THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN Tháp Canh
Tháp Canh
THƯ VIỆN TRỰC TUYẾN
Việt
  • KINH THÁNH
  • ẤN PHẨM
  • NHÓM HỌP
  • w92 15/11 trg 19-23
  • Các hải đảo Ấn Độ Dương nghe tin mừng

Không có video nào cho phần được chọn.

Có lỗi trong việc tải video.

  • Các hải đảo Ấn Độ Dương nghe tin mừng
  • Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1992
  • Tiểu đề
  • Trạm ngừng thứ nhất—Đảo Rodrigues
  • Quần đảo Seychelles xa xôi
  • Trở lại đảo Réunion
  • Mayotte—Hải đảo thơm ngát
Tháp Canh Thông báo Nước của Đức Giê-hô-va—1992
w92 15/11 trg 19-23

Các hải đảo Ấn Độ Dương nghe tin mừng

CÁC hải đảo Rodrigues, Mauritius, Réunion, Seychelles, Mayotte và Comoros được sắp theo hình cung ngoài khơi đảo Madagascar và chiếm một diện tích hơn 3,9 triệu cây số vuông ở phía tây Ấn Độ Dương. Dù có diện tích rộng như thế các đảo này chỉ gồm khoảng 7.300 cây số vuông đất liền. Với dân số 2,3 triệu, các đảo này nằm trong số những hải đảo đông dân cư nhất trên thế giới.

Ngày nay, trong số dân cư này có khoảng 2.900 Nhân-chứng Giê-hô-va hăng say rao giảng tin mừng về Nước Đức Chúa Trời cho mọi người trên đảo. Vì vị thế cô lập, các Nhân-chứng rất quí trọng những cuộc viếng thăm của các giám thị lưu động và những hội nghị hàng năm do chi nhánh của Hội Tháp Canh (Watch Tower Society) có trụ sở đặt tại Vacoa, Mauritius, tổ chức. Vào những dịp đó họ được thưởng thức ý nghĩa câu Ê-sai 42:10: “Các ngươi là kẻ đi biển cùng mọi vật ở trong biển, các cù-lao cùng dân-cư nó, hãy hát bài ca-tụng mới cho Đức Giê-hô-va, hãy từ nơi đầu-cùng đất ngợi-khen Ngài”.

Gần đây những người đại diện của trụ sở chi nhánh đi đến các đảo để thăm viếng các hội-thánh và tổ chức hội nghị một ngày với chủ đề dựa theo I Phi-e-rơ 1:15: “Anh em cũng phải thánh trong mọi cách ăn-ở mình”. Muốn đi thăm viếng hết vùng đại dương rộng lớn thì người ta thường phải dùng máy bay—đôi khi dùng máy bay phản lực khổng lồ, nhưng lắm khi thì dùng máy bay cánh quạt nhỏ. Ngoài ra, người ta cũng dùng những tàu buồm lớn và nhỏ. Bây giờ, xin mời các bạn hãy cùng chúng tôi đi viếng thăm các hải đảo xa xôi vùng Ấn Độ Dương để xem họ nghe tin mừng như thế nào!

Trạm ngừng thứ nhất—Đảo Rodrigues

Sau một giờ rưỡi bay từ đảo Mauritius chúng tôi nhận ra bãi san hô. Bãi này làm vòng ngoài của một cái vũng nước mặn lớn bao quanh một đốm đất nhỏ giữa lòng Ấn Độ Dương. Đảo Rodrigues là trạm ngừng đầu tiên của chúng tôi.

Phi trường được xây cất trên bãi san hô nhô ra từ đất liền, ấy là mũi Coraille. Nơi đây san hô dày đến độ người ta có thể cưa ra từng tảng để dùng vào việc xây cất. Trên con đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, chiếc xe nhỏ chở chúng tôi từ phi trường ra thành phố lớn Port Maturin. Tại một chỗ nọ, chúng tôi có thể nhìn thấy được những bãi san hô, vũng nước mặn và lằn duyên hải đầy đá ở bên kia đảo. Mùa mưa mới vừa chấm dứt, một lớp cỏ dày bao phủ các sườn đồi và rải rác đây đó bò, chiên và dê đang ăn cỏ.

Hội nghị đặc biệt một ngày của chúng tôi diễn ra tại một Phòng Nước Trời nhỏ gọn thuộc trung tâm thành phố Port Maturin. Công việc rao giảng tại Rodrigues bắt đầu vào năm 1964 và hiện nay trong số 37.000 người dân có 36 người rao giảng tin mừng. Thật vui mừng khi thấy 53 người đến dự và có một thanh niên 18 tuổi làm báp têm. Tuy bị mù chữ, mẹ anh đã chấp nhận lẽ thật vào năm 1969 và vẫn còn tiếp tục phụng sự Đức Giê-hô-va dù bị gia đình chống đối. Hiện nay có 2 trong số các con bà đã dâng mình cho Đức Giê-hô-va.

Sau hội nghị chúng tôi ở lại một tuần trên đảo để rao giảng. Chúng tôi dùng tiếng Pháp thuộc địa (créole) Mauritius, thứ tiếng ấy cùng được dùng tại Rodrigues. Đáp một chuyến xe buýt và cuốc bộ một quãng đường, thế là chúng tôi đến khu vực rao giảng: một thung lũng xanh tươi uốn mình theo đường lộ từ miền đất cao xuống đến tận biển. Thật là một quang cảnh ngoạn mục: vũng nước mặn xanh biếc và bãi san hô trắng ngần chìm trong nền xanh đậm của đại dương! Vui mừng hít thở không khí dồi dào trong lành chúng tôi sẵn sàng tiến bước.

Để đến những căn nhà nhỏ trong thung lũng chúng tôi đi theo con đường mòn của cánh đồng, băng qua băng lại con lạch nhỏ trong đầm lầy. Tại mỗi nơi chúng tôi được tiếp đón niềm nở và chúng tôi đã trình bày cho chủ nhà nghe về những ân phước gần kề của Nước Trời. Chẳng bao lâu chúng tôi đã xuống khá xa dưới thung lũng, và tới giờ phải quay trở về. Vậy là phải leo trèo và cuốc bộ thêm vài giờ nữa, những người bản xứ tỏ lòng hiếu khách, họ cho chúng tôi quá giang trên một chiếc xe díp.

Sau cuộc hành trình phấn khởi đó, chúng tôi rất hài lòng trở về nhà Bê-tên đẹp đẽ đầy đủ tiện nghi tại Vacoas. Hai hội nghị đặc biệt một ngày được tổ chức tại hội trường thành phố. Ngày thứ nhất có 760 người đến dự, đó là phân nửa của 12 hội-thánh trên đảo. Ngày thứ hai chúng tôi tham dự hội nghị với 786 người của 6 hội-thánh còn lại, và hai ngày cuối tuần có 4 người làm báp têm. Hiện nay có 30 người khai thác đặc biệt và 50 người khai thác đều đều đang rao giảng tin mừng cho dân trên đảo.

Quần đảo Seychelles xa xôi

Một lần nữa chúng tôi sắp sửa đáp máy bay hướng về 1.600 cây số phía bắc để đến đảo Mahé thuộc các quần đảo Seychelles. Tiếng Pháp thuộc địa gọi là Zil Elwanuyen Sesel có nghĩa là “các hải đảo Seychelles xa xôi”. Vì đường xá xa xôi nên chi nhánh của hội chỉ có thể phái người viếng thăm mỗi năm hai lần mà thôi. Hội nghị đặc biệt một ngày và hội nghị vòng quanh được tổ chức trong ba ngày liên tiếp vào mùa xuân, hội nghị địa hạt thì được tổ chức sau đó trong năm. Bây giờ là giữa tháng mười cho nên chúng tôi đến đây để dự hội nghị địa hạt, và tuần lễ thăm viếng hội-thánh kế tiếp theo đó. Một lần nữa nơi đây chúng tôi dùng tiếng Pháp thuộc địa Mauritius.

Các anh chị trên các đảo Praslin và La Digue gần đây đã đến nơi dự hội nghị. Thật là thú vị khi thấy có đại biểu của 12 sắc tộc khác nhau ở đây! Hội nghị được tổ chức tại Phòng Nước Trời địa phương, trước kia đây là ga-ra ở phía sau nhà của một Nhân-chứng. Bởi vì chỉ có 6 anh hội đủ điều kiện để nói bài giảng—trong số đó có những người đến thăm, nên vài người trong nhóm có dịp nói nhiều bài giảng trong bốn ngày hội nghị. 81 người tuyên bố rất sung sướng khi thấy 216 người đến dự vào ngày cuối của hội nghị.

Sau hội nghị chúng tôi đáp tàu buồm đến đảo Praslin cách Mahé 40 cây số về phía đông bắc. Chiếc tàu dài 18 mét được làm bằng gỗ cây tacamahac và có thể chuyên chở 50 hành khách và 36 tấn hàng hóa. Khi chúng tôi rời hải cảng Mahé và hướng mũi tàu về chuỗi đảo Praslin ở cuối chân trời thì chúng tôi cảm thấy sức đẩy của máy dầu cặn được tăng cường bởi những cánh buồm trắng căng gió của hai cột buồm.

Hai giờ rưỡi sau chúng tôi đi vòng mũi đất cao đầy đá để vào vịnh nước Saint Anne mỹ miều và yên tĩnh. Khi bước lên cầu bến tàu chúng tôi nhận ra các anh Nhân-chứng đến đón chúng tôi. Trên đảo nhỏ này có 13 người tuyên bố về Nước Trời và 8 người khách đến từ nơi khác, do đó điều rất khích lệ cho chúng tôi khi thấy có 39 người đến nghe bài diễn văn đặc biệt. Tiềm lực phát triển thật là khả quan!

Khi còn ở trên đảo Praslin chúng tôi phải viếng thăm thung lũng Mai tuyệt đẹp. Đây là nơi mà người ta chuyên trồng loại dừa biển trổ hạt giống to nhất thế giới, mỗi hạt có thể cân nặng đến 20 kí lô. Dưới bóng mát của rừng cây chúng tôi nhìn thấy những cây dừa lớn bé đủ cỡ. Người hướng dẫn du khách cho biết cây to nhất cao 31 mét được đo vào năm 1968. Người ta ước lượng tuổi của một số cây cao lớn này là độ chừng 800 năm. Cây bắt đầu sinh trái sau 25 năm và hạt thì 7 năm mới chín muồi. Ta chẳng ngạc nhiên trước lời chỉ dẫn của người hướng đạo: “Quí vị chỉ có thể chụp hình và chỉ để lại dấu chân mà thôi”.

Vào 7 giờ sáng hôm sau chúng tôi đáp tàu thủy đi đến đảo La Digue. Nhịp cầu giữa 2.000 dân đảo với thế giới bên ngoài là những chiếc tàu nhỏ đậu chung quanh cầu bến tàu. Một cặp vợ chồng trung tuần người Thụy Sĩ đến đón chúng tôi, họ đã sống trên các đảo này từ năm 1975. Thay vì đón xe “tắc-xi” do bò kéo, chúng tôi cuốc bộ dọc bờ biển đá hoa cương hồng mòn nhẵn bởi mưa và sóng biển. Sau bữa ăn sáng ngoài trời chúng tôi viếng thăm vài người chú ý đến Kinh-thánh, đi ngang qua một làng nhỏ, nơi có nhiều con chim sâu đen hiếm có sinh sôi nẩy nở. Mười ba người đến nhóm họp để nghe một bài giảng bằng tiếng Pháp thuộc địa. Chúng tôi có dịp gặp một cặp vợ chồng đã cố gắng hợp thức hóa tình trạng hôn nhân của họ để tiến bộ về mặt thiêng liêng. Quả thật ngay cả trên các hải đảo xa xôi Đức Giê-hô-va cũng đang thâu vào những sự đáng ao ước của các nước.

Trở lại đảo Réunion

Nội trong các đảo mà chúng tôi đặt chân tới trong chuyến đi này thì đảo Réunion là đảo được phát triển nhiều nhất. Khi đến gần đất liền chúng tôi thấy xa lộ bốn đường xe đầy nghẹt xe cộ từ thủ đô Saint-Denis đi ra. Còn những cao ốc thì chiếm lấy phần đất giữa biển và núi. Dân cư trên đảo lên đến 580.000 người và công việc rao giảng gặt hái được nhiều kết quả (Ma-thi-ơ 9:37, 38). Hiện thời tại đây có 2.000 tuyên bố hăng hái kết hợp với 21 hội-thánh.

Hội nghị đặc biệt một ngày được tổ chức tại một vận động trường có mái che. Chúng tôi vui mừng thấy 3.332 người đến tham dự và thật rất khích lệ khi thấy 67 người làm báp têm! Sau khi tiếp xúc với các giáo sĩ trên đảo, giờ đây chúng tôi lên đường đi nơi khác.

Mayotte—Hải đảo thơm ngát

Sau hai giờ bay, chiếc phi cơ 40 chỗ ngồi đáp xuống sân bay Pamanzi trên một đảo nhỏ được nối liền với thủ đô Dzaoudzi bởi một đường đê dài 1,9 cây số. Bầu trời thiên thanh, những đám mây trắng, cây lá xanh dờn trên sườn núi, và đại dương xanh biếc: tất cả hòa nhau vẽ nên một phong cảnh thanh bình của địa đàng vùng nhiệt đới. Với mùi hương thơm ngát của hoa ngọc lan tây, đảo Mayotte mang danh là hải đảo thơm ngát thật là đúng. Người ta lấy nhựa hoa ngọc lan tây và gửi về Pháp để biến chế dầu thơm nổi tiếng khắp thế giới.

Xuống sà lan để lên đảo chính chỉ mất 15 phút. Sau khi giải khát tại nhà giáo sĩ chúng tôi được mời dự buổi học cuốn sách phía bên kia đảo cách đó 19 cây số, thế là cuộc thăm viếng nhàn rỗi của chúng tôi kết thúc! Chúng tôi leo lên chiếc xe díp không mui lăn bánh trên những con đường hẹp khiến chúng tôi sởn tóc gáy. Nhiều lần chúng tôi có cảm tưởng xe sắp sửa cán người đi bộ, thú vật và đụng những xe khác, nhưng tài xế người Pháp của chúng tôi rất thạo đường. Chẳng bao lâu chúng tôi đến Chiconi và làm quen được với gia đình chứa buổi học cuốn sách.

Người cha, trước kia theo Hồi giáo, giới thiệu cho chúng tôi 8 người con của ông. Người con trai út 4 tuổi chào đón chúng tôi theo lối cổ truyền, mà sau này chúng tôi mới biết được. Em đã đặt lưng bàn tay vào lòng bàn tay kia và chụm lại chờ đợi chúng tôi. Thoạt đầu chúng tôi đưa tay ra bắt, sau đó vợ tôi cầm tay em đặt lên đầu mình. Em bé mở mắt tròn xoe ra kiên nhẫn chờ đợi, không hiểu chúng tôi đang làm gì đây. Cuối cùng chúng tôi đã hiểu ý—chúng tôi đặt hai bàn tay của em lên đầu em. Buổi học bắt đầu với 14 người tham dự. Giữa buổi học một người chú ý Kinh-thánh đến họp và bắt tay với mọi người. Điều này có lẽ cũng là một tục lệ địa phương.

Trong chuyến đi về nhà, bây giờ cảnh vật thôn quê đã tối, chúng tôi nhận ra những con dơi lớn ăn trái đang tìm những cây có trái để ăn đêm. Chúng tôi cũng ngửi thấy mùi thơm nồng của những trái mít rụng xuống trên con đường ngoằn ngoèo và mùi thơm phức của những trái soài, đu đủ và ổi. Đây là giang sơn của loài vượn cáo, một loài thú giống như vượn có mắt giống con cáo và đuôi dài, có khoan và cầm được. Khi lên đến đỉnh đồi chúng tôi chứng kiến một cảnh đẹp ngây ngất: trăng tròn màu đỏ cam vừa mới ló dạng lên trên vịnh, phản chiếu ánh sáng lung linh trên mặt nước lặng như tờ. Ngay cả người tài xế cũng chạy xe chậm lại để ngắm cảnh và cứ thế trên quãng đường còn lại, hễ mỗi lần đến một khúc quanh là chúng tôi quay đầu lại để tìm cảnh đẹp ấy.

Sáng hôm sau chúng tôi đi rao giảng với các giáo sĩ. Trước tiên chúng tôi viếng thăm một giáo viên trẻ tuổi nói rành tiếng Pháp. Anh ngồi trên sàn nhà và chúng tôi ngồi trên giường. Chúng tôi cũng học hỏi với một thanh niên khác, anh mời chúng tôi ngồi trên tấm nệm đặt trên sàn nhà của căn phòng nhỏ xíu. Sau một hồi chúng tôi trở chân, cố quên đi hai chân bị tê cóng và mồ hồi đang chảy xuống dọc theo xương sống. Buổi học diễn ra phân nửa bằng tiếng Pháp, phân nửa bằng tiếng mahor và không phải dễ tập trung tư tưởng vì máy ra-đi-ô của nhà bên cạnh vang rền lên những bản nhạc tân thời thịnh hành nhất.

Cuộc viếng thăm cuối cùng là một thanh niên gốc ở đảo Comoros gần đó. Anh xin lỗi vì không nói rành tiếng Pháp, anh lấy cuốn sách mỏng ra và sẵn sàng đọc. Trong khi giáo sĩ tiếp tục giải thích cho tôi này nọ, chàng thanh niên cắt ngang nói rằng anh bắt đầu đọc. Đó là cách lễ phép xin chúng tôi giữ im lặng. Tất cả những người này đều theo Hồi giáo nhưng rất quí trọng những gì họ học được trong Kinh-thánh.

Chúng tôi tự hỏi tại sao có nhiều thanh niên chịu học Kinh-thánh nhưng phái nữ lại không như thế. Người ta giải thích rằng ấy là hậu quả của truyền thống xã hội và gia đình. Tôn giáo và xã hội chấp nhận chế độ đa thê, do đó mỗi người vợ có nhà riêng. Ảnh hưởng của người cha rất ít nhưng chính người mẹ nắm trọn quyền trong nhà. Người ta còn giải thích rằng con gái thì theo tục lệ ở với mẹ cho đến khi lấy chồng. Mặt khác con trai rời gia đình trong tuổi dậy thì và tự dựng lấy banga (hoặc lều) cho chính mình hoặc đi ở chung với những người trai trẻ khác trong một banga. Với hoàn cảnh như thế các thanh niên được tự do học hỏi Kinh-thánh nếu muốn nhưng các thiếu nữ không được tự do như vậy.

Hội nghị đặc biệt một ngày diễn ra vào ngày Chủ nhật. Thời tiết ban đầu sáng sủa nhưng đến giữa trưa thì mây bắt đầu kéo đến và sau đó mưa đổ xuống như thác lũ. Không ai tỏ vẻ than phiền gì cả vì mưa đã đem lại chút mát mẻ. Một lần nữa chúng tôi chứng kiến sự phong phú thiêng liêng vì 36 người tuyên bố và khai thác vui mừng thấy có 83 người đến dự và có 3 người làm báp têm.

Sách mỏng Vui hưởng sự Sống đời đời trên Đất vừa mới được phát hành trong tiếng địa phương là một biến cố lớn. Đây không chỉ là ấn phẩm duy nhất của Hội Tháp Canh (Watch Tower Society) in bằng tiếng mahor, nhưng tới bây giờ đây cũng là ấn phẩm duy nhất trong thứ tiếng đó. Ấn phẩm này được viết bằng chữ La-mã với phụ đề chữ Á-rạp phía dưới. Ở trường học người ta dạy viết chữ Á-rạp nhưng không dạy nói tiếng Á-rạp. Họ cầu nguyện thuộc lòng bằng tiếng Á-rạp và đọc kinh Cô-ran viết bằng chữ Á-rạp, nhưng họ lại không hiểu họ đọc gì. Họ lấy làm ngạc nhiên nhận thấy họ hiểu được tiếng Á-rạp ghi trong sách mỏng. Những gì họ đọc thật ra là theo thứ tiếng mahor của họ nhưng được phiên âm ra thành chữ Á-rạp. Thật là vui khi thấy mắt họ sáng lóe lên khi họ hiểu được những gì họ đang đọc.

Rất dễ mời người ta nhận sách mỏng. Trong một làng xa xôi nọ, một người đàn ông đến gần chúng tôi trong lúc chúng tôi rao giảng cho một người đàn bà. Ông ta nói lớn tiếng với anh Nhân-chứng biết tiếng mahor, ông có vẻ rất chống đối. Và ông lớn tiếng giơ tay chỉ trỏ một hồi lâu. Anh kia sau đó giải thích cho chúng tôi biết rằng ông ta phàn nàn: “Làm sao các ông có thể làm cho chúng tôi nhớ được những điều các ông nói trong khi chỉ viếng thăm chúng tôi mỗi năm có một lần mà thôi? Các ông nỡ lòng nào? Các ông hãy đến thường xuyên và nói cho chúng tôi những điều này”.

Những lời của ông cũng nói lên cảm nghĩ của chúng tôi. Đức Giê-hô-va chắc hẳn đang gom góp những sự đáng ao ước của các nước qua tin mừng về Nước Trời. Tuy sống lẻ loi giữa đại dương, dân các hải đảo đang hợp tiếng để dâng lời ca tụng lên Đấng Tạo hóa cao cả và Cha trên trời là Đức Giê-hô-va (A-ghê 2:7).

[Bản đồ nơi trang 19]

(Để có thông tin đầy đủ, xin xem ấn phẩm).

ĐẢO SEYCHELLES

ẤN ĐỘ DƯƠNG

ĐẢO COMOROS

ĐẢO MAYOTTE

ĐẢO MADAGASCAR

ĐẢO MAURITIUS

ĐẢO RÉUNION

ĐẢO RODRIGUES

[Hình nơi trang 21]

Mũi đất cao nhiều đá ở Praslin trong vịnh Saint Anne

[Hình nơi trang 22]

Xe “tắc-xi” do bò kéo tại La Digue, Seychelles

[Hình nơi trang 23]

Rao giảng với sách mỏng mới tại Mayotte

    Ấn phẩm Tiếng Việt (1984-2026)
    Đăng xuất
    Đăng nhập
    • Việt
    • Chia sẻ
    • Tùy chỉnh
    • Copyright © 2025 Watch Tower Bible and Tract Society of Pennsylvania
    • Điều khoản sử dụng
    • Quyền riêng tư
    • Cài đặt quyền riêng tư
    • JW.ORG
    • Đăng nhập
    Chia sẻ