Đức Giê-hô-va cai trị—Qua thể chế Thần Quyền
“Đức Giê-hô-va sẽ cai-trị đời đời” (THI-THIÊN 146:10).
1, 2. a) Tại sao các cố gắng cai trị của loài người đều đã thất bại? b) Loại chính phủ duy nhất nào đã thật sự thành công?
TỪ THỜI Nim-rốt, người ta đã thử nhiều cách khác nhau để cai trị xã hội loài người như chế độ độc tài, quân chủ, chuyên chế và nhiều hình thức dân chủ. Đức Giê-hô-va đã cho phép mọi loại chính thể ấy. Thật ra, vì Đức Chúa Trời là Nguồn gốc tột đỉnh của quyền hành, theo một nghĩa nào đó Ngài đặt các nhà cai trị khác nhau trong địa vị tương đối của họ (Rô-ma 13:1). Tuy thế, mọi cố gắng của loài người trong việc cai trị đều đã thất bại. Không một nhà lãnh đạo nào thiết lập được một xã hội lâu bền, vững chắc và công bình. Nhưng thường thì “người nầy cai-trị trên người kia mà làm tai-hại cho người ấy” (Truyền-đạo 8:9).
2 Điều này có làm chúng ta ngạc nhiên không? Dĩ nhiên là không! Loài người bất toàn không được tạo nên để tự cai trị lấy. “Loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn-đưa bước của mình” (Giê-rê-mi 10:23). Đó là lý do tại sao trong suốt lịch sử nhân loại, chỉ có một chính thể duy nhất đã thật sự thành công. Chính thể nào? Đó là thể chế thần quyền, tức sự cai trị của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Trong tiếng Hy Lạp của Kinh-thánh, “thần quyền” có nghĩa sự cai trị [kraʹtos] bởi Đức Chúa Trời [the·osʹ]. Không có chính thể nào tốt hơn là chính thể do Giê-hô-va Đức Chúa Trời cai trị! (Thi-thiên 146:10).
3. Có một số thí dụ nào vào thời ban đầu về thể chế thần quyền được thực hiện trên đất?
3 Thể chế thần quyền đã được thi hành một thời gian ngắn trong vườn Ê-đen, cho đến khi A-đam và Ê-va phản lại Đức Giê-hô-va (Sáng-thế Ký 3:1-6, 23). Vào thời Áp-ra-ham, thể chế thần quyền dường như đã được thực thi trong thành Sa-lem, và Mên-chi-xê-đéc phục vụ với tư cách vua và thầy tế lễ (Sáng-thế Ký 14:18-20; Hê-bơ-rơ 7:1-3). Tuy nhiên, thể chế thần quyền trên cả một quốc gia dưới sự cai trị của Giê-hô-va Đức Chúa Trời được thành lập lần đầu tiên trong đồng vắng Si-na-i vào thế kỷ 16 TCN. Làm sao có được như vậy? Và thể chế thần quyền đó đã hoạt động như thế nào?
Một thể chế thần quyền được thành lập
4. Đức Giê-hô-va thành lập nước Y-sơ-ra-ên theo thể chế thần quyền như thế nào?
4 Vào năm 1513 TCN, Đức Giê-hô-va giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ tại Ê-díp-tô và hủy diệt quân binh của Pha-ra-ôn đang đuổi theo họ tại Biển Đỏ. Rồi Ngài dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến Núi Si-na-i. Khi họ cắm trại ở chân núi, Đức Chúa Trời nói qua trung gian Môi-se: “Các ngươi đã thấy đều ta làm cho người Ê-díp-tô, ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm sao, và dẫn các ngươi đến cùng ta thế nào. Vậy, bây giờ, nếu các ngươi vâng lời ta và giữ sự giao-ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi sẽ thuộc riêng về ta”. Dân Y-sơ-ra-ên đáp lại: “Chúng tôi xin làm mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán dặn” (Xuất Ê-díp-tô Ký 19:4, 5, 8). Đức Giê-hô-va lập giao ước với họ, và thể chế thần quyền ra đời (Phục-truyền Luật-lệ Ký 26:18, 19).
5. Tại sao chúng ta có thể nói là chính Đức Giê-hô-va cai trị dân Y-sơ-ra-ên?
5 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên được Đức Giê-hô-va, Đấng mà mắt trần không sao nhìn thấy, cai trị như thế nào? (Xuất Ê-díp-tô Ký 33:20). Đó là vì các luật pháp và hàng tế lễ của dân tộc được ban ra bởi Đức Giê-hô-va. Người nào tuân theo các luật lệ và thờ phượng theo những sắp đặt qui định bởi Đức Chúa Trời, chính là phụng sự Đấng Thần Quyền Vĩ Đại, tức Đức Giê-hô-va. Hơn nữa, thầy tế lễ thượng phẩm có U-rim và Thu-mim, nhờ đó Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho sự hướng dẫn trong những lúc khẩn cấp (Xuất Ê-díp-tô Ký 28:29, 30). Vả lại, những trưởng lão có khả năng đại diện cho Đức Giê-hô-va trong thể chế thần quyền, và họ lo về cách áp dụng Luật pháp của Đức Chúa Trời. Nếu xem xét kinh nghiệm của một số người này, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn việc loài người nên phục tùng quyền cai trị của Đức Chúa Trời.
Quyền hành dưới thể chế thần quyền
6. Tại sao loài người có quyền hành trong một thể chế thần quyền là cả một thử thách, và trọng trách này đòi hỏi loại người nào?
6 Những người có địa vị quyền hành trong Y-sơ-ra-ên có một đặc ân lớn lao, nhưng đó cũng là một thử thách để giữ thăng bằng. Họ phải cẩn thận không để cái “tôi” trở nên quan trọng hơn việc làm thánh danh Đức Giê-hô-va. Câu Kinh-thánh được soi dẫn nói rằng “người ta đi, chẳng có quyền dẫn-đưa bước của mình” tỏ ra đúng đối với dân Y-sơ-ra-ên cũng như đối với loài người nói chung. Dân Y-sơ-ra-ên được thịnh vượng chỉ khi nào các trưởng lão nhớ rằng nước Y-sơ-ra-ên theo một thể chế thần quyền và họ phải làm theo ý muốn Đức Giê-hô-va, chứ không làm theo ý riêng họ. Ít lâu sau khi nước Y-sơ-ra-ên được thành lập, cha vợ Môi-se là Giê-trô miêu tả các phẩm chất của họ như sau: “Người tài-năng, kính-sợ Đức Chúa Trời, chơn-thật, ghét sự tham lợi” (Xuất Ê-díp-tô Ký 18:21).
7. Về phương diện nào Môi-se là một gương tốt về một người có quyền hành dưới quyền Giê-hô-va Đức Chúa Trời?
7 Người đầu tiên có quyền hành đáng kể trong dân Y-sơ-ra-ên là Môi-se. Ông là gương tốt về nhân vật có quyền hành trong thể chế thần quyền. Đành rằng một lần nọ ông đã tỏ ra yếu đuối. Tuy nhiên, Môi-se luôn luôn nương cậy nơi Đức Giê-hô-va. Khi gặp vấn đề cần được giải quyết, ông tìm sự hướng dẫn của Đức Giê-hô-va. (So sánh Dân-số Ký 15:32-36). Làm sao Môi-se cưỡng lại cám dỗ dùng địa vị cao của mình để đem lại vinh dự cho chính mình? Dù ông lãnh đạo một nước gồm hàng triệu người, ông “rất khiêm-hòa hơn mọi người trên thế-gian” (Dân-số Ký 12:3). Ông không có tham vọng riêng tư, nhưng quan tâm đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Xuất Ê-díp-tô Ký 32:7-14). Và Môi-se có đức tin mạnh. Sứ đồ Phao-lô nói về ông trước khi ông trở thành lãnh tụ của cả một nước: “Người đứng vững như thấy Đấng không thấy được” (Hê-bơ-rơ 11:27). Rõ ràng, Môi-se không bao giờ quên rằng Đức Giê-hô-va là Đấng Cai Trị thật sự của nước Y-sơ-ra-ên (Thi-thiên 90:1, 2). Thật là một gương tốt cho chúng ta ngày nay!
8. Đức Giê-hô-va phán dặn Giô-suê điều gì, và tại sao điều này lại đáng chú ý?
8 Khi công việc quản trị dân Y-sơ-ra-ên trở nên quá nặng nhọc do chỉ một mình Môi-se gánh vác, Đức Giê-hô-va ban thánh linh cho 70 trưởng lão để trợ giúp ông trong việc xét đoán dân sự (Dân-số Ký 11:16-25). Trong những năm sau đó, mỗi thành có riêng trưởng lão. (So sánh Phục-truyền Luật-lệ Ký 19:12; 22:15-18; 25:7-9). Sau khi Môi-se chết, Đức Giê-hô-va bổ nhiệm Giô-suê làm lãnh tụ của nước Y-sơ-ra-ên. Hiển nhiên với đặc ân này, Giô-suê rất bận rộn. Tuy vậy, Đức Giê-hô-va bảo ông rằng có một điều ông chớ bao giờ quên làm: “Quyển sách luật-pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy-gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn-thận làm theo mọi đều đã chép ở trong” (Giô-suê 1:8). Hãy lưu ý, dù Giô-suê đã phục vụ hơn 40 năm, nhưng ông vẫn cần phải tiếp tục đọc Luật pháp. Chúng ta cũng cần học Kinh-thánh và tự nhắc nhở về các luật lệ và nguyên tắc của Đức Giê-hô-va—dù chúng ta đã phục vụ bao lâu hoặc có bao nhiêu đặc ân (Thi-thiên 119:111, 112).
9. Điều gì xảy ra trong nước Y-sơ-ra-ên vào thời các quan xét?
9 Sau Giô-suê, có một loạt các quan xét nối tiếp. Đáng buồn thay, trong thời đó dân Y-sơ-ra-ên thường “làm ác trước mặt Đức Giê-hô-va” (Các Quan Xét 2:11). Kinh-thánh nói về thời kỳ các quan xét: “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải” (Các Quan Xét 21:25). Mỗi người tự quyết định lấy về hạnh kiểm và cách thờ phượng, và lịch sử cho thấy rằng nhiều người Y-sơ-ra-ên đã quyết định sai lầm. Họ dần dần bắt đầu thờ hình tượng và đôi khi phạm các tội ghê gớm (Các Quan Xét 19:25-30). Tuy nhiên, một số người đã biểu lộ đức tin gương mẫu (Hê-bơ-rơ 11:32-38).
10. Chính phủ tại Y-sơ-ra-ên đã thay đổi hẳn thế nào trong thời Sa-mu-ên, và điều gì đã đưa đến sự thay đổi này?
10 Trong đời của quan xét chót là Sa-mu-ên, nước Y-sơ-ra-ên gặp khủng hoảng về quyền lãnh đạo. Vì bị ảnh hưởng bởi các nước thù nghịch xung quanh họ, hết thảy đều có vua cai trị, dân Y-sơ-ra-ên lý luận rằng họ cũng cần một vị vua. Họ quên rằng họ đã có một vị Vua rồi, rằng chính phủ của họ là một thể chế thần quyền. Đức Giê-hô-va nói cùng Sa-mu-ên: “Ấy chẳng phải chúng nó từ-chối ngươi đâu, bèn là từ-chối ta đó” (I Sa-mu-ên 8:7). Kinh nghiệm của họ cho thấy rằng chúng ta dễ mất đi quan điểm thiêng liêng và bị thế gian xung quanh tác động. (So sánh I Cô-rinh-tô 2:14-16).
11. a) Bất kể sự thay đổi về chính quyền, tại sao chúng ta có thể nói rằng dân Y-sơ-ra-ên vẫn là một thể chế thần quyền dưới các vị vua? b) Đức Giê-hô-va căn dặn các vị vua Y-sơ-ra-ên phải làm gì, và với mục đích gì?
11 Dầu vậy, Đức Giê-hô-va đã chấp nhận sự đòi hỏi của dân Y-sơ-ra-ên và chọn hai vị vua đầu tiên của họ là Sau-lơ và Đa-vít. Dân Y-sơ-ra-ên vẫn là một thể chế thần quyền, được Đức Giê-hô-va cai trị. Để ghi nhớ sự kiện này, mỗi vị vua phải tự chép lấy Luật pháp và đọc mỗi ngày, “để tập biết kính-sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cẩn-thận làm theo các lời của luật-pháp nầy, và hết thảy điều-răn nầy,—kẻo lòng vua lướt trên anh em mình” (Phục-truyền Luật-lệ Ký 17:19, 20). Đúng vậy, Đức Giê-hô-va muốn những người có quyền hành trong thể chế thần quyền chớ nên nâng mình lên cao và những hành động của họ phải phản ảnh Luật pháp của Ngài.
12. Vua Đa-vít có thành tích nào về lòng trung thành?
12 Vua Đa-vít có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Giê-hô-va, và Đức Chúa Trời lập giao ước rằng từ ông sẽ có một dòng dõi làm vua mãi mãi (II Sa-mu-ên 7:16; I Các Vua 9:5; Thi-thiên 89:29). Việc Đa-vít khiêm nhường phục tùng Đức Giê-hô-va đáng cho chúng ta noi theo. Ông nói: “Hỡi Đức Giê-hô-va, nhơn năng-lực Ngài, vua sẽ vui-mừng; tại vì sự cứu-rỗi Ngài, người sẽ khoái-lạc biết bao!” (Thi-thiên 21:1). Đôi khi Đa-vít tỏ ra thiếu sót vì sự yếu kém về xác thịt, nhưng ông luôn nhờ cậy nơi sức lực của Đức Giê-hô-va, chứ không phải nơi sức lực của chính mình.
Những hành vi và thái độ thiếu thần quyền
13, 14. Một số người nối ngôi Đa-vít đã hành động một cách thiếu thần quyền như thế nào?
13 Không phải mọi lãnh tụ Y-sơ-ra-ên đều giống như Môi-se và Đa-vít. Nhiều người trong vòng họ tỏ ra rất bất kính đối với sự sắp đặt thần quyền, cho phép sự thờ phượng giả trong Y-sơ-ra-ên. Ngay cả một số người lãnh đạo trung thành cũng có khi hành động một cách thiếu thần quyền. Trường hợp của Sa-lô-môn thật thảm khốc thay, ông được ban cho sự khôn ngoan và thịnh vượng dồi dào (I Các Vua 4:25, 29). Tuy nhiên, vì khinh thường luật pháp của Đức Giê-hô-va, ông cưới nhiều vợ và cho phép sự thờ hình tượng trong Y-sơ-ra-ên. Hiển nhiên, sự cai trị của Sa-lô-môn đã gây áp bức trong những năm sau cùng của triều đại ông (Phục-truyền Luật-lệ Ký 17:14-17; I Các Vua 11:1-8; 12:4).
14 Con của Sa-lô-môn là Rô-bô-am phải đối phó với một đòi hỏi: ông phải giảm bớt gánh nặng cho dân chúng. Thay vì giải quyết vấn đề một cách mềm mại, ông sử dụng quyền hành theo cách độc đoán của ông—và mất đi 10 trong 12 chi phái (II Sử-ký 10:4-17). Vị vua đầu tiên của 10 chi phái ly khai là Giê-rô-bô-am. Trong sự cố gắng để đảm bảo nước mình không bao giờ nhập lại với nước trước kia, ông lập ra sự thờ phượng bò con. Về mặt chính trị, hành động này có vẻ rất khéo léo, nhưng làm thế ông tỏ ra coi thường thể chế thần quyền một cách trắng trợn (I Các Vua 12:26-30). Sau đó, vào cuối một đời phụng sự trung thành lâu năm, Vua A-sa để cho sự kiêu ngạo bôi nhọ tiếng tốt của ông. Ông ngược đãi nhà tiên tri đến với ông để truyền lại lời khuyên của Đức Giê-hô-va (II Sử-ký 16:7-11). Vậy, ngay cả những người phụng sự Đức Chúa Trời lâu năm cũng cần lời khuyên bảo.
Thể chế thần quyền chấm dứt
15. Khi Chúa Giê-su ở trên đất, các nhà lãnh đạo Do Thái đã thất bại với tư cách những người có quyền hành trong một thể chế thần quyền như thế nào?
15 Khi Chúa Giê-su Christ ở trên đất, Y-sơ-ra-ên vẫn phục dưới thể chế thần quyền. Đáng buồn thay là nhiều trưởng lão có trách nhiệm trong Y-sơ-ra-ên không có thiêng liêng tính. Chắc chắn họ đã không vun trồng tính nhu mì mà Môi-se đã biểu lộ. Chúa Giê-su chỉ đến tình trạng thối nát về thiêng liêng của họ khi nói: “Các thầy thông-giáo và người Pha-ri-si đều ngồi trên ngôi của Môi-se. Vậy, hãy làm và giữ theo mọi đều họ đã bảo các ngươi; nhưng đừng bắt-chước việc làm của họ, vì họ nói mà không làm” (Ma-thi-ơ 23:2, 3).
16. Các nhà lãnh đạo Do Thái vào thế kỷ thứ nhất cho thấy họ không tôn trọng thể chế thần quyền như thế nào?
16 Sau khi nộp Chúa Giê-su cho Bôn-xơ Phi-lát, các nhà lãnh đạo Do Thái cho thấy rằng họ đã xa cách biết bao sự phục tùng thể chế thần quyền. Phi-lát tra hỏi Chúa Giê-su và kết luận rằng ngài vô tội. Đem Chúa Giê-su ra trước mặt người Do Thái, Phi-lát nói: “Vua các ngươi kia kìa!” Khi người Do Thái la hét đòi xử tử Chúa Giê-su, Phi-lát hỏi: “Ta sẽ đóng đinh Vua các ngươi lên thập-tự-giá hay sao?” Các thầy tế lễ cả trả lời: “Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi” (Giăng 19:14, 15). Họ nhìn nhận Sê-sa là vua, chứ không phải Chúa Giê-su, ‘Đấng nhơn danh Đức Giê-hô-va mà đến’! (Ma-thi-ơ 21:9).
17. Tại sao dân Y-sơ-ra-ên xác thịt không còn là một dân tộc theo thể chế thần quyền nữa?
17 Bằng cách từ chối Chúa Giê-su, người Do Thái đã từ bỏ thể chế thần quyền, vì ngài là nhân vật chính trong các sắp đặt thần quyền trong tương lai. Chúa Giê-su là con hoàng tộc thuộc dòng dõi Đa-vít, đấng sẽ trị vì đời đời (Ê-sai 9:5, 6; Lu-ca 1:33; 3:23, 31). Như vậy, dân Do Thái xác thịt không còn là dân được Đức Chúa Trời chọn nữa (Rô-ma 9:31-33).
Một chính phủ thần quyền mới
18. Chính phủ thần quyền mới nào được thành lập vào thế kỷ thứ nhất? Hãy giải thích.
18 Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời từ bỏ dân Y-sơ-ra-ên xác thịt, điều này không có nghĩa thể chế thần quyền chấm dứt mãi mãi trên đất. Qua Chúa Giê-su Christ, Đức Giê-hô-va thành lập một chính phủ thần quyền mới. Đây là hội thánh tín đồ đấng Christ được xức dầu, thật ra là một dân mới (I Phi-e-rơ 2:9). Sứ đồ Phao-lô gọi đó là “dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời”, sau cùng thần dân của nước này đến từ “mọi chi-phái, mọi tiếng, mọi dân-tộc, mọi nước” (Ga-la-ti 6:16; Khải-huyền 5:9, 10). Trong khi phục tùng các chính phủ loài người ở nơi họ sống, những thành viên của chính phủ thần quyền này thật sự được Đức Chúa Trời cai trị (I Phi-e-rơ 2:13, 14, 17). Ít lâu sau khi chính phủ thần quyền mới được thành lập, những nhà lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên xác thịt tìm cách ép buộc một số môn đồ ngưng vâng theo một điều răn của Chúa Giê-su. Họ đối đáp thế nào? “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công-vụ các Sứ-đồ 5:29). Đó đúng thật là quan điểm thần quyền!
19. Tại sao chúng ta có thể gọi hội thánh tín đồ đấng Christ vào thế kỷ thứ nhất là một tổ chức thần quyền?
19 Tuy nhiên, chính phủ thần quyền mới này hoạt động thế nào? Trong chính phủ này, có một vị Vua là Chúa Giê-su Christ, đại diện cho Đấng Thần Quyền Vĩ Đại, tức Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 1:13). Mặc dù vị Vua ở trên trời này vô hình, sự trị vì của ngài là thực tại đối với các thần dân của ngài, và lời ngài hướng dẫn đời sống họ. Về sự giám thị hữu hình, các trưởng lão có khả năng về mặt thiêng liêng được bổ nhiệm. Tại Giê-ru-sa-lem, một nhóm người như thế đã hoạt động với tư cách một hội đồng lãnh đạo. Các trưởng lão lưu động như Phao-lô, Ti-mô-thê và Tít đại diện cho hội đồng đó. Và mỗi hội thánh được một nhóm người thành thục, hay trưởng lão trông nom (Tít 1:5). Khi một vấn đề khó khăn xảy ra, các trưởng lão hỏi ý kiến hội đồng lãnh đạo hoặc một trong những người đại diện cho hội đồng, chẳng hạn như Phao-lô. (So sánh Công-vụ các Sứ-đồ 15:2; I Cô-rinh-tô 7:1; 8:1; 12:1). Hơn nữa, mỗi thành viên trong hội thánh đóng một vai trò trong việc ủng hộ thể chế thần quyền. Mỗi người phải chịu trách nhiệm trước mặt Đức Giê-hô-va về việc áp dụng các nguyên tắc Kinh-thánh trong đời sống (Rô-ma 14:4, 12).
20. Chúng ta có thể nói gì về thể chế thần quyền sau thời các sứ đồ?
20 Phao-lô cảnh cáo rằng sau khi các sứ đồ qua đời, sự bội đạo sẽ phát triển, và điều này đã thật sự xảy ra (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:3). Với thời gian, số người tự xưng theo đạo đấng Christ gia tăng đến hàng triệu người và rồi hàng trăm triệu người. Họ lập ra nhiều cách quản lý giáo hội khác nhau, chẳng hạn như hệ thống tôn ti, giáo hội trưởng lão và giáo đoàn tự trị. Tuy nhiên, hạnh kiểm cũng như sự tin tưởng của các giáo hội này không phản ảnh sự cai trị của Đức Giê-hô-va. Các giáo hội này không phải theo thể chế thần quyền!
21, 22. a) Đức Giê-hô-va đã khôi phục thể chế thần quyền trong thời cuối cùng như thế nào? b) Những câu hỏi nào về thể chế thần quyền sẽ được trả lời kế tiếp?
21 Trong thời kỳ cuối cùng của hệ thống mọi sự này, sẽ có sự phân chia tín đồ thật và tín đồ giả (Ma-thi-ơ 13:37-43). Điều này xảy ra vào năm 1919, một năm then chốt trong lịch sử của thể chế thần quyền. Vào lúc đó, lời tiên tri tuyệt diệu nơi Ê-sai 66:8 được ứng nghiệm: “Ai đã hề thấy sự gì giống như vậy? Nước há dễ sanh ra trong một ngày, dân-tộc há dễ sanh ra trong một chặp?” Câu trả lời cho các câu hỏi đó vang ra là: Có! Vào năm 1919, hội thánh tín đồ đấng Christ một lần nữa được xem là một “dân-tộc” riêng biệt. Một “nước” thần quyền đã thật sự được sanh ra như trong một ngày! Khi thời kỳ cuối cùng càng diễn tiến, tổ chức của dân sự mới này càng được điều chỉnh lại để giống với tổ chức vào thế kỷ thứ nhất (Ê-sai 60:17). Nhưng tổ chức đó luôn luôn theo thể thức thần quyền. Trong hạnh kiểm và sự tin tưởng, tổ chức đó luôn luôn phản ảnh các luật lệ và nguyên tắc được Đức Chúa Trời soi dẫn trong Kinh-thánh. Và tổ chức đó luôn luôn phục tùng Vua đương kim là Chúa Giê-su Christ (Thi-thiên 45:17; 72:1, 2).
22 Bạn có kết hợp với tổ chức thần quyền này không? Bạn có một địa vị quyền hành trong tổ chức ấy không? Nếu có, bạn có biết hành động theo cách thần quyền có nghĩa gì không? Bạn có biết mình phải tránh những cạm bẫy nào không? Hai câu hỏi chót sẽ được bàn luận trong bài kế tiếp.
Bạn có thể giải thích không?
◻ Thể chế thần quyền là gì?
◻ Nước Y-sơ-ra-ên là một thể chế thần quyền theo nghĩa nào?
◻ Đức Giê-hô-va sắp đặt thế nào để nhắc nhở các vua rằng nước Y-sơ-ra-ên là một thể chế thần quyền?
◻ Hội thánh tín đồ đấng Christ là một thể chế thần quyền theo nghĩa nào, và hội thánh được tổ chức ra sao?
◻ Tổ chức thần quyền nào đã được thành lập vào thời chúng ta?