THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w97 1/6 trg 19-23
  • Đức Giê-hô-va biểu lộ sự thành tín

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Đức Giê-hô-va biểu lộ sự thành tín
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • Tuổi trẻ không có mục đích
  • Trung thành với một đối tượng khác
  • Làm thánh chức trọn thời gian ở nước Anh
  • Thánh chức được nới rộng ở Phi Châu
  • Trở lại Phi Châu
  • Hoàn cảnh mới ở Anh Quốc
  • Một nhiệm sở giáo sĩ trở thành quê hương chúng tôi
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2002
  • Được vững mạnh nhờ tình anh em khắp thế giới
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2002
  • Ân phước của Đức Giê-hô-va vượt quá mọi sự mong đợi
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2019
  • Quyết định đúng mang lại ân phước suốt đời
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—2007
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
w97 1/6 trg 19-23

Đức Giê-hô-va biểu lộ sự thành tín

DO PETER PALLISER KỂ LẠI

Lúc đó là tháng 12 năm 1985. Chúng tôi thấy rạo rực trong lòng khi máy bay bắt đầu hạ cánh xuống phi trường quốc tế ở Nairobi, Kê-ni-a. Trên đường lái xe vào thành phố, cảnh vật và những tiếng quen thuộc gợi lại bao kỷ niệm xưa.

CHÚNG TÔI đến Kê-ni-a để dự Hội nghị Địa hạt “Những người giữ sự trung kiên” của Nhân-chứng Giê-hô-va. Mười hai năm trước đó, tôi và vợ tôi bị bắt buộc phải rời Kê-ni-a vì công việc rao giảng ở đó bị cấm đoán. Lúc ở Kê-ni-a, chúng tôi sống trong nhà Bê-tên, tên gọi các cơ sở chi nhánh của Nhân-chứng Giê-hô-va. Có một sự bất ngờ thích thú làm sao khi chúng tôi trở lại đó viếng thăm!

Một chị giúp chuẩn bị bữa ăn trưa ở nhà Bê-tên là một Nhân-chứng trẻ mà chúng tôi đã quen biết từ lúc chị ấy mới được hai tuổi. Có ít nhất sáu thành viên của gia đình Bê-tên là những người mà chúng tôi quen biết khi họ còn nhỏ. Thật là vui mừng biết bao khi nhìn thấy họ bây giờ là những người trưởng thành, cùng với gia đình, tất cả đều vẫn tích cực trong thánh chức! Đức Chúa Trời chúng ta là Đức Giê-hô-va đã chăm sóc họ phù hợp với lời hứa trong Kinh-thánh: “Đối với ai trung thành, ngài đối xử trung tín” (II Sa-mu-ên 22:26, NW). Tôi thấy có một sự tương phản rõ rệt làm sao khi so sánh cuộc sống của tôi hồi còn trẻ với cuộc sống đầy thỏa mãn của những người trẻ này!

Tuổi trẻ không có mục đích

Tôi ra đời ở thị trấn Scarborough, nước Anh, vào ngày 14-8-1918. Hai năm sau thì mẹ tôi và người chị dọn đến Ca-na-đa, vì thế ba năm kế tiếp tôi sống với cha, bà nội và người cô. Khi tôi lên năm, mẹ bắt cóc tôi và đem tôi qua Montreal, Ca-na-đa. Bốn năm sau đó, mẹ cho tôi về trở lại nước Anh để sống với cha và để đi học.

Cứ khoảng mỗi sáu tháng, mẹ tôi và người chị đó viết thư cho tôi. Ở cuối thư, họ luôn tỏ ý mong muốn cho tôi trở thành một công dân tốt, trung thành với Vua và quốc gia. Cách tôi hồi âm có lẽ đã làm cho họ thất vọng vì tôi viết rằng tôi tin chủ nghĩa quốc gia và chiến tranh là những điều sai lầm. Tuy vậy, vì không có một sự hướng dẫn rõ rệt nào, cho nên trong tuổi thanh niên, tôi sống một cuộc đời vô chí hướng.

Rồi vào tháng 7 năm 1939, sáu tuần trước khi Đệ nhị Thế chiến bắt đầu, tôi bị động viên vào quân đội Anh. Tôi mới được 20 tuổi. Ít lâu sau trung đoàn của tôi được phái đến vùng phía bắc nước Pháp. Khi bị máy bay Đức oanh tạc, những người trai trẻ chúng tôi lấy súng nhắm bắn vào những máy bay đó. Cuộc sống như thế thật là kinh hoàng. Chúng tôi rút lui trước sự tiến công của quân đội Đức, và tôi là một trong số những người được di tản ở Dunkirk trong tuần lễ đầu của tháng 6 năm 1940. Tôi vẫn còn nhớ lại cảnh tượng khủng khiếp của những xác chết của cả một tiểu đoàn nằm rải rác trên bờ biển. Tôi sống qua được kinh nghiệm hãi hùng đó và về tới vùng Harwich ở phía đông nước Anh trên một chiếc tàu nhỏ chở hàng.

Vào năm sau, tháng 3 năm 1941, tôi được phái đi Ấn Độ. Ở đây tôi được huấn luyện để làm thợ sửa dụng cụ máy bay. Sau một thời gian nằm bệnh viện vì bị nhiễm trùng, tôi được chuyển đến một đơn vị quân đội ở Delhi, thủ đô Ấn Độ. Xa nhà và vẫn chưa được khỏe lắm, tôi bắt đầu nghĩ về tương lai. Tôi đặc biệt muốn biết điều gì sẽ xảy ra khi mình chết.

Trung thành với một đối tượng khác

Một người Anh, Bert Gale, là bạn cùng phòng với tôi ở Delhi. Một ngày nọ anh ấy nói rằng “tôn giáo là của Ma-quỉ”, một lời nhận xét khiến tôi chú ý. Vợ anh đã trở thành Nhân-chứng Giê-hô-va, và thỉnh thoảng chị ấy gởi cho chồng sách báo bàn về Kinh-thánh. Một trong những sách báo đó, cuốn sách nhỏ Hope, đã làm tôi chú ý. Sách đó bàn về niềm hy vọng về sự sống lại và điều này đã cho tôi một cảm giác an tâm thật sự.

Vào khoảng đầu năm 1943, Bert nói chuyện với một người thường dân Ấn lai Anh, tên là Teddy Grubert, anh này làm việc chung với chúng tôi ở căn cứ quân sự. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi được biết Teddy là một Nhân-chứng. Mặc dù vào năm 1941 các sách báo của Nhân-chứng Giê-hô-va bị cấm, anh ấy dẫn chúng tôi đến các buổi họp của Nhân-chứng ở Delhi. Trong hội thánh nhỏ bé đó, tôi đã tìm được tình bằng hữu chân thật và nồng hậu lần đầu tiên trong cuộc đời. Basil Tsatos là một tín đồ đấng Christ lớn tuổi từ Hy Lạp đã đặc biệt chú ý đến tôi và anh đã giải đáp các thắc mắc của tôi. Anh đã dùng Kinh-thánh để trả lời rõ ràng những thắc mắc như tại sao chúng ta già và chết, sự sống lại, và thế giới mới công bình mà Đức Chúa Trời hứa (Công-vụ các Sứ-đồ 24:15; Rô-ma 5:12; II Phi-e-rơ 3:13; Khải-huyền 21:3, 4).

Cuốn sách nhỏ Peace—Can It Last?, xuất bản vào năm 1942, đặc biệt làm tôi chú ý. Sách đó cho biết Hội Quốc Liên là “con thú sắc đỏ sặm” (Khải-huyền 17:3). Trích dẫn đoạn 17, câu 11 Khải-huyền 17:11 của sách Khải-huyền, sách nhỏ đó nói: “Giờ đây chúng ta có thể nói rằng Hội Quốc Liên ‘đã có nay không còn nữa’ ”. Sách này nói tiếp: “Hiệp hội các nước thế gian sẽ xuất hiện một lần nữa”. Vào năm 1945, hơn ba năm sau, việc đó quả thực đã xảy ra khi tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập!

Trong lúc các sách báo của Nhân-chứng bị cấm, tôi đã có thể giúp đỡ những người bạn mới của tôi. Mỗi khi một thùng sách nhỏ Peace—Can It Last? được gởi đến, hội thánh giao cho tôi để cất vào nơi kín đáo. Ai mà nghĩ tới việc khám xét trại lính để tìm sách báo bị cấm? Mỗi lần đi dự buổi họp, tôi mang theo một vài cuốn sách mỏng để tiếp tế cho anh em. Tôi còn cất giấu giùm sách báo về Kinh-thánh của riêng họ khi họ sợ có người đến nhà khám xét. Rốt cuộc, vào ngày 11-12-1944, lệnh cấm được bãi bỏ.

Sự trung thành của tôi với các sự dạy dỗ của đạo đấng Christ bị thử thách vào Lễ Giáng Sinh năm 1943, khi dịp lễ này được tổ chức cho toán quân đặc nhiệm của tôi. Tôi từ chối tham gia vì biết được rằng Chúa Giê-su đã không sanh ra vào tháng 12 lạnh lẽo và các tín đồ đấng Christ thời ban đầu đã không ăn mừng Lễ Giáng Sinh. (So sánh Lu-ca 2:8-12).

Khi hội nghị “Những người thông báo hợp nhất” được tổ chức ở thành phố Jubbulpore (Jabalpur) vào ngày 27 đến 31-12-1944, tôi đã có mặt trong số 150 người tham dự. Nhiều người đi từ Delhi đến hội nghị bằng xe lửa, một chuyến đi dài hơn 600 cây số. Tôi sẽ không bao giờ quên được bầu không khí tuyệt vời trong khung cảnh ngoài trời đó; nơi mà tôi đã chứng kiến tổ chức của Đức Giê-hô-va tiến hành công việc.

Những đại biểu của hội nghị trú ngụ trong các phòng ngủ tập thể của trường học, ở đây chúng tôi hát các bài hát Nước Trời và vui vẻ chuyện trò với những tín đồ đấng Christ khác. Tại hội nghị ấy tôi bắt đầu tham gia công việc rao giảng công cộng, một công việc mà tôi hằng quí trọng.

Làm thánh chức trọn thời gian ở nước Anh

Tôi trở về nước Anh vào năm 1946 và ít lâu sau tôi bắt đầu kết hợp với Hội thánh Wolverton. Mặc dù chỉ có khoảng mười người công bố Nước Trời, nhưng họ đã làm tôi cảm thấy thoải mái tự nhiên và tôi mãn nguyện giống như khi tôi ở giữa những anh em ở nước Ấn Độ. Vera Clifton nổi bật trong hội thánh về đức tính chân thật và sự nhiệt tâm của chị. Khi tôi được biết chị ấy có cùng một ước muốn như tôi trở thành người tiên phong, tên gọi những người truyền giáo trọn thời gian, chúng tôi đã lấy nhau vào ngày 24-5-1947. Tôi sửa sang lại chiếc xe moóc, tức nhà lưu động, và qua năm sau thì chúng tôi nhận được khu vực đầu tiên để làm tiên phong, thị trấn Hungtingdon ở vùng nông thôn.

Vào thời đó chúng tôi lên đường vào buổi sáng bằng xe đạp, đi đến khu vực nông thôn. Chúng tôi rao giảng suốt ngày, chỉ ngừng một chút để ăn trưa. Dù gió ngược thổi mạnh hoặc mưa lớn tới đâu khi chúng tôi đạp xe về nhà, chúng tôi luôn vui vẻ và thỏa mãn trong công việc của Chúa.

Với thời gian, chúng tôi ao ước nới rộng thánh chức của mình và chia sẻ “tin mừng” với những người thuộc các nước khác (Ma-thi-ơ 24:14, NW). Vì vậy, chúng tôi nộp đơn xin học trường giáo sĩ Ga-la-át ở South Lansing, Nữu Ước, Hoa Kỳ. Cuối cùng, chúng tôi được nhận vào khóa 26 trường Ga-la-át và tốt nghiệp vào tháng 2 năm 1956.

Thánh chức được nới rộng ở Phi Châu

Chúng tôi được bổ nhiệm làm giáo sĩ ở Northern Rhodesia (bây giờ là Zambia) thuộc Phi Châu. Chẳng bao lâu sau khi đến đó, chúng tôi được gọi vào làm việc trong nhà Bê-tên ở nước ấy. Một phần công việc của tôi trong nhà Bê-tên là chăm lo thư từ với các hội thánh ở Đông Phi. Vào năm 1956, nước Kê-ni-a—một trong các quốc gia thuộc Đông Phi—chỉ có bốn Nhân-chứng, trong khi đó thì nước Northern Rhodesia lại có hơn 24.000 Nhân-chứng. Tôi và Vera bắt đầu nghĩ được phụng sự ở nơi có nhu cầu lớn hơn thì tốt biết bao.

Rồi, bất ngờ tôi lại được mời đi học Trường Ga-la-át, lần này đi dự một khóa dài mười tháng dành cho các giám thị. Để Vera ở lại Northern Rhodesia, tôi đến thành phố Nữu Ước, nơi mà Trường Ga-la-át tọa lạc vào thời đó. Sau khi mãn khóa vào tháng 11 năm 1962, tôi được chỉ định đến Kê-ni-a để thiết lập một trụ sở chi nhánh ở đó. Vào lúc này, nước Kê-ni-a có hơn một trăm Nhân-chứng.

Lẽ ra trên đường trở lại Northern Rhodesia để gặp Vera, tôi chỉ phải dừng lại một thời gian ngắn ở Nairobi, Kê-ni-a. Nhưng khi đến đây thì Bill Nisbet là người tốt nghiệp trường Ga-la-át khóa 25, đến gặp tôi và cho tôi biết là hiện có cơ hội để xin giấy phép nhập cảnh để vào Kê-ni-a ngay lập tức. Chúng tôi đi đến cơ quan di trú và trong vòng vài phút, tôi xin được giấy phép làm việc năm năm. Cho nên tôi đã không trở lại Northern Rhodesia; thay vì thế, Vera đi đến Nairobi để đoàn tụ với tôi.

Sau khi học xong một khóa ngôn ngữ tiếng Swahili soạn riêng cho chúng tôi, chúng tôi tham gia thánh chức với một hội thánh nhỏ ở Nairobi. Đôi lúc, sau khi chúng tôi đọc xong lời trình bày bằng tiếng Swahili, người chủ nhà thốt lên: “Tôi không hiểu tiếng Anh!” Dù vậy, chúng tôi kiên trì và dần dần đã vượt qua trở ngại về ngôn ngữ này.

Khu vực rao giảng của chúng tôi gồm có những khu vực lớn toàn là nhà ở có những tên Kinh-thánh như Giê-ru-sa-lem và Giê-ri-cô. Người ta nhanh chóng chú ý lẽ thật và có nhiều người ở những khu vực này đã trở thành người công bố Nước Trời. Lẽ thật về Kinh-thánh tác động đến những người này một cách đáng chú ý làm sao! Những cảm nghĩ tự tôn giữa các bộ lạc biến mất khi sự trung thành với Nước Trời mang lại sự đoàn kết cho dân Đức Giê-hô-va. Thậm chí những Nhân-chứng từ các bộ lạc khác nhau đã lấy nhau, đây là một điều hiếm thấy giữa những người không phải là Nhân-chứng.

Những người mới rao giảng về Nước Trời nhận lẽ thật với lòng sốt sắng. Ví dụ, Samson mong mỏi cho lẽ thật Kinh-thánh lan truyền đến khu vực anh ở đến nỗi anh cứ yêu cầu anh em phái những người tiên phong đến đó. Thật vậy, anh nới rộng căn nhà của anh ở vùng Ukambani để dùng làm chỗ ở cho họ. Chẳng bao lâu, một hội thánh mới gồm những người rao giảng về Nước Trời đã được thành lập ở đó.

Nhiều lần tôi đến thăm các anh em ở nước Ê-thi-ô-bi thuộc Đông Phi. Họ dành ra trung bình hơn 20 tiếng mỗi tháng để làm thánh chức, dù bị bỏ tù, đánh đập, và bị theo dõi thường xuyên. Có một lần, hai chiếc xe buýt chở đầy các anh chị em người Ê-thi-ô-bi đi cả tuần, vượt qua các đèo núi hiểm trở, để đến dự một hội nghị địa hạt ở Kê-ni-a. Họ bày tỏ tính tháo vát khác thường trong việc sắp xếp để có sách báo về Nước Trời trong xứ họ. Ở Kê-ni-a chúng tôi vui sướng được giúp họ có sách báo đầy đủ.

Vào năm 1973, chính quyền ra lệnh cấm không cho rao giảng ở Kê-ni-a, và các giáo sĩ bị buộc phải rời nước. Lúc ấy có hơn 1.200 Nhân-chứng ở Kê-ni-a, và chúng tôi không quên được cảnh tượng là có rất nhiều người đã đến phi trường để tiễn đưa chúng tôi. Sự có mặt đông đảo của họ khiến cho một hành khách khác hỏi xem chúng tôi có phải là những người nổi tiếng nào đó chăng. Tôi và Vera trở về nước Anh và được giao cho một công việc ở đó, nhưng chúng tôi mong mỏi được trở lại Phi Châu.

Trở lại Phi Châu

Vì thế, một vài tháng sau, chúng tôi nhận được một công việc mới trong nhà Bê-tên ở Accra, thủ đô của xứ Ga-na ở miền tây Phi Châu. Một trong những công việc ở đây khiến tôi đối diện với những gian khổ mà các anh em chúng ta ở đó gặp phải. Khi chăm lo công việc mua thực phẩm và đồ dùng cho gia đình nhà Bê-tên, giá thực phẩm đắt đỏ làm tôi sửng sốt. Thông thường một người không thể nào mua được những món cần thiết. Sự thiếu hụt về dầu xăng và sự khan hiếm về phụ tùng gây ra nhiều vấn đề khác.

Tôi hiểu được tầm quan trọng của tính kiên nhẫn, một đức tính mà các anh em người Ga-na đã vun trồng. Thật là khích lệ được nhìn thấy họ giữ thái độ vui vẻ trong khi chống lại sự cám dỗ là hối lộ để có được những thứ cần thiết cho đời sống. Vì vậy, dân Đức Giê-hô-va ở Ga-na được nhiều người biết đến là có tính lương thiện và họ có một tiếng tốt đối với nhiều viên chức.

Tuy nhiên, dù có sự thiếu thốn về vật chất, sự thịnh vượng về mặt thiêng liêng của họ ngày một gia tăng. Trên khắp xứ, hầu như trong mọi nhà đều có các ấn phẩm giải thích Kinh-thánh của chúng ta. Và chúng tôi đã chứng kiến số những người rao giảng Nước Trời ở Ga-na gia tăng từ 17.156 vào năm 1973 khi chúng tôi mới tới, lên đến hơn 23.000 vào năm 1981. Vào năm đó tôi bị bệnh ung thư da, chắc hẳn những năm tháng dãi nắng ở Ấn Độ và Phi Châu đã làm cho bệnh trầm trọng thêm, và vì vậy chúng tôi phải rời Ga-na và trở về nước Anh để được trị bệnh đều đặn.

Hoàn cảnh mới ở Anh Quốc

Việc trở về đối với tôi có nghĩa là một sự thay đổi lớn trong việc rao giảng. Tôi đã quen nói chuyện một cách dễ dàng với những người kính trọng Đức Chúa Trời và Kinh-thánh. Nhưng ở Luân Đôn, tôi hiếm khi thấy ai có thái độ như thế. Tôi thán phục tính kiên trì của các anh em ở nước Anh. Điều này đã làm tôi nhận thấy cần phải có lòng thấu cảm hơn đối với những người “cùng-khốn và tan lạc” về mặt thiêng liêng (Ma-thi-ơ 9:36).

Sau khi từ Phi Châu trở về, tôi và Vera cùng nhau phụng sự tại nhà Bê-tên ở Luân Đôn cho đến lúc vợ tôi qua đời vào tháng 9 năm 1991, hưởng thọ 73 tuổi. Cuộc sống không dễ khi tôi mất đi một người bạn trung thành làm việc sát cánh bên nhau biết bao nhiêu năm trong thánh chức. Tôi nhớ Vera rất nhiều. Nhưng tôi vui nhờ có sự khích lệ tốt lành của 250 thành viên trong gia đình Bê-tên.

Tôi thật sự xem mình là có đặc ân khi được chứng kiến sự tiến triển của tổ chức Đức Giê-hô-va và nhìn thấy nhiều người chọn lối sống làm thánh chức trọn thời gian. Tôi có thể quả quyết với các bạn rằng không có một lối sống nào tốt hơn lối sống này, vì “Đức Giê-hô-va... không từ bỏ những người trung thành với ngài” (Thi-thiên 37:28, NW).

[Hình nơi trang 23]

Chúng tôi làm tiên phong ở nước Anh từ năm 1947 đến năm 1955

[Hình nơi trang 23]

Lần đầu tiên đi rao giảng vào kỳ hội nghị ở Ấn Độ

[Hình nơi trang 23]

Khi chúng tôi làm giáo sĩ ở Northern Rhodesia

[Hình nơi trang 23]

Vào năm 1985 với những bạn bè sau 12 năm xa cách

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ