân khác ở đó.

Trong thời gian đó, tôi điều khiển khoảng năm học hỏi Kinh-thánh với binh sĩ không quân Hoa Kỳ, tất nhiên bằng tiếng Anh. Sau này bảy người trong số đó làm báp têm, và sau khi trở về Hoa Kỳ, bốn anh trở thành trưởng lão hội thánh.

Đây là thời kỳ có rất ít cách để đem sách báo và Kinh-thánh vào nước vì công việc của chúng tôi bị cấm. Tuy nhiên, du khách và những người Mỹ quen với chúng tôi mang vào một số sách báo. Tôi được chi nhánh chỉ định để điều hành một kho chứa sách báo bí mật. Đó là một nhà kho đằng sau một tiệm bán dụng cụ văn phòng ở Vallecas. Vợ chủ tiệm là Nhân-chứng Giê-hô-va. Dù không phải là Nhân-chứng, chủ tiệm tôn trọng công việc của chúng tôi, và bất kể nguy cơ lớn cho ông và việc buôn bán của ông, ông cho tôi dùng phòng đằng sau để gói các sách báo hầu gửi đến các thành phố trên khắp nước. Vì căn phòng này phải luôn luôn nhìn giống như là nhà kho—bụi bặm, bừa bộn những hộp—tôi phải đóng một bàn làm việc và các kệ sách mà có thể được dựng lên và sẵn sàng một cách nhanh chóng để làm việc và rồi giấu đi trong giây lát. Cuối ngày, tôi phải đợi đến khi không còn ai trong tiệm rồi mới đem các gói sách báo đi ra thật nhanh.

Được tham gia trong việc phân phát tài liệu thiêng liêng như tạp chí Tháp Canh và Awake! và các sách báo khác cho các hội thánh trên toàn quốc là một đặc ân thật sự. Đó là những thời kỳ sôi nổi.

Rita vui mừng điều khiển 16 học hỏi Kinh-thánh tại nhà, khoảng nửa số người này làm báp têm trở thành Nhân-chứng Giê-hô-va. Dolores là một thiếu phụ phải nằm trên giường để dưỡng bệnh tim vào những mùa đông rét buốt. Đến mùa xuân thì bà có thể rời khỏi giường và hoạt động một phần nào. Dolores có đức tin mạnh, cho nên khi có hội nghị địa hạt ở Toulouse, Pháp, bà rất muốn đi. Bác sĩ bảo bà không nên đi vì bà có bệnh tim. Mặc áo xuềnh xoàng và đi đôi dép lê và không có hành lý, bà đi xuống trạm xe lửa để tiễn chồng bà, mẹ bà và những người khác. Mắt rưng lệ, thấy họ đi bà không thể chịu được, nên bà leo lên xe lửa và đi luôn tới Pháp! Rita không biết việc này đã xảy ra. Nhưng tại hội nghị, Rita ngạc nhiên làm sao khi thấy Dolores, đang cười toe toét!

Một học hỏi Kinh-thánh khác thường

Chúng tôi không thể kết thúc câu chuyện về công việc của chúng tôi ở Madrid mà không nói đến Don Benigno Franco, “el profesor”. Một anh Nhân-chứng địa phương đưa tôi đến thăm một người đàn ông lịch sự lớn tuổi, sống với vợ trong một căn nhà rất nghèo nàn. Tôi bắt đầu học Kinh-thánh với ông. Sau khi học khoảng một năm rưỡi, ông xin làm báp têm và trở thành một Nhân-chứng Giê-hô-va.

Người lịch sự lớn tuổi này là Don Benigno Franco, anh họ của Francisco Franco là nhà độc tài của Tây Ban Nha lúc bấy giờ. Don Benigno có vẻ là người luôn luôn yêu chuộng tự do. Trong suốt cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha, ông có cảm tình với đảng Cộng hòa và chống lại em họ mình—là vị tướng thắng trận và thành lập chế độ độc tài Công giáo. Từ năm 1939, Don Benigno không có quyền làm việc và phải sống rất nghèo nàn. Như vậy anh họ của Generalissimo Francisco Franco, lãnh tụ của Tây Ban Nha, đã trở thành một Nhân-chứng Giê-hô-va.

Lời mời bất ngờ

Năm 1965 văn phòng chi nhánh Tây Ban Nha mời chúng tôi bắt đầu lưu động trong công việc vòng quanh ở Barcelona. Việc này đòi hỏi chúng tôi phải rời tất cả các anh chị rất thân thiết, đầy thương yêu ở Madrid. Bây giờ không những phải bắt đầu một kinh nghiệm mới mà còn là một thử thách cho tôi. Kinh nghiệm này thật đáng sợ vì tôi luôn luôn nghi ngờ khả năng của mình. Tôi biết rất rõ là chính Đức Giê-hô-va giúp tôi trở nên hữu hiệu trong lĩnh vực phụng sự này.

Đến thăm một hội thánh mỗi tuần tức là sống trong nhà các anh chị. Chúng tôi không có chỗ ở cố định, và hầu như mỗi hai tuần, chúng tôi dọn đến một nhà khác. Việc này đặc biệt khó cho phụ nữ. Nhưng ít lâu sau José và Roser Escudé là anh chị sống ở Barcelona mời chúng tôi ở lại với họ nhiều ngày liên tiếp. Nhờ lòng đầy yêu thương của họ, chúng tôi có một chỗ ở cố định để giữ hành lý và một nơi thường trú vào những buổi tối Chủ nhật.

Trong bốn năm kế tiếp, tôi và Rita phục vụ trong công việc vòng quanh ở tỉnh Catalonia trên bờ biển Địa trung hải. Chúng tôi tổ chức tất cả những buổi họp một cách bí mật trong các nhà riêng, và chúng tôi cũng rao giảng từ nhà này sang nhà kia một cách thận trọng hầu không bị dòm ngó. Thỉnh thoảng chúng tôi nhóm cả hội thánh lại vào ngày Chủ Nhật để “ăn ngoài trời” ở trong rừng, đặc biệt khi có hội nghị vòng quanh.

Chúng tôi sẽ luôn luôn khâm phục nhiều anh chị thiêng liêng tận tụy đã đánh liều việc làm và sự tự do, nỗ lực để giữ hội thánh hợp nhất và tích cực. Nhiều người này xung phong mở rộng công việc đến các thị trấn ngoại ô. Đây là cơ sở cho sự gia tăng rộng lớn ở Tây Ban Nha sau khi chính quyền bãi bỏ lệnh cấm và cho phép tự do tín ngưỡng vào năm 1970.

Phải rời công việc giáo sĩ của chúng tôi

Trong suốt mười năm ở Tây Ban Nha, tình trạng sức khỏe của cha mẹ chúng tôi làm chúng tôi cũng lo lắng khi vui hưởng ân phước đặc biệt này trong việc phụng sự Đức Giê-hô-va. Nhiều lần chúng tôi suýt nữa phải rời nhiệm sở để về nhà chăm sóc cha mẹ tôi. Tuy nhiên, nhờ có các anh chị đầy yêu thương trong các hội thánh ở gần cha mẹ tôi, chúng tôi có thể tiếp tục ở lại Tây Ban Nha. Đúng thế, đặc ân được phục vụ trong công việc giáo sĩ trong những năm đó là nhờ một phần vào những anh chị đã cùng chúng tôi đặt quyền lợi Nước Trời trên hết.

Cuối cùng, vào tháng 12 năm 1968, chúng tôi trở về nhà để chăm sóc mẹ tôi. Cùng tháng đó cha tôi qua đời, và mẹ tôi bấy giờ còn lại một mình. Tương đối vẫn còn rảnh để phục vụ trọn thời gian, chúng tôi nhận được nhiệm vụ làm công việc vòng quanh, nhưng lần này thì ở Hoa Kỳ. Trong 20 năm sau đó, chúng tôi phục vụ trong các vòng quanh nói tiếng Tây Ban Nha. Dù chúng tôi mất đi hạt ngọc rất quí giá là công việc giáo sĩ, chúng tôi được ban cho một hạt ngọc quí giá khác.

Rao giảng giữa ma túy và bạo động

Bây giờ chúng tôi phục vụ vai kề vai với nhiều anh chị sống trong những khu vực đầy tội ác của thành phố. Thật thế, ngay tuần đầu trong công việc vòng quanh ở Brooklyn, New York, Rita bị giật ví xách tay.

Có một lần tôi và Rita đi với một nhóm anh chị rao giảng từ nhà này sang nhà kia ở một khu vực khác của New York City. Rẽ vào góc phố, chúng tôi để ý thấy vài người sắp hàng trước một cái lỗ trên tường của một tòa nhà bỏ hoang. Khi đi tới vài bước, chúng tôi để ý thấy một người trẻ tuổi đứng trên vỉa hè nhìn chúng tôi. Có một tên khác đứng ở góc đằng kia canh chừng xe cảnh sát. Chúng tôi đã đi vào giữa cuộc buôn bán ma túy! Người canh gác đầu giật mình, nhưng khi hắn thấy tạp chí Tháp Canh thì yên lòng. Xét cho cùng, tôi có thể là cảnh sát! Lúc đó hắn gọi lên bằng tiếng Tây Ban Nha, “¡Los Atalayas! ¡Los Atalayas!” (Tháp Canh! Tháp Canh!) Họ biết chúng tôi là ai, nhận ra chúng tôi qua tạp chí, và không có gì phải lo. Khi tôi đi ngang qua gần hắn, tôi nói, “¿Buenos dias, como está?” (Chào anh, anh có khỏe không?) Hắn trả lời bằng cách nhờ tôi cầu nguyện cho hắn!

Một quyết định khó khăn

Năm 1990 hoàn cảnh cho thấy rõ là tôi cần phải lo cho mẹ tôi mỗi ngày. Chúng tôi đã cố gắng nhiều để tiếp tục làm công việc lưu động, nhưng một cách sáng suốt chúng tôi thấy rằng không thể làm tròn cả hai trách nhiệm. Tất nhiên chúng tôi muốn chắc chắn là Mẹ được chăm sóc tử tế. Nhưng một lần nữa chúng tôi lại phải bỏ hạt ngọc rất quí giá là điều chúng tôi rất yêu quí. Tất cả những viên ngọc quí trên thế giới và tất cả những gì chúng có thể làm cho một người thì không đáng kể so với hoạt động giáo sĩ hay giám thị lưu động có thể so sánh như hạt ngọc trong tổ chức của Đức Giê-hô-va.

Bây giờ tôi và Rita đã trên 60 tuổi. Chúng tôi khá hài lòng và vui mừng phục vụ với một hội thánh địa phương nói tiếng Tây Ban Nha. Khi nhớ lại những năm phụng sự Đức Giê-hô-va, chúng tôi cám ơn Ngài đã giao phó cho chúng tôi những hạt ngọc thật quí giá.

[Hình nơi trang 23]

Với Rita và Paul và Evelyn Hundertmark (bên phải) bên ngoài trường đấu bò ở Madrid

[Hình nơi trang 24]

Phục vụ một hội thánh trong một “cuộc đi ăn ngoài trời” ở trong rừng

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ