THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w19 tháng 07 trg 25-29
  • Ân phước của Đức Giê-hô-va vượt quá mọi sự mong đợi

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Ân phước của Đức Giê-hô-va vượt quá mọi sự mong đợi
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2019
  • Tiểu đề
  • Tài liệu liên quan
  • VƯỢT QUA TÍNH NHÚT NHÁT
  • MỘT BÀI HỌC VÔ GIÁ TỪ TRƯỜNG GA-LA-ÁT
  • MỘT SỰ HUẤN LUYỆN TUYỆT VỜI DÀNH CHO GIÁO SĨ
  • PHỤNG SỰ Ở KENYA
  • GẶT HÁI ÂN PHƯỚC Ở ETHIOPIA
  • ĐỨC GIÊ-HÔ-VA LÀM CHO LỚN LÊN
  • Những bất ngờ đầy vui mừng và bài học từ việc phụng sự Đức Giê-hô-va
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2023
  • Nhờ sức Đức Chúa Trời, chúng tôi không thoái lui
    Câu chuyện cuộc đời của Nhân Chứng Giê-hô-va
  • Cả cuộc đời học từ Đấng Dạy Dỗ Vĩ Đại
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2025
  • Đức Giê-hô-va biểu lộ sự thành tín
    Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1997
Xem thêm
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va (Ấn bản học hỏi)—2019
w19 tháng 07 trg 25-29
Anh Manfred và chị Gail Tonak trong ngày cưới

KINH NGHIỆM

Ân phước của Đức Giê-hô-va vượt quá mọi sự mong đợi

Do anh Manfred Tonak kể lại

Tôi băn khoăn: “Chắc mình nên làm tiên phong, nhưng làm tiên phong có vui không?”. Tôi rất thích việc mà mình đang làm tại Đức. Công việc của tôi là xuất khẩu thực phẩm đến nhiều nơi ở châu Phi, chẳng hạn như Dar es Salaam, Elisabethville và Asmara. Tôi không bao giờ nghĩ là nhiều năm sau, tôi lại phụng sự Đức Giê-hô-va trọn thời gian ở những nơi này và nhiều nơi khác khắp châu Phi!

Khi nỗi băn khoăn của tôi được giải tỏa và tôi bắt đầu làm tiên phong, một cánh cửa mở ra cho cuộc đời tôi và mang lại ân phước vượt quá mọi sự mong đợi (Ê-phê 3:20). Nhưng điều ấy xảy ra như thế nào? Tôi xin kể lại từ đầu.

Tôi sinh ra ở Berlin, Đức, chỉ vài tháng sau khi Thế Chiến II bùng nổ vào năm 1939. Khi chiến tranh sắp chấm dứt vào năm 1945, Berlin bị những trận bom trên không oanh tạc. Trong một lần, khu phố của chúng tôi bị đánh bom nên cả gia đình tôi phải chạy đến hầm tránh bom. Sau đó để được an toàn, chúng tôi chuyển đến Erfurt, là nơi sinh của mẹ tôi.

Anh Manfred Tonak cùng cha mẹ và em gái tại Đức, khoảng năm 1950

Với cha mẹ và em gái tại Đức, khoảng năm 1950

Mẹ tôi rất sốt sắng tìm kiếm chân lý. Bà đọc sách của nhiều triết gia và tìm hiểu nhiều tôn giáo nhưng không được thỏa mãn về tâm linh. Vào khoảng năm 1948, có hai Nhân Chứng Giê-hô-va đến gõ cửa nhà chúng tôi. Mẹ mời họ vào nhà và đặt hết câu hỏi này đến câu hỏi khác. Chưa đầy một tiếng sau, mẹ nói với tôi và em gái rằng “Mẹ đã tìm thấy chân lý!”. Không lâu sau, mẹ, em gái và tôi bắt đầu tham dự nhóm họp ở Erfurt.

Năm 1950, chúng tôi trở về Berlin. Tại đây, chúng tôi kết hợp với hội thánh Berlin-Kreuzberg. Rồi chúng tôi lại chuyển đến sống ở vùng khác, chúng tôi nhóm cùng hội thánh Berlin-Tempelhof. Sau này, mẹ tôi báp-têm, nhưng tôi thì còn lưỡng lự. Tại sao?

VƯỢT QUA TÍNH NHÚT NHÁT

Tôi chậm tiến bộ vì quá nhút nhát. Dù đã tham gia thánh chức, nhưng trong hai năm tôi không dám chia sẻ câu nào. Tôi đỡ nhút nhát hơn khi kết hợp với các anh chị đã chứng tỏ lòng can đảm và sùng kính dành cho Đức Giê-hô-va. Một số anh chị đã bị bỏ tù trong trại tập trung thời Quốc Xã hoặc các nhà tù ở Đông Đức. Những anh chị khác thì liều mình để chuyển ấn phẩm sang Đông Đức. Gương của họ đã để lại ấn tượng sâu sắc cho tôi. Tôi tự nhủ rằng nếu các anh chị ấy đã sẵn sàng liều mình vì Đức Giê-hô-va và anh em thì mình cũng nên can đảm một chút.

Tôi dần khắc phục được tính nhút nhát khi tham gia một đợt rao giảng đặc biệt vào năm 1955. Trong lá thư được đăng trong tờ Informant,a anh Nathan Knorr thông báo rằng đợt rao giảng đó sẽ là một trong những sự kiện lớn nhất được tổ chức. Anh ấy cho biết nếu tất cả các anh chị công bố đều tham gia, “chúng ta sẽ có một tháng làm chứng tuyệt vời nhất từ trước đến nay”. Quả đúng như vậy! Không lâu sau, tôi dâng mình cho Đức Giê-hô-va, và vào năm 1956, tôi cùng cha và em gái báp-têm. Nhưng ít lâu sau, tôi đứng trước một quyết định quan trọng khác.

Trong nhiều năm, tôi biết rằng công việc tiên phong mới là sự nghiệp mà mình cần theo đuổi, nhưng tôi cứ trì hoãn. Lúc đầu, tôi quyết định học nghề kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa ở Berlin. Tôi muốn làm trong ngành này một thời gian để tích lũy kinh nghiệm và thành thạo về chuyên môn. Vì thế, năm 1961, tôi nhận một công việc tại Hamburg, thành phố cảng lớn nhất nước Đức. Càng miệt mài trong công việc, tôi càng trì hoãn việc phụng sự trọn thời gian. Tôi sẽ làm gì?

Tôi vô cùng biết ơn Đức Giê-hô-va vì ngài đã dùng những anh đầy lòng quan tâm giúp tôi đặt ưu tiên cho điều thiêng liêng. Vài người bạn của tôi đã bắt đầu làm tiên phong và nêu gương tốt cho tôi. Ngoài ra, một anh sống sót qua trại tập trung tên là Erich Mundt đã khuyến khích tôi tin cậy Đức Giê-hô-va. Anh ấy nói rằng trong trại tập trung, những anh dựa vào bản thân sau này đã bị yếu về thiêng liêng. Nhưng những anh hoàn toàn tin cậy Đức Giê-hô-va thì giữ trung thành và trở thành trụ cột của hội thánh.

Anh Manfred Tonak năm 1963

Thời điểm tôi bắt đầu làm tiên phong, năm 1963

Ngoài ra, anh Martin Poetzinger, sau này là thành viên Hội đồng Lãnh đạo, cũng luôn khích lệ anh em rằng “Sự can đảm là tài sản quý giá nhất mà anh chị có thể có!”. Sau khi suy ngẫm những lời này, cuối cùng tôi quyết định nghỉ việc và bắt đầu làm tiên phong vào tháng 6 năm 1963. Đây là quyết định tuyệt vời nhất! Hai tháng sau, trước khi phải đi tìm việc mới, tôi được mời làm tiên phong đặc biệt. Sau vài năm, Đức Giê-hô-va ban ân phước ngoài sự mong đợi của tôi. Tôi được mời tham dự khóa 44 của Trường Ga-la-át.

MỘT BÀI HỌC VÔ GIÁ TỪ TRƯỜNG GA-LA-ÁT

Một trong những bài học quý giá nhất mà tôi học được, đặc biệt từ anh Nathan Knorr và anh Lyman Swingle, đó là khi phụng sự trong nhiệm sở thì “Đừng vội bỏ cuộc”. Các anh ấy khuyến khích chúng tôi tiếp tục bền bỉ trong nhiệm sở ngay cả khi khó khăn. Anh Knorr nói: “Anh chị sẽ tập trung vào điều gì? Bụi bặm, côn trùng, sự nghèo đói? Hay anh chị sẽ để ý đến cây cối, bông hoa và những khuôn mặt rạng rỡ? Hãy tập yêu thương người khác!”. Ngày nọ, khi anh Swingle làm bài giảng và giải thích lý do một số anh chị vội bỏ cuộc, anh đã rơm rớm nước mắt. Anh phải tạm ngưng bài giảng để bình tĩnh lại. Tôi được tác động mạnh mẽ và quyết tâm không làm cho Đấng Ki-tô và anh em trung thành của ngài thất vọng.—Mat 25:40.

Anh Manfred Tonak, anh Claude Lindsay và anh Heinrich Dehnbostel khi làm giáo sĩ ở Lubumbashi, Congo, năm 1967

Tôi, anh Claude và anh Heinrich khi làm giáo sĩ ở Lubumbashi, Congo, năm 1967

Khi chúng tôi nhận nhiệm sở, một số thành viên Bê-tên tò mò hỏi xem chúng tôi được bổ nhiệm đi đâu. Họ nói tốt về nhiệm sở của mỗi người, nhưng khi tôi nói rằng tôi sẽ đến Congo (Kinshasa) thì bỗng nhiên họ ngừng lại và chỉ nói vỏn vẹn một câu “Congo hả? Cầu xin Đức Giê-hô-va ở cùng anh!”. Thời đó, Congo (Kinshasa) xảy ra nhiều cuộc chiến và những cảnh giết chóc lẫn nhau. Nhưng tôi luôn ghi nhớ bài học mà mình đã học. Không lâu sau khi chúng tôi tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1967, anh Heinrich Dehnbostel, anh Claude Lindsay và tôi đến Kinshasa, thủ đô của Congo.

MỘT SỰ HUẤN LUYỆN TUYỆT VỜI DÀNH CHO GIÁO SĨ

Sau khi đến Kinshasa, chúng tôi học tiếng Pháp trong ba tháng. Sau đó, chúng tôi bay tới Lubumbashi (trước đây là Elisabethville), gần biên giới của Zambia, phía nam Congo. Chúng tôi chuyển đến sống tại một căn nhà ở trung tâm thành phố.

Vì phần lớn khu vực ở Lubumbashi chưa có người rao giảng, nên chúng tôi rất hào hứng khi là những người đầu tiên đến chia sẻ chân lý cho nhiều người ở đây. Không lâu sau, nhiều người chú ý đến mức chúng tôi không có đủ thời gian để học với mỗi người. Chúng tôi cũng làm chứng cho cảnh sát và viên chức chính quyền. Nhiều người rất tôn trọng Lời Đức Chúa Trời và công việc rao giảng của chúng tôi. Người dân ở đây chủ yếu nói tiếng Swahili, vì thế tôi và anh Claude Lindsay bắt đầu học ngôn ngữ ấy. Rồi sau đó, chúng tôi được bổ nhiệm đến hội thánh nói tiếng Swahili.

Dù có nhiều trải nghiệm thú vị nhưng chúng tôi cũng có những thử thách. Chúng tôi thường gặp những người lính say xỉn và có vũ khí, hoặc những cảnh sát hung hăng cáo buộc sai về chúng tôi. Ngày nọ, khi hội thánh chúng tôi đang nhóm họp tại nhà giáo sĩ, một nhóm cảnh sát được trang bị vũ khí xông vào và bắt chúng tôi về đồn cảnh sát. Họ để chúng tôi ngồi bệt trên sàn cho đến khoảng 10 giờ tối mới thả chúng tôi về.

Năm 1969, tôi được bổ nhiệm làm giám thị vòng quanh. Khi làm công việc này, có lúc tôi phải đi bộ quãng đường khá xa, băng qua những bãi cỏ cao ngút và lầy lội, là điều thường thấy ở châu Phi. Tại làng nọ, đêm nào gà mẹ và đàn con cũng nằm dưới gầm giường của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên tiếng gáy inh ỏi của gà mẹ, đánh thức tôi trước lúc rạng đông. Thật tuyệt vời khi nhớ lại những buổi tối được ngồi quanh đống lửa cùng với anh em và nói về những sự thật trong Kinh Thánh.

Một trong những thử thách lớn nhất mà tôi phải đương đầu là anh em giả hiệu, những người ủng hộ phong trào Kitawala.b Vài người đã len lỏi vào hội thánh, thậm chí còn giữ một số trách nhiệm. Nhiều người trong số đó, được ví như “đá ngầm”, đã bị những anh chị trung thành vạch trần (Giu 12). Cuối cùng, Đức Giê-hô-va tẩy sạch các hội thánh và đặt nền tảng cho sự phát triển đáng kinh ngạc.

Năm 1971, tôi được bổ nhiệm phụng sự tại văn phòng chi nhánh Kinshasa. Tôi được giao nhiều việc khác nhau, chẳng hạn như trả lời thư tín, xử lý phiếu đặt ấn phẩm và làm trong ban công tác. Ở Bê-tên, tôi học được cách tổ chức công việc tại một quốc gia rộng lớn với cơ sở hạ tầng hạn chế. Có những lần phải mất hàng tháng, thư mới đến được các hội thánh. Vì sau khi vận chuyển bằng đường hàng không, thư được chuyển bằng thuyền, nhưng sau đó lại bị mắc kẹt trong những đám bèo dày đặc. Dù vậy, công việc Nước Trời ở đó vẫn được thực hiện, bất kể khó khăn.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cách anh em ở đó chuẩn bị cho các hội nghị lớn dù không có nhiều kinh phí. Họ san các gò mối để làm bục, dùng cỏ voi làm vách và gối ngồi. Họ sử dụng tre làm khung, sậy để lợp mái và làm thành những chiếc bàn. Rồi họ dùng vỏ cây để cố định các khung. Tôi không thể không khâm phục những anh chị tài tình và kiên cường ấy. Tôi rất yêu mến họ, và nhớ họ nhiều khi chuyển đến nhiệm sở mới.

PHỤNG SỰ Ở KENYA

Năm 1974, tôi chuyển đến văn phòng chi nhánh ở Nairobi, Kenya. Có nhiều việc phải làm ở đó, vì chi nhánh Kenya hỗ trợ công việc rao giảng cho mười nước lân cận, trong đó có một số nước bị cấm đoán. Tôi thường được cử đến thăm những nước này, đặc biệt là Ethiopia, nơi mà anh em bị ngược đãi và đối mặt với nhiều thử thách cam go. Nhiều người trong số đó bị đối xử tàn nhẫn hoặc bị bỏ tù, thậm chí một số còn bị giết. Nhưng họ vẫn giữ lòng trung thành nhờ có mối quan hệ mật thiết với Đức Giê-hô-va và anh em đồng đạo.

Năm 1980, cuộc đời tôi bước sang trang mới khi kết hôn với Gail Matheson đến từ Canada. Hai chúng tôi học cùng một khóa trong Trường Ga-la-át. Chúng tôi giữ liên lạc với nhau qua thư từ. Lúc đó, Gail đang làm giáo sĩ ở Bolivia. Sau 12 năm, chúng tôi gặp lại nhau ở New York. Không lâu sau, chúng tôi kết hôn tại Kenya. Tôi rất biết ơn Gail vì cô ấy luôn có cái nhìn thiêng liêng và thỏa lòng với những gì mình có. Cho đến nay, cô ấy vẫn là người bạn đồng hành yêu quý của tôi.

Năm 1986, vợ chồng chúng tôi được bổ nhiệm làm công việc lưu động. Tôi vừa phục vụ trong Ủy ban Chi nhánh, vừa phụng sự trong đặc ân mới. Chúng tôi có cơ hội đến thăm nhiều nước do chi nhánh Kenya chăm sóc.

Anh Manfred Tonak nói bài giảng tại hội nghị ở Asmara, Eritrea, năm 1992

Trình bày bài giảng tại một hội nghị ở Asmara, năm 1992

Tôi nhớ rõ đợt chuẩn bị cho một hội nghị ở Asmara, Eritrea, vào năm 1992, là thời điểm công việc thờ phượng ở đó được tự do. Lúc ấy chúng tôi chỉ tìm được một trại nuôi gia súc không mấy đẹp mắt, thậm chí bên trong còn tồi tàn hơn cả bên ngoài. Nhưng vào ngày hội nghị, tôi vô cùng kinh ngạc khi anh em đã biến nơi đó thành một nơi xứng đáng cho việc thờ phượng Đức Giê-hô-va. Nhiều gia đình đã mang vải đến che những chỗ xấu xí. Chúng tôi đã có một hội nghị đầy hào hứng và vui mừng, tổng số người tham dự là 1.279.

Công việc lưu động là sự thay đổi lớn với chúng tôi vì chỗ ở rất khác nhau. Có lần chúng tôi ở trong biệt thự sang trọng nằm gần biển, lần khác chúng tôi ở trong ngôi nhà làm bằng tôn, và nhà vệ sinh cách đó hơn 100m. Nhưng dù phụng sự ở đâu, kỷ niệm mà chúng tôi nhớ nhất vẫn là những ngày bận rộn cùng tham gia thánh chức với các anh chị tiên phong và công bố sốt sắng. Khi nhận nhiệm sở khác, chúng tôi phải rời xa những người bạn thân thương, và chúng tôi nhớ họ rất nhiều.

GẶT HÁI ÂN PHƯỚC Ở ETHIOPIA

Trong những năm cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, công việc của chúng ta được hợp pháp hóa tại một số nước do chi nhánh Kenya chăm sóc. Vì thế, những nước này đã tách khỏi Kenya và thành lập văn phòng riêng. Năm 1993, chúng tôi được chỉ định đến phụng sự tại văn phòng ở Addis Ababa, Ethiopia, là nơi mà giờ đây công việc của chúng ta đã được tự do sau hàng thập kỷ hoạt động bí mật.

Anh Manfred và chị Gail Tonak ở Ethiopia, năm 1996

Làm công tác lưu động ở vùng nông thôn Ethiopia, năm 1996

Đức Giê-hô-va đã ban phước cho công việc ở Ethiopia. Nhiều anh chị ở đó làm tiên phong. Kể từ năm 2012, mỗi năm có hơn 20% người công bố làm tiên phong đều đều. Ngoài ra, các trường thần quyền cũng được tổ chức để cung cấp sự huấn luyện cần thiết, và hơn 120 Phòng Nước Trời đã được xây. Vào năm 2004, gia đình Bê-tên chuyển đến một cơ sở mới, và một Phòng hội nghị được xây trong khuôn viên của chi nhánh. Đây quả là ân phước đến từ Đức Giê-hô-va.

Trải qua nhiều năm, vợ chồng tôi có những tình bạn thân thiết với nhiều anh em ở Ethiopia. Sự nhân từ và nồng ấm của họ thật đáng quý. Gần đây, vì có vấn đề sức khỏe nên chúng tôi được bổ nhiệm về chi nhánh Trung Âu. Ở đó, chúng tôi được chăm sóc chu đáo, nhưng chúng tôi vẫn rất nhớ những người bạn ở Ethiopia.

ĐỨC GIÊ-HÔ-VA LÀM CHO LỚN LÊN

Chúng tôi thấy rất rõ cách Đức Giê-hô-va làm cho công việc của ngài phát triển (1 Cô 3:6, 9). Chẳng hạn, lúc chúng tôi làm chứng cho các thợ mỏ Rwanda đến Congo để tìm đồng, thì ở Rwanda chưa có người công bố nào. Hiện nay ở đó có hơn 30.000 anh chị. Năm 1967, Congo (Kinshasa) có khoảng 6.000 người công bố, giờ đây có khoảng 230.000 người, và năm 2018 có hơn một triệu người tham dự Lễ Tưởng Niệm. Tính tất cả các nước mà chi nhánh Kenya từng chăm sóc thì số người công bố đã gia tăng hơn 100.000 người.

Anh Manfred và chị Gail Tonak ngày nay

Hơn 50 năm trước, Đức Giê-hô-va đã dùng nhiều anh để giúp tôi tham gia thánh chức trọn thời gian. Dù hiện nay vẫn cảm thấy nhút nhát nhưng tôi học được rằng mình cần hoàn toàn tin cậy Đức Giê-hô-va. Những trải nghiệm ở châu Phi đã giúp tôi vun trồng tính kiên nhẫn và sự thỏa lòng. Vợ chồng tôi khâm phục những anh chị đã thể hiện lòng hiếu khách nổi bật, sự kiên cường và hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va. Tôi biết ơn sâu xa về lòng nhân từ bao la của ngài. Quả thật, những ân phước Đức Giê-hô-va ban vượt quá mọi sự mong đợi của tôi.—Thi 37:4.

a Sau này được gọi là Thánh Chức Nước Trời, hiện nay được thay thế bằng Lối sống và thánh chức—Chương trình nhóm họp.

b “Kitawala” đến từ một từ trong tiếng Swahili có nghĩa là “thống trị, điều khiển hoặc nắm quyền”. Đây là một phong trào chính trị được lập ra nhằm giành độc lập khỏi Bỉ. Những người thuộc nhóm Kitawala thu thập, nghiên cứu và chuyền cho người này người kia các ấn phẩm của Nhân Chứng Giê-hô-va, đồng thời bóp méo sự dạy dỗ trong Kinh Thánh để ủng hộ quan điểm chính trị, phong tục mê tín và lối sống vô luân của họ.

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ